Tại Điều 632, Bộ luật dân sự của nước CHXHCN Việt Nam năm 2005 ghi nhận về quyền thừa kế của cá nhân như sau: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật" và "Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật".
Mặt khác, tính đến thời điểm hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có bất kể quy định nào hạn chế cá nhân là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được hưởng quyền thừa kế tại Việt Nam. Do vậy, Việt kiều hoàn toàn có thể đứng tên trong danh sách những người được hưởng thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật tại Việt Nam.
Tuy nhiên, để có thể được hưởng phần thừa kế của mình bằng tài sản (đứng tên chủ sở hữu trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà) thì Việt kiều phải đáp ứng các điều kiện theo quy định tại Điều 1 Luật số 34/2009/QH12 (sửa đổi; bổ sung điều 126 của Luật Nhà ở và điều 121 của Luật Đất đai) ngày 18/06/2009, thì Việt Kiều phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép cư trú tại Việt Nam từ đủ 03 tháng trở lên hoặc có visa miễn thị thực và thuộc một trong các đối tượng sau:
- Người có quốc tịch Việt Nam;
- Người gốc Việt Nam thuộc diện người đầu tư trực tiếp về nước;
- Người có công đóng góp cho đất nước, nhà khoa học, nhà văn hóa, người có kỹ năng đặc biệt mà cơ quan, tổ chức Việt Nam có nhu cầu và đang làm việc tại Việt Nam;
- Người có vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam đang sinh sống trong nước.
Trong trường hợp Việt kiều không thỏa mãn các điều kiện trên thì Việt kiều chỉ có thể nhận phần thừa kế của mình bằng phần giá trị được hưởng trong khối di sản do người chết để lại.
VUI LÒNG LIÊN HỆ ĐẾN CHÚNG TÔI ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN MIỄN PHÍ
CẢM ƠN QUÝ KHÁCH ĐÃ TIN TƯỞNG CHÚNG TÔI TRONG THỜI GIAN QUA |