1.
Cháu ngoại có được hưởng thừa kế không?
• Nếu như trong di chúc của ông bà
có chỉ định để lại một phần hoặc toàn bộ di sản thừa kế cho cháu ngoại thì cháu
ngoại được quyền hưởng di sản thừa kế đó.
• Đối với thừa kế theo pháp luật,
người cháu thuộc hàng thừa kế thứ 2, như vậy nếu không còn ai ở hàng thừa kế
thứ 1 thì cháu sẽ được hưởng thừa kế.
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá
nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.
Người để lại di sản có quyền định
đoạt tài sản của mình cho bất kì ai theo ý chí của họ.
Do đó, nếu như trong di chúc của ông
bà có chỉ định để lại một phần hoặc toàn bộ di sản thừa kế cho cháu ngoại thì
cháu ngoại được quyền hưởng di sản thừa kế đó.
Tất nhiên, cần đáp ứng điều kiện về
hình thức và nội dung để di chúc này là hợp pháp theo quy định của pháp luật
dân sự.
Phần di sản thừa kế mà cháu ngoại
được hưởng là phần di sản mà ông bà định đoạt trong di chúc đó.
Cháu ngoại có được hưởng thừa kế
theo pháp luật không?
Để được hưởng thừa kế theo pháp luật
thì cá nhân trước hết cũng phải đáp ứng điều kiện chung đó là không thuộc
trường hợp người không được quyền hưởng di sản quy định tại Điều 621 Bộ luật
dân sự 2015.
Tuy nhiên, nếu người cháu đó có một
trong những hành vi nêu trên nhưng di chúc ông bà vẫn cho cháu hưởng, mặc dù
biết về hành vi đó thì cháu vẫn được chia di sản.
Khi ông bà chết mà không để lại di
chúc thì chia thừa kế theo thứ tự ưu tiên hàng thừa kế theo quy định tại Điều
651 Bộ luật dân sự 2015, cụ thể như sau:
• Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ,
chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
• Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội,
bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu
ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
• Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội,
cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của
người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ
ngoại.
Theo đó, đối với di sản thừa kế do
ông bà để lại, cháu ngoại được xác định thuộc hàng thừa kế thứ hai.
Như vậy, cháu ngoại vẫn có thể được
hưởng di sản thừa kế từ ông bà nếu chia thừa kế theo pháp luật.
Tuy nhiên, người cháu này chỉ được
hưởng thừa kế trong trường hợp không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết,
hoặc người thừa kế không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản
hoặc từ chối nhận di sản.
Ngoài ra, người cháu ngoại có thể
được hưởng thừa kế trong trường hợp thừa kế thế vị.
Căn cứ vào Điều 652 Bộ luật dân sự
năm 2015, trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời
điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của
cháu được hưởng nếu còn sống.
Như vậy, khi ông/bà chết không để
lại di chúc thì cháu ngoại có thể được hưởng thừa kế thế vị khi mẹ mình chết
trước hoặc chết cùng thời điểm với ông/bà nếu di sản thừa kế được chia theo
pháp luật.
2.
Tư vấn về phân chia di sản thừa kế ông bà để lại?
Tôi có một vấn đề kính nhờ luật minh
gia giúp đỡ: Bố mẹ tôi hiện đang ở trên đất có nguồn gốc do ông bà để lại và
ông bà tôi hiện đã mất cách đây hơn 40 năm, gia đình ông bà tôi có 6 người con
và đã có gia đình riêng, mảnh đất này bố mẹ tôi đã sinh sống được hơn 30 năm và
đã được nhà nước cấp sổ đỏ vào năm 2004.
Năm 2010 các anh em của bố mẹ tôi có
ép bố tôi phải cho chú tôi 1 lô đất và bố tôi có viết một tờ giấy tay có chữ ký
của bố mẹ tôi và các cô chú về việc cho lô đất (cái này là bị ép buộc chứ không
tự nguyện) và giấy này không có công chứng hay chứng thực hay có ai làm chứng.
Năm 2014 đất nhà tôi được cấp đổi từ sổ đỏ sang sổ hồng với diện tích tăng từ
400-600m2, đến năm 2016 các cô chú lại yêu cầu bố tôi tiếp tục viết lại giấy
tay như lần trước và lần này chỉ có bố tôi ký mà mẹ tôi không ký. Khoảng
T7/2017 các cô chú tôi có khởi kiện tại tòa án đòi bố mẹ tôi cắt đất cho chú
tôi, tuy nhiên sau nhiều lần hòa giải không thành thì T4/2018 bố tôi qua đời.
