Điều 15 Bộ Luật hình sư quy định về phòng vệ chính đáng:
“1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự”
Để giúp bạn đọc hiểu rõ hơn quy định này, chúng tôi xin giới thiệu một số phân tích của Ths Đinh Văn Quế về những yếu tố (điều kiện) để được coi là phòng vệ chính đáng hoặc vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (tình tiết giảm nhẹ) như sau:
1. Về phía nạn nhân (người bị chết hoặc bị thương tích)
Nạn nhân phải là người đang có hành vi xâm phạm đến các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của cá nhân người phòng vệ hoặc của người khác (người thứ ba).
Hiện nay, trong một số sách báo pháp lý, vấn đề phòng vệ tưởng tượng cũng còn có những quan điểm khác nhau: Có quan điểm cho rằng phòng vệ tưởng tượng không phải là phòng vệ chính đáng, vì không có cơ sở cửa quyền phòng vệ, vấn đề trách nhiệm hình sự vẫn được đặt ra và được giải quyết như mọi trường hợp sai lầm khác.
Pháp luật Việt nam không thừa nhận hành vi phòng vệ trước (phòng vệ từ xa), tức là chưa có sự tấn công mà đã có hành vi nhằm ngăn chặn sự tấn công như: đấu dòng điện vào cánh cửa để phòng trộm, dùng bẫy để đề phòng người gian...Nếu việc phòng vệ trước này lại gây ra hậu quả làm chết người hoặc gây thương tích cho người khác thì họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự như các trường hợp tội phạm thông thường (giết người hoặc cố ý gây thương tích). Tuy nhiên, thực tiễn xét xử nếu hành vi phòng vệ trước lại gây thiệt hại cho đúng người phạm pháp thì người phạm tội cũng được chiếu cố giảm nhẹ đáng kể.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm, nhưng nếu hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại thì là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, trách nhiệm hình sự đối với họ được giảm nhẹ rất nhiều so với trường hợp tội phạm không thuộc trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Bộ luật hình sự quy định hai trường hợp tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, đó là giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 96) và cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106) được coi là cấu thành giảm nhẹ đặc biệt (tình tiết vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là dấu hiệu định tội của hai tội danh này). Tuy nhiên, hành vi phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng còn là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, ngoài hai trường hợp đã được quy định tại Điều 96 và Điều 106, thì không có trường hợp tội phạm nào thuộc trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng nữa; nếu theo quy định tại khoản 3 Điều 46 Bộ luật hình sự thì “các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt”. Do đó có ý kiến cho rằng việc quy định tình tiết phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là tình tiết giảm nhẹ là không cần thiết. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, việc quy định phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là một tình tiết giảm nhẹ vẫn cần thiết, vì thực tiễn xét xử có một số trường hợp giết người hoặc cố ý gây thương tích thuộc trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng nhưng căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi chống trả với hành vi phòng vệ chưa thuộc trường hợp quy định tại Điều 96 hoặc Điều 106 mà thuộc trường hợp tội phạm giết người quy định tại Điều 93 hoặc cố ý gây thương tích quy định tại Điều 106, thì người phạm tội vẫn được áp dụng tình tiết giảm nhẹ là tội phạm trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Chúng tôi đồng ý với quan điểm này. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là phải xác định trường hợp nào thì là dấu hiệu định tội của hai tội quy định tại Điều 96 và Điều 106 Bộ luật hình sự, còn trường hợp nào chỉ là tình tiết giảm nhẹ định tại điểm c khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự (vượt bao nhiêu thì là dấu hiệu định tội, còn vượt bao nhiêu chỉ là tình tiết giảm nhẹ) ? đây là vẫn đề rất khó xác định cần phải có hướng dẫn của các cơ quan tiến hành tố tụng ở trung ương.
Trân trọng.
Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình