1. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị xử lý như thế
nào?
Thế nào là lừa đảo
chiếm đoạt tài sản?
Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản là hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chủ sở hữu, người quản lý tài sản tin
tưởng và giao tài sản nhằm mục đích chiếm đoạt.
Để lừa được chủ sở hữu
hoặc người quản lý tài sản, người thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản
có thể sử dụng nhiều cách khác nhau như: bằng lời nói dối, giả mạo giấy tờ, giả
danh người có chức vụ, quyền hạn, giả danh cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội…
Tùy thuộc vào giá trị
tài sản bị chiếm đoạt mà người lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể bị phạt xử lý
hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Nhà nước.
Mức phạt hành chính
cho hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Đối với hành vi lừa
đảo chiếm đoạt tài sản của người khác lần đầu và chưa đến mức chịu trách nhiệm
hình sự (tài sản bị lừa đảo có trị giá dưới 02 triệu, không phải phương tiện
kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, không gây ảnh hưởng xấu đến an
ninh, trật tự, an toàn xã hội) thì bị phạt hành chính.
Theo khoản 1 Điều 15
Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định, phạt tiền từ 01 - 02 triệu đồngđối với hành
vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác.
Như vậy, người thực
hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới mức chịu trách nhiệm hình sự có
thể bị phạt hành chính đến 02 triệu đồng.
Truy cứu trách nhiệm
hình sự về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm
2017.
Theo đó, người nào
bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 02 đến dưới
50 triệu đồng hoặc dưới 02 triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến
03 năm:
- Đã bị xử phạt vi
phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
- Đã bị kết án về tội
này hoặc về một trong các tội: cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản,
cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, trộm cắp
tài sản, lạm dụng uy tín nhằm chiếm đoạt tài sản, sử dụng mạng máy tính, mạng
viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, chưa được
xóa án tích mà còn vi phạm;
- Gây ảnh hưởng xấu
đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
- Tài sản là phương
tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
Phạt tù từ 02 năm đến
07 năm khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Phạm tội có tổ chức;
- Có tính chất chuyên
nghiệp;
- Chiếm đoạt tài sản
trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng;
- Tái phạm nguy hiểm;
- Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
- Dùng thủ đoạn xảo
quyệt;
Phạt tù từ 07 năm đến
15 năm khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp:
- Chiếm đoạt tài sản
trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng;
- Lợi dụng thiên tai,
dịch bệnh.
Nặng nhất, người phạm
tội có thể bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân khi lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trị giá 500 triệu đồng trở lên hoặc lợi dụng hoàn cảnh chiến
tranh, tình trạng khẩn cấp để lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Bên cạnh đó, người
phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 10 - 100 triệu
đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01
năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Lưu ý: Căn cứ theo
Điều 12 Bộ luật Hình sự, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì không phải
chịu trách nhiệm hình sự về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, người
dưới 16 tuổi vẫn có thể bị xử phạt hành chính với hành vi lừa đảo chiểm đoạt
tài sản.
Nếu xảy ra thiệt hại,
người lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn phải đền bù cho người bị lừa đảo theo quy
định tại Điều 586 Bộ luật Dân sự 2015. Cụ thế như sau:
- Người chưa đủ 15
tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt
hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây
thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu.
- Người từ đủ 15 tuổi
đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình;
nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu
bằng tài sản của mình.
Như vậy, người phạm
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03
năm, phạt tù đến 20 năm hoặc tù chung thân. Đồng thời, có thể bị phạt tiền đến
100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định đến 05 năm hoặc tịch thu toàn bộ tài sản.
2. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có được
hưởng án treo?
Hỏi: Bạn tôi bi Viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện truy tố về tội lừa đảo theo Điều 139 khoản 2 điểm
e. Bạn tôi đã khắc phục hậu quả, là lao động chính đang nuôi 02 con nhỏ dưới 6
tuổi chưa có tiền án tiền sự, gia đình có ông nội và bố đẻ có công với cách
mạng. Hành vi này mức án thế nào, có được hưởng án treo không?
Trả lời có tính chất tham
khảo
Chào bạn!
Khoản 2 Điều 139 Bộ
luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) có quy định về Tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản như sau:
“2. Phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên
nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo
quyệt;
e) Chiếm đoạt tài sản
có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm
trọng.”
Bên cạnh đó, Điều 60
Bộ luật Hình sự năm 1999 có quy định về Án treo cụ thể như sau:
“1. Khi xử phạt tù
không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm
nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho
hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.
5. Đối với người được
hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Toà án quyết định
buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của
bản án mới theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật Hình sự.”
Như vậy, trong trường
hợp nói trên, bạn của bạn bị Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện truy tố về tội
lừa đảo theo Điều 139 khoản 2 điểm e “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi
triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng” và tùy thuộc vào các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự, hoặc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà
bạn của bạn có thể bị Tòa án nhân dân tuyên phạt hình phạt tù với mức hình phạt
từ 2 đến 7 năm tù.
Mặt khác, nếu hành vi
phạm tội nói trên của bạn của bạn bị Tòa án xử phạt tù nhưng không quá ba năm.
Bạn của bạn có nhân thân tốt, các tình tiết mà bạn kể trên của bạn của bạn được
Tòa án xác định là các tình tiết giảm nhẹ và nếu Tòa án xét thấy không cần phải
bắt bạn của bạn phải chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án có thể cho bạn của bạn
hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.
Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV,
THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội
ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ
cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng
tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề
nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật
sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân,
tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó
khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù
hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có
tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và
chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống
của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của
luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công
bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.
Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn
phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh
nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều
năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình
uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam
(VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư
vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao
Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc
Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp
luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên
cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho
nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với
trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật
cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho
nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin,
người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank,
Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ
Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái...
và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính,
doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích
cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư
chúng tôi.
Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý
cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.
Trân trọng cảm ơn!.
|