Nay các cô chú tôi vẫn tiếp tục kiện lên tòa án đòi mẹ tôi phải cắt đất. Vừa
rồi tòa án có lập hội đồng thẩm định xuống xem đất của nhà tôi nhưng mẹ tôi
không ký. Cho tôi hỏi:
- Với trường hợp này thì giấy tờ
viết tay như trên có hợp lệ không?
- Nếu các cô chú tôi kiện đòi chia
thừa kế thì có được không?
- Việc đất nhà tôi được cấp sổ mới
làm tăng diện tích đất từ 400-600m2 chú tôi cho rằng đã tính luôn phần đất mà
đã thỏa thuận cho chú tôi theo giấy tay (tuy nhiên bản chất không phải vậy) và
chú tôi yêu cầu tòa án phải đo đạc lại diện tích đất: cho tôi hỏi hiện chú tôi
không có quyền gì về thửa đất trên thì có thể yêu cẩu tòa án đo đạc lại hay
không? Và gia đình tôi phải làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình. Tôi xin chân
thành cảm ơn.
Trả lời tư vấn: Cảm ơn bạn đã gửi
câu hỏi đến Luật sư Gia Đình. Trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:
Thứ nhất, về giấy tờ viết tay của bố
mẹ bạn:
Căn cứ Điều 132 Bộ luật dân sự 2005
và Điều 127 Bộ luật dân sự 2015 quy định Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa
dối, đe dọa, cưỡng ép như sau:
"Khi một bên tham gia giao dịch
dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên
bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Lừa dối trong giao dịch dân sự là
hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai
lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên
đã xác lập giao dịch đó.
Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân
sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực
hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy
tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình."
Theo quy định trên, nếu một bên tham
gia giao dịch dân sự mà bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa
án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Đối chiếu với trường hợp của bạn, theo
thông tin bạn cung cấp nếu có căn cứ chứng minh hai giấy viết tay của bố mẹ bạn
là do bị ép buộc mà có thì gia đình bạn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp
đồng tặng cho vô hiệu. Khi đó cô chú bạn không thể căn cứ vào giấy viết tay để
yêu cầu gia đình bạn chia đất cho họ.
Thứ hai, về vấn đề phân chia di sản
thừa kế:
Theo thông tin bạn cung cấp thì mảnh
đất này nguồn gốc của ông bà bạn để lại. Nếu ông bà bạn đã mất và không để lại
di chúc thì mảnh đất được coi là di sản thừa kế của ông bà. Tuy nhiên năm 2004
gia đình bạn đã được cấp GCN đối với mảnh đất này, do đó bạn cần làm rõ có căn
cứ nào để gia đình bạn được cấp GCN không? (thông qua hợp đồng tặng cho của ông
bà, văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế,...). Trường hợp không đủ điêu
kiện được cấp GCN thì theo quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 106 Luật đất đai
2013, Nhà nước có quyền thu hồi GCN đã cấp. Khi đó, những người con của ông bà
có thể nộp đơn yêu cầu khởi kiện về quyền thừa kế. Và theo quy định tại Điều
651 Bộ luật dân sụ 2015, 6 người con của ông bà mỗi người sẽ được hưởng một
phần di sản bằng nhau (trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác).
Căn cứ Điểm a, tiểu mục 2.2, mục 2,
phần I Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP quy định thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế
như sau:
“a) Đối với trường hợp thừa kế mở
trước ngày 01/7/1996, thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện
theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị
quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
"hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế".
Khi xác định thời hiệu khởi kiện về
quyền thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 01/7/1991 và di sản là nhà ở
thì thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày 01/01/1999 không tính vào thời hiệu
khởi kiện.”
Khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế
1990:
“4- Đối với các việc thừa kế đã mở
trước ngày ban hành Pháp lệnh này thì thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2
Điều này được tính từ ngày công bố Pháp lệnh này.”
Và Điều 623 Bộ luật dân sự 2015 quy
định thời hiệu thừa kế như sau:
“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu
cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ
thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang
quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di
sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của
người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu
không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này….”
Theo các quy định trên thì thời hiệu
để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản kể từ thời
điểm mở thừa kế. Vì ông bà bạn đã mất cách đây 40 năm (tức là trước ngày công
bố Pháp lệnh thừa kế năm 1990), do đó thời điểm mở thừa kế được tính từ năm
1990. Thời hiệu để những người có quyền thừa kế yêu cầu chia di sản của ông bà
bạn là 30 năm, tính từ năm 1990. Như vậy, từ năm 1990 đến năm 2018 là 28 năm,
vẫn đang trong thời hiệu thừa kế nên cô chú bạn có quyền yêu cầu chia mảnh đất
mà ông bà bạn để lại. Vì bố bạn đã mất nên mẹ bạn, bạn cùng anh chị em bạn (nếu
có) sẽ thay bố bạn nhận phần di sản mà bố bạn được thừa kế từ ông bà.
Đối với phần diện tích đất tăng lên
nếu là tài sản ông bà bạn thì được coi là di sản thừa kế, còn nếu là tài sản do
bố mẹ bạn khai hoang, tạo lập, mua bán,… mà có thì cô chú bạn không có quyền
đối với phần đất này.
Như vậy, việc chú bạn nộp đơn lên
Tòa yêu cầu phân chia di sản thừa kế của ông bà là có cơ sở và phù hợp với quy
định pháp luật. Trường hợp có tranh chấp về diện tích thừa đất thì chú bạn có
thể yêu cầu Tòa án đo đạc và xác định lại diện tích mảnh đất đó.
3.
Đất làm nhà thờ họ có được chia thừa kế
Câu hỏi:
Tôi đang quản lý sử dụng 1700m2 đất.
Nguồn gốc đất là của bố mẹ chồng tôi được ông nội chia cho. Trên mảnh đất này
xưa kia đã từng có nhà thờ của họ Nguyễn - một dòng họ có từ hơn 300 năm nay,
nhưng các ngôi nhà thờ họ đã bị chiến tranh tàn phá và đã bị dỡ bỏ từ lâu chỉ
có ngôi nhà ở do mẹ chồng tôi xây lại vào năm 1983 trên nền ngôi nhà ở cũ của
bố mẹ chồng. Cuối năm 1983 khi mẹ chồng tôi mất thì giao lại cho tôi tiếp tục
quản lý trông nom nhà cửa. Trong bản đồ địa chính xã năm 1986 và 1993 tôi là
người đứng ra kê khai diện tích đất này. Hiện nay trên diện tích đất này ngoài
ngôi nhà của mẹ chồng xây năm 1983 còn có ngôi nhà tôi xây cho các con tôi ở,
sân gạch và cây cối. Năm 2001 tôi đã đồng ý cho một số người trong dòng họ
Nguyễn góp tiền để sửa sang lại ngôi nhà (25 triệu đồng) để dùng làm nơi thờ
cúng dòng họ và cho những người thuộc dòng họ Nguyễn đến thắp hương vào ngày
cúng giỗ. Nhưng lợi dụng việc này mà năm 2003 có một người cháu của tôi đã đứng
lên thu thập chữ ký của một số trưởng chi họ khởi kiện đòi nhà thờ họ và đòi
chia thừa kế đất đai của tổ tiên. Vậy như thế nào thì coi là đất của dòng họ?
Nếu là đất thờ cúng của dòng họ thì có thể yêu cầu chia thừa kế hay không?
Luật sư Gia Đình trả lời:
Căn cứ khoản 1 phần IV Quyết định số
201/CP ngày 01/7/1980 của Hội đồng Chính phủ về việc thống nhất quản lý ruộng
đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước quy định: “Để thực
hiện thống nhất quản lý ruộng đất, tất cả các tổ chức và cá nhân sử dụng đất
đều phải khai báo chính xác và đăng ký các loại ruộng đất mình sử dụng vào sổ
địa chính của Nhà nước. Uỷ ban nhân dân xã phải kiểm tra việc khai báo này”.
Theo dữ kiện bà nêu thì diện tích đất này có nguồn gốc từ ông nội của chồng chứ
không phải là đất của dòng họ Nguyễn. Sau khi mẹ chồng mất năm 1983 thì do bà
quản lý sử dụng. Trong bản đồ địa chính của xã năm 1986 thể hiện bà là người
đứng ra kê khai đăng ký việc sử dụng đất. Trong bản đồ địa chính năm 1993 thì
bà cũng đứng ra kê khai và đóng tiền sử dụng đất. Do đó bà được xác định là
người sử dụng đất chứ không phải dòng họ Nguyễn và dòng họ Nguyễn không uỷ
quyền cho bà thay mặt dòng họ kê khai.
Theo dữ kiện bà nêu thì trước kia
trên diện tích đất này đã từng có nhà thờ họ Nguyễn nhưng đã không còn hiện nay
chỉ có ngôi nhà ở do mẹ chồng xây năm 1983, sau khi mẹ chồng chết thì giao lại
cho bà tiếp tục quản lý nên tài sản này thuộc quyền sử dụng của bà. Điều 199 Bộ
luật dân sự quy định: “Trong trường hợp chủ sở hữu trực tiếp thực hiện quyền sử
dụng tài sản thuộc sở hữu của mình, thì chủ sở hữu được khai thác công dụng,
hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản theo ý chí của mình, nhưng không được gây
thiệt hại và làm ảnh hưởng đến lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của
người khác”.
Việc bà dành hai gian của ngôi nhà
bà đang ở làm nơi thờ cúng dòng họ Nguyễn là thuộc quyền của chủ sở hữu trong
việc sử dụng tài sản của mình.
Căn cứ khoản 1 Điều 234 Bộ luật dân
sự quy định: “Sở hữu chung của cộng đồng là sở hữu của dòng họ... đối với tài
sản được hình thành theo tập quán, tài sản do các thành viên của cộng đồng cùng
nhau đóng góp, được tặng, quyên góp, cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp
với quy định của pháp luật nhằm mục đích thoả mãn lợi ích chung hợp pháp của cả
cộng đồng”. Theo dữ kiện của bà nêu thì không có căn cứ xác định ngôi nhà mà bà
hiện nay đang sử dụng hai gian làm nhà thờ dòng họ Nguyễn mà của mẹ chồng xây
dựng từ năm 1983 trên diện tích đất được ông nội của chồng chia cho. Năm 2001
bà có đồng ý cho một số người trong họ Nguyễn đóng góp tiền (với số tiền 25
triệu đồng) để tu sửa nhằm mục đích cho họ đến đây cúng giỗ chứ không phải là
bà tặng cho ngôi nhà này làm nhà thờ họ Nguyễn. Việc đóng góp tiền tu sửa ngôi
nhà của một số người trong họ được coi là đồng sở hữu chung theo phần theo quy
định tại khoản 1 Điều 231 Bộ luật dân sự quy định: “Sở hữu chung theo phần là
sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối
với tài sản chung”. Căn cứ khoản 2 Điều này quy định: “Mỗi chủ sở hữu chung
theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với
phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thoả thuận khác”. Như vậy việc
đóng góp để tu sửa ngôi nhà mà bà dành để thờ cúng họ Nguyễn không phải là điều
kiện để xác lập quyền sở hữu của dòng họ đối với ngôi nhà này. Những người đóng
góp chỉ có quyền sở hữu đối với phần tài sản trị giá 25 triệu đồng mà mình đã
đóng góp. Nếu có tranh chấp và có yêu cầu chia tài sản chung theo phần thì sẽ
được trả bằng tiền đã đóng góp.
Giả sử diện tích đất bà đang sử dụng
là của dòng họ Nguyễn hoặc ngôi nhà thờ là của dòng họ Nguyễn thì căn cứ khoản
2 Điều 234 Bộ luật dân sự quy định: “Các thành viên của cộng đồng cùng quản lý,
sử dụng, định đoạt tài sản chung theo thoả thuận hoặc theo tập quán, vì lợi ích
của cộng đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”. Nên tài sản này
thuộc quyền định đoạt và sử dụng của tất cả các thành viên trong dòng họ. Vì
vậy người cháu được một số người trong dòng họ uỷ quyền khởi kiện đòi nhà đất
của dòng họ là chưa đầy đủ tư cách đại diện của dòng họ.
Căn cứ khoản 3 Điều 234 Bộ luật dân
sự quy định: “Tài sản chung của cộng đồng là tài sản chung hợp nhất không phân
chia”. Do đó giả sử diện tích đất và nhà thờ của dòng họ thì cũng không thể
chia thừa kế được.
Do vậy, trong vụ kiện này người cháu
phải chứng minh tư cách đại diện dòng họ của mình trong việc kiện đòi nhà thờ
họ (nếu là nhà thờ của dòng họ) và phải chứng minh diện tích nhà đất mà bà đang
sử dụng là tài sản của dòng họ theo quy định tại khoản 1 Điều 234 Bộ luật dân
sự.
4.
Quyền thừa kế nhà đất khi không có Sổ đỏ
Điều 609 Bộ luật Dân sự 2015 quy
định:
“Cá nhân có quyền lập di chúc để
định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp
luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.
Theo đó, di chúc phải được lập thành
văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.
Lưu ý: Di chúc miệng chỉ được lập
trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di
chúc bằng văn bản; sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc
còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.
Theo những quy định trên, người sử
dụng đất có quyền để lại quyền sử dụng đất của mình theo di chúc, theo pháp
luật. Tuy nhiên cần lưu ý, không phải trường hợp nào cũng có quyền lập di chúc
bằng văn bản có công chứng hoặc có chứng thực (vì Luật Đất đai có quy định
riêng).
1. Hướng dẫn lập di chúc khi không
có Giấy chứng nhận
Khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai 2013
quy định:
“1. Người sử dụng đất được thực hiện
các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho,
thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện
sau đây:
a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường
hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản
1 Điều 168 của Luật này;
b) Đất không có tranh chấp;
c) Quyền sử dụng đất không bị kê
biên để bảo đảm thi hành án;
d) Trong thời hạn sử dụng đất”.
Ngoài ra, tại điểm c khoản 3 Điều
167 Luật Đất đai 2013 còn quy định:
“c) Văn bản về thừa kế quyền sử dụng
đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được công chứng hoặc chứng
thực theo quy định của pháp luật về dân sự”.
Như vậy, nếu bạn đọc chỉ biết các
quy định trên thì sẽ hiểu “muốn thực hiện quyền thừa kế quyền sử dụng đất thì
thửa đất đó phải có Giấy chứng nhận”. Tuy nhiên, Điều 628 Bộ luật Dân sự 2015
quy định về hình thức di chúc bằng văn bản bao gồm 04 loại:
- Di chúc bằng văn bản không có
người làm chứng.
- Di chúc bằng văn bản có người làm
chứng.
- Di chúc bằng văn bản có công
chứng.
- Di chúc bằng văn bản có chứng
thực.
Tóm lại, chỉ khi lập di chúc bằng
văn bản có công chứng hoặc có chứng thực mới phải có Giấy chứng nhận (Sổ đỏ, Sổ
hồng). Hay nói cách khác, nếu không có Giấy chứng nhận thì sẽ bị từ chối yêu
cầu công chứng hoặc chứng thực,trừ 2 trường hợp; người sử dụng đất vẫn có quyền
lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng hoặc di chúc bằng văn bản có
người làm chứng, cụ thể:
* Di chúc bằng văn bản không có
người làm chứng
Căn cứ Điều 633 Bộ luật Dân sự 2015,
di chúc bằng văn bản không có người làm chứng được thực hiện như sau:
- Người lập di chúc phải tự viết và
ký vào bản di chúc.
- Việc lập di chúc bằng văn bản
không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631 Bộ luật Dân sự
2015, cụ thể:
+ Di chúc gồm các nội dung chủ yếu
sau:
. Ngày, tháng, năm lập di chúc.
. Họ, tên và nơi cư trú của người
lập di chúc.
. Họ, tên người, cơ quan, tổ chức
được hưởng di sản.
. Di sản để lại và nơi có di sản.
Ngoài các nội dung trên, di chúc có
thể có các nội dung khác.
+ Di chúc không được viết tắt hoặc
viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số
thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.
Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa,
sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên
cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.
* Di chúc bằng văn bản có người làm
chứng
Căn cứ Điều 634 Bộ luật Dân sự 2015,
di chúc bằng văn bản có người làm chứng được thực hiện như sau:
Trường hợp người lập di chúc không
tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết
hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người
lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm
chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và
ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản có
người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631 (như di chúc không có
người làm chứng) và Điều 632 Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể:
Mọi người đều có thể làm chứng cho
việc lập di chúc, trừ những người sau:
- Người thừa kế theo di chúc hoặc
theo pháp luật của người lập di chúc.
- Người có quyền, nghĩa vụ tài sản
liên quan tới nội dung di chúc.
