ĐOÀN LUẬT SƯ TP.HCM
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ GIA ĐÌNH
Trụ sở chính: 402A Nguyễn Văn Luông,
P. 12, Q. 6, TP. Hồ Chí Minh, 64 Võ Thị Sáu, Tân Định, Quận 1, TPHCM.
Chi nhánh: 5/1 Nguyễn Du, Quang Vinh,
Biên Hòa, Đồng Nai
ĐT: 0972238006 – 028.38779958
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Văn phòng luật sư Gia
Đình là một hãng luật được quyền cung cấp dịch vụ pháp lý là luật sư tư vấn
pháp luật thường xuyên trên Đài Truyền hình HTV7, HTV9, Đài truyền hình Vĩnh
Long, Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình cáp VTC, Truyền hình Cần
Thơ, Đài VOV Giao Thông, SCTV, Truyền hình Công an ANTV, Truyền hình Quốc hội
Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo công an nhân
dân, Báo Công an TPHCM, Thanh Niên, Báo pháp luật… và nhiều hãng báo chí
khác... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều
cuộc thi Phiên tòa giả định Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Đại học Cảnh
sát nhân dân. Là Luật sư bào chữa, tư vấn, bảo vệ cho nhiều vụ án
trên mọi lĩnh vực…
|
BÀI BÀO CHỮA CHO BỊ CAN LÝ MỸ
TƯƠI CỦA LS TRẦN MINH HÙNG VÀ LÊ VĂN THÔNG – VPLS GIA ĐÌNH – ĐOÀN LS TPHCM
I/
Viện kiểm sát căn cứ vào số lượng là 300kg để cho rằng bị cáo Tươi có hành
vi mua bán chất độc có số lượng Rất lớn, để từ đó cho rằng bị cáo Tươi phạm vào
điểm a khoản 3 Điều 311 của Bộ luật hình sự sửa đổi 2017 là chưa có căn cứ:
Tuy nhiên, hiện nay
pháp luật chưa có quy định nào
xác định: “Vật phạm
pháp có số lượng lớn; Vật phạm pháp có số lượng rất lớn và vật phạm pháp có số
lượng đặc biệt lớn” quy định tại khoản 2, 3,4, Điều 311. Như vậy, căn cứ
nguyên tắc có lợi cho bị can bị cáo việc truy tố bị cáo vào khung 3 là không
đúng pháp luật, oan về khung hình phạt cho bị cáo. Bị cáo cũng không thu lợi
bất chính từ số tiền bán được chất này.
Để xác định được
tội danh và định khung hình phạt của tội danh này thì cần xác định 2 yếu tố đó
là:
-
Có hành vi mua bán trái phép chất cháy, chất độc.
-
Và xác định được số lượng của vật phạm pháp, Hậu quả không
phải là yếu tố bắt buộc trong cấu thành tội phạm.
Như đã nêu trên,
thì pháp luật hình sự hiện nay chưa có quy định rõ như thế nào là Vật phạm pháp
có số lượng rất lớn? vậy kết luận điều tra và cáo trạng của viện kiểm sát căn
cứ vào đâu để xác định bị cáo Tươi phạm vào điểm a khoản 3 Điều
311 của Bộ luật hình sự sửa đổi 2017? Là vật phạm pháp có số lượng rất lớn?
Trong trường
hợp này tôi cho rằng cơ quan tiến hành tố tụng chưa có cơ sở, không có căn cứ
pháp lý để xác định bị cáo tươi có hành vi mua bán với số lượng lớn. Do đó,
việc luận tội của cơ quan tiến hành tố tụng là chưa phù hợp, thiếu cơ sở pháp
lý, việc áp đặt này không có lợi cho bị cáo.
Theo Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày
07/01/1995 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ hướng dẫn áp dụng Điều 95, Điều 96, BLHS năm 1985, theo
đó: Chất độc là những chất có độc tính rất cao và rất có hại đối với sức khoẻ
và tính mạng của con người, nếu bị nhiễm phải một liều lượng nhất định nào đó
(có thể là rất ít). Việc xác định số lượng vật phạm pháp để truy cứu trách nhiệm hình sự
theo các khoản của Điều 96 BLHS phải căn cứ vào tính năng, tác dụng, giá trị sử
dụng, tính nguy hiểm của từng loại chất.
Như vậy chưa có quy định cụ thể để làm
căn cứ xác định số lượng lớn, rất lớn, đặc biệt lớn.
Tôi kiến nghị, Tòa
án cần phải xin giải đáp Tòa án tối cao về vấn đề xác định số lượng vật phạm
pháp nhằm giải quyết đúng vụ án, đúng người đúng tội và đầy đủ cơ sở pháp lý,
tránh oan sai cho Tươi.
II/ Các kết luận điều tra và cáo trạng của viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Quảng Nam đều nhận định, bị cáo tươi có hành vi bán trái phép chất độc
được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 311 BLHS, tuy nhiên tôi cho rằng việc
luận tội này chưa phù hợp với tinh thần của quy định pháp luật, bởi lẽ:
Một: Hành vi trái phép ở đây được
hiểu là cá nhân, tổ chức có hành vi mua bán chất độc nhưng những chủ thể này (gồm bên bán và bên mua) không đủ điều
kiện được quy định tại luật Hóa chất năm
2007 và Điều 17 Nghị định 113/2017 của chính phủ. Xét theo hồ sơ thì hành vi
mua bán chất độc giữa Giàu và Lĩnh là trái phép, vì bị cáo Giàu thừa nhận không
có giấy phép về kinh doanh hóa chất hạn chế và Lĩnh cũng không có giấy phép. Đối
với trường hợp bên bán không có giấy phép kinh doanh, giấy phép hạn chế kinh
doanh trong lĩnh vực Công nghiệp thì hành vi bán chất độc trái phép phạm vào
tội “Mua bán trái phép chất độc” tại Điều 311, BLHS năm 2015. Tuy nhiên, Trong
quá trình điều tra và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì thể hiện
rõ bị cáo Tươi là phó giám đốc công ty Xương Minh, theo giấy phép số: 43/GP-BCT
ngày 28/1/2021 do Bộ Công Thương cấp. Công ty Xương Minh có đủ điều kiện được
kinh doanh hóa chất hạn chế trong đó có chất Xyanua (NaCN). Bị cáo Tươi thừa
nhận bị cáo Giàu có đến công ty Xương Minh để liên hệ bị cáo Tươi mục đích mua
hóa chất Xyanua (bút lục: 1360), tuy nhiên bị cáo Tươi là phó giám đốc công ty
Xương Minh- căn cứ vào Giấy phép mà bộ Công thương cấp cho Xương Minh thì đủ
điều kiện bán hóa chất hạn chế Xyanua này.
Căn cứ vào bút lục số 215 thì Giàu nói
với Tươi là mua Xyanua để các công ty sử dụng vào si mạ kim loại, làm vàng,
không vì mục đích kinh doanh, tuy nhiên trên thực tế Giàu mua và bán lại cho
Lĩnh.
Như vậy, xét về chủ thể tham gia giao
dịch mua bán (gồm Tươi và Giàu) thể hiện rõ: Tươi là chủ thể có đủ điều kiện
kinh doanh hóa chất – vì Tươi là phó giám đốc công ty xương Minh (công ty này
có đủ điều kiện kinh doanh), còn giàu thì không đủ điều kiện kinh doanh.
Căn cứ vào điều 17 nghị định 113/2017/nđ-cp ngày 09/10/2017 quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của luật hóa chất như sau:
“Điều 17. kiểm soát hóa chất hạn chế sản
xuất, kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp
1.
Toàn bộ hóa đơn Giá trị gia tăng và hóa đơn bán hàng liên quan đến hoạt động
mua, bán hóa chất hạn chế sản xuất, kinh doanh phải ghi rõ ràng, đầy đủ tên hóa
chất theo Danh mục quy định tại Phụ lục II của Nghị định này.
2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hóa chất hạn chế sản xuất, kinh
doanh chỉ được bán cho các tổ chức, cá nhân đảm bảo các điều kiện sau đây:
a) Tổ chức, cá nhân mua hóa chất để kinh doanh phải đảm bảo đủ
điều kiện kinh doanh hóa chất hạn chế sản xuất, kinh doanh quy định tại Điều 15
của Nghị định này;
b) Tổ chức, cá nhân mua hóa chất
để sử dụng phải đảm bảo đủ các yêu cầu quy định tại Chương V của Luật hóa chất”.
căn cứ Khoản 9 Điều 1 Nghị định Số: 17/2022/NĐ-CP ngày 31 tháng 01 năm
2022 quy định về Sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 71/2019/NĐ-CP ngày
30 tháng 8 năm 2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hóa chất và vật liệu nổ công nghiệp
“Điều 18. Vi phạm quy định về kiểm soát hóa chất hạn chế sản xuất,
kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp
1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến
10.000.000 đồng đối với hành vi bán hóa
chất hạn chế sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp cho tổ chức, cá
nhân mua hóa chất để sử dụng nhưng không đảm bảo các quy định về sử dụng hóa
chất nguy hiểm.
2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
15.000.000 đồng đối với hành vi bán hóa
chất hạn chế sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp cho tổ chức, cá
nhân mua hóa chất để kinh doanh nhưng không đảm bảo đủ điều kiện kinh doanh hóa
chất hạn chế sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp theo quy định.
3. Hình thức xử phạt bổ sung:
Tước quyền sử dụng Giấy phép kinh doanh hóa chất hạn chế sản xuất,
kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp từ 03 tháng đến 06 tháng đối với hành vi
vi phạm quy định tại khoản 2 Điều này”.
Căn cứ vào quy định trên thì hành vi Tươi bán cho Giàu
thuộc trường hợp bán
hóa chất hạn chế sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp cho tổ chức,
cá nhân mua hóa chất để kinh doanh nhưng không đảm bảo đủ điều kiện kinh doanh
hóa chất hạn chế sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp theo quy định
được quy định tại Khoản 2 Điều 18 nghị định số: 71/2019/NĐ-CP ngày
30 tháng 8 năm 2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính hóa chất
và vật liệu nổ công nghiệp.
Như vậy, trường
hợp này Tươi có vi phạm về kiểm soát hóa chất hạn chế, tuy nhiên hành vi của
Tươi thuộc trường hợp bị xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại Khoản 2 Điều 18 nghị định số: 71/2019/NĐ-CP
như đã trích dẫn trên.
Do đó, việc cơ
quan tiến hành tố tụng cho rằng Tươi có hành vi mua bán chất độc trái phép là
chưa có căn cứ, không đúng với hành vi thực tế mà các bên đã thực hiện mà trong
hồ sơ vụ án thể hiện rõ, có dấu hiệu oan sai cho bị cáo.
Hai: ý thức chủ quan
của Tươi về việc bán Xyanua cho Giàu chưa đủ cấu thành tội
phạm xét về mặt chủ quan của tội phạm.
Căn cứ vào bút lục số 215 và 219 thì Giàu khai việc mua bán
với Tươi là do Giàu cố tình cung cấp thông tin sai sự thật, lừa dối Tươi là mua
cho các công ty dùng trong Xi mạ kim loại, khai thác vàng … (tức dùng trong
công nghiệp), trước khi mua bán thì Tươi đã chủ động hỏi Giàu mua làm gì (tức
muốn xác định mục đích sử dụng chất độc Xyanua), yêu cầu Giàu cung cấp giấy
phép kinh doanh, sử dụng chất Xyanua… nhưng Giàu cố tình cung cấp thông tin sai
sự thật, lừa dối Tươi là mua cho các công ty dùng trong Xi mạ kim loại, khai
thác vàng và các công ty này đều có đủ điều kiện sử dụng kinh doanh hóa chất,
Giàu hứa và cam kết sẽ cung cấp sau cho Tươi. Tuy nhiên sau đó thì Giàu không
cung cấp.
Căn cứ vào bút lục số 219 thì Giàu khai nhận: “vì trước đây tôi thường xuyên chuyển hóa
chất từ công ty chị Tươi cho các công ty sử dụng hóa chất nên chị Tươi tin tưởng
mà bán 300kg Xyanua cho tôi”
Biên bản hỏi cung lúc 14h ngày 14/3/2022 thì bị cáo Giàu
khai: “tôi có nói với chị tươi như vậy
thì chị tươi mới bán Xyanua cho tôi và nghĩ tôi mua cho một công si mạ có phép
sử dụng Xyanua nhưng trên thực tết tôi sử dụng 300kg này bán cho anh Lĩnh”.
Qua những chứng cứ này cho thấy Giàu đã cố tình dùng thủ đoạn gian dối để lừa
Tươi, lợi dụng lòng tin của Tươi vì là nơi vận chuyển hóa chất hạn chế lâu năm
để qua mặt Tươi về giấy phép kinh doanh hóa chất.
Sau
khi bán và Giàu thanh toán số tiền: 42.300.000 đồng thì Tươi có khai đã thanh
toán lại cho công ty Xương Minh khoản tiền này. Như vậy, xét về hành vi thì Tươi lấy
hàng từ công ty Xương Minh để bán, có thông báo cho bà Hằng là Giám đốc về việc
có người đặt mua hàng, bà Hằng yêu cầu bà Tươi yêu cầu bên mua cung cấp giấy
phép thì mới được bán, bán phải bảo đảm đúng luật. Tuy nhiên như đã trình bày,
Tươi đã bán cho Giàu, xuất hàng cho Giàu nhưng vì Giàu dùng thủ đoạn gian dối
để lừa Tươi (cụ thể là cam kết có giấy phép và cung cấp sau). Tươi không phải
tự mình lấy hàng Xyanua trái phép, không có nguồn gốc để bán. Số lượng
300kg Xyanua Tươi xuất cho Giàu được lấy
trong số hàng có nguồn gốc từ Công ty Xương Minh mua bán hợp pháp với công ty
Mekong.
Tươi chỉ vì tin Giàu, do Giàu cam kết có
giấy phép và cung cấp sau, ngoài ra cũng quen biết là nơi vận chuyển hóa chất
nhiều năm tại Tp.HCM nên mới tin và tạo điều kiện cho Giàu có thể cung cấp sau,
đây chính là lời khai Giàu, không phải Tươi tự khai. Như vậy, Tươi có lỗi là
quá trình bán sai quy định, như không lập và lưu phiếu kiểm soát, có xác nhận
của bên mua, bên bán theo quy định của Luật Hóa chất năm 2007 chứ không phải là
bên không có đủ điều kiện kinh doanh.
Như vậy, xét về ý chí chủ quan thì trước khi chấp nhận việc
bán Xyanua cho Giàu thì Tươi đã chủ động xác định rõ với Giàu mục đích mua
Xyanua vào mục đích gì, có giấy phép hay không…, tức là Tươi có ý chí chủ quan
là tuân theo quy định kinh doanh về bán hóa chất hạn chế, chứ không phải cố
tình không tuân thủ pháp luật. Nhưng vì tin tưởng Giàu và bị Giàu cố tình dùng
thủ đoạn gian dối để lừa Tươi dẫn tới việc Tươi xuất số lượng Xyanua trên cho
Giàu.
Tuy nhiên, như đã phân tích tại ý thứ 2 nêu
trên, thì Theo tôi, bên bán (Tươi) có giấy phép kinh doanh buôn bán hóa chất,
chất độc, tuy nhiên chỉ là quá trình bán sai quy định, như không lập và lưu
phiếu kiểm soát, có xác nhận của bên mua, bên bán theo quy định của Luật Hóa
chất năm 2007 – tuy nhiên lỗi này cũng là do bị cáo Giàu cố tình dùng thủ đoạn
gian dối từ đầu, lợi dụng lòng tin.
Trong cấu thành tội mua bán chất
độc mặt chủ quan của tội phạm phải là lỗi cố ý trực tiếp, nhưng qua hồ sơ vụ
án, qua bản khai Giàu tôi nêu trên thì lỗi của Tươi không phải là lỗi cố ý. Vì
ý chí chủ quan của Tươi không phải cố tình bán hóa chất cho người không có giấy
phép, và số hóa chất này (300kg) này có giấy phép như tôi nêu trên, giàu nói
dối Tươi để được mua hóa chất như bút lục tôi nêu trên. Như vậy, hành vi của
tôi không phải lỗi cố ý trực tiếp, hành vi của Tươi chưa thỏa mãn cấu thành tội
mua bán chất độc theo quy định tại điều 311.
Ba: Trong vụ án
này, qua hồ sơ vụ án cho thấy việc bán này Tươi cũng không có lợi ích riêng,
không có tư lợi riêng, tiền thu từ việc bán hóa chất chỉ là 42,300,000vnđ Tươi
đều trả về công ty, số tiền không phải lớn, Tươi không thu lợi riêng cho mình.
Như vậy, việc truy tố Tươi tới khoản 3 là không phù hợp, không đúng với tính
chất hành vi.
Trong quá trình mua bán không xảy ra hậu
quả chết người hay hậu quả khác, số hóa chất cũng đã kịp thời thu giữ. Do đó hành vi của của Tươi (bên
bán) chưa đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất độc tại Điều 311, BLHS
năm 2015 mà chỉ bị xử lý hành chính theo quy định tại Nghị Định 71/2019/NĐ-CP
của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hóa chất và
vật liệu nổ công nghiệp như đã trích dẫn nêu trên.
Bốn:
Bị
cáo Tươi bị bệnh động kinh co giật toàn thể được thể hiện trong hồ sơ bệnh án được thể hiện rõ tại bút lục số 1101-1162
và kết luận pháp y tâm thần số: 356/KL-VPYTW ngày 23/5/2023 và một số lời chứng
của người hàng xóm nơi Tươi cư trú thì Tươi bị mắc bệnh này từ năm 2009 cho tới
giai đoạn hiện nay vẫn đang điều trị thường xuyên liên tục. Mặc dù kết luận
Tươi không tâm thần nhưng bệnh án cho thấy Tươi có nhận thức không đầy đủ về
hành vi.