- Người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
2. Quyền thừa kế khi đất không có
Giấy chứng nhận
Khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai 2013
quy định:
“1. Người sử dụng đất được thực hiện
các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho,
thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện
sau đây:
a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường
hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản
1 Điều 168 của Luật này;
b) Đất không có tranh chấp;
c) Quyền sử dụng đất không bị kê
biên để bảo đảm thi hành án;
d) Trong thời hạn sử dụng đất”.
Như vậy, điều kiện có Giấy chứng
nhận chỉ áp dụng khi người sử dụng đất thực hiện quyền thừa kế. Hay nói cách
khác, quy định trên chỉ áp dụng khi người sử dụng đất còn sống, thể hiện quyền
của mình bằng di chúc; khi người đó chết thì không được xem là thực hiện quyền
thừa kế vì không thể hiện ý chí của mình trước khi chết.
Theo Điều 649 Bộ luật Dân sự 2015,
thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa
kế do pháp luật quy định.
Khi chia thừa kế phải xác định đối
tượng được hưởng di sản (xác định người thừa kế) bằng cách xác định người thuộc
diện và hàng thừa kế.
* Diện thừa kế
Diện thừa kế là người có mối quan hệ
hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng (cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi và ngược lại)
với người chết.
Theo đó, không phải ai thuộc diện
thừa kế cũng được hưởng di sản vì phụ thuộc vào hàng thừa kế.
* Hàng thừa kế
Căn cứ khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân
sự 2015, những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: Vợ,
chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: Ông nội,
bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu
ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: Cụ nội,
cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của
người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ
ngoại.
Những người ở hàng thừa kế sau chỉ
được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có
quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Những
người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
Kết luận: Trên đây là hướng dẫn thực
hiện quyền thừa kế nhà đất khi không có Sổ đỏ. Theo đó, khi đất không có Sổ đỏ,
Sổ hồng thì người sử dụng đất được thực hiện quyền thừa kế của mình bằng cách:
Lập di chúc không có người làm chứng hoặc có người làm chứng. Nếu không thực
hiện quyền của mình thì khi chết vẫn chia thừa kế theo pháp luật.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng: Nhà
đất không có Sổ đỏ, Sổ hồng thì khi chia thừa kế có thể sẽ gặp một số vướng mắc
tùy vào từng trường hợp cụ thể.
5.
Giả mạo chữ ký để thừa kế tài sản giải quyết như thế nào?
Xin chào luật sư, xin luật sư tư vấn
giúp gia đình chúng tôi vấn đề thừa kế tài sản và giả mạo chữ ký: gia đình chúng
tôi có 8 người (2 nam và 6 nữ) sau khi ba tôi mất (năm 2013) có để lại một nhà
từ đường và 1 mảnh đất ruộng khoảng 2000m2. Gần đây chúng tôi mới biết được anh
thứ 4 đã bán mảnh đất và kêu người vào xem nhà để bán.
Qua dò hỏi chúng tôi biết được anh
thứ 4 đứng tên sổ đỏ từ năm 2007, khi lên phường chúng tôi được biết anh thứ 4
có 1 tờ giấy được ba mẹ tôi ký cho toàn bộ tài sản từ năm 2004 với 7 chữ ký của
chúng tôi. Chúng tôi hoàn toàn không biết sự tồn tại của tờ giấy này. Chúng tôi
mong luật sư tư vấn giúp bây giờ chúng tôi phải làm những gì để giữ lại nhà từ
đường và chứng thực những giấy tờ kia là giả mạo. Những thủ tục và mức án phí
như thế nào nếu phải đưa ra tòa.
Xin chân thành cảm ơn!
Luật sư Gia Đình trả lời:
Nếu ba bạn mất không để lại di chúc
thì những người được thừa kế theo Bộ luật dân sự năm 2015 như sau:
Điều 651. Người thừa kế theo pháp
luật
1. Những người thừa kế theo pháp
luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ,
chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông
nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết;
cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội,
cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của
người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ
ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng
được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau
chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không
có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Nếu ba mẹ bạn để lại di chúc nhưng
anh bạn lại giả mạo chữ ký vào giấy tờ đó thì bạn có chứng cứ chứng minh sự lừa
dối của anh trai bạn để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó thì bạn
có thể khiếu nại về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tới cơ quan đã
cấp giấy chứng nhận cho anh trai bạn theo Luật Khiếu nại năm 2011 của Quốc hội,
số 02/2011/QH13. Nếu khiếu nại không