Do
mắc căn bệnh này nên Bị cáo Tươi nhiều lúc bị hạn chế về suy nghĩ và nhận thức
nên hội đồng xét xử cần cân nhắc tính chất hành vi của
Tươi.
Ngoài ra cần xem xét bị cáo phạm tội lần đầu, nhân
thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai sự thật, lao động chính
trong gia đình vì cha mẹ đã già, việc Tươi bị bắt đã làm cha Tươi lo lắng mà bệnh
nặng chết năm 2023, có 1 phần lỗi lớn Giàu nói dối Tươi, Tươi vì động kinh nên
nhiều khi nhận thức không đầy đủ…là những tình tiết mà tòa án cần xem xét cho
Tươi khi xét xử.
Tôi yêu cầu Tòa án xem xét áp dụng nguyên tắc có lợi
cho bị can bị cáo khi Luật chưa có quy định cụ thể “Vật phạm pháp có số lượng lớn; Vật phạm pháp có số lượng rất lớn
và vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn” nên áp dụng cho Tươi khoản 1, điều 311 để tránh oan
sai về áp dụng khung hình phạt cho Tươi.
Ngoài ra, tòa án cần xem xét ý thức chủ
quan của Tươi, mặt chủ quan của tội phạm hành vi Tươi chưa thỏa mãn cấu thành
tội phạm, cần xem xét miễn trách nhiệm hình sự cho Tươi theo quy định tại Điều 29 BLHD Quy định về Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự như sau:
1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong
những căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi
chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội
nữa;
b) Khi có quyết định đại xá.
2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một
trong các căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình
hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc
bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;
c)
Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện
và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và
lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
3. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội
phạm nghiêm trọng do vô ý gây
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người
khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa
giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình
sự.
Như
vậy, xét theo ý chí chủ quan thì Tươi vô ý theo khoản 3 điều 29 BLHS 2015, SĐ,
BS 2017.
Xét theo số lượng rất lớn thì hiện nay chưa có quy
định nào quy định là số lượng phạm pháp rất lớn theo quy định tại khoản 3, điều
311. Trong khi đó TAND tối cao đang dự thảo Nghị quyết hướng dẫn áp dụng
một số quy định tại Điều 311, Điều 312 và Điều 313 của Bộ luật Hình sự số
100/2015/QH13 được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số
12/2017/QH14 (Bộ luật Hình sự). Dự thảo có quy định như sau:
“Vật phạm
pháp có số lượng rất lớn quy định tại Điểm a Khoản 3 Điều 311 của Bộ luật
Hình sự được xác định như sau: Chất cháy, chất độc có khối lượng từ 6.000 kg
đến dưới 30.000 kg; chất cháy, chất độc ở thể lỏng, khí có thể tích từ 7.500 ml
đến dưới 37.500 ml.”
Như vậy, xét theo dự thảo trên thì vật phạm pháp có số lượng rất lớn phải từ
6.000kg đến dưới 30.000 kg; chất cháy, chất độc mới thỏa mãn cấu thành khoản 3,
điều 311. Như vậy khi tiến hành
điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho
hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa thì miễn TNHS
(điểm a, khoản 2 điều 29). Do vậy, Tươi thỏa mãn nên yêu cầu hđxx miễn trách
nhiệm hình sự cho Tươi. Bởi đến thời điểm này chưa có quy định nào quy định thế
nào là số lượng phạm pháp rất lớn.
Xét
theo khoản 2, điểm b điều 29 HLHS thì tươi bị động kinh nặng, theo hồ sơ Tươi
có thể co giật bất cứ lúc nào, có thể té, ngất trong khi ăn, đi vệ sinh nếu
không cấp cứu kịp thời nên thuộc dạng bệnh hiểm nghèo, Tươi thỏa mãn đủ miễn
THNS.
Nếu
chưa đủ căn cứ đề nghị HĐXX tuyên hành vi bị cáo không cấu thành tội phạm.
Kính mong HĐXX xem
xét tránh oan sai cho Tươi.
Trân trọng cảm ơn.
LS TRẦN MINH HÙNG CHUYÊN GIA UY TÍN TRÊN TRUYỀN HÌNH TPHCM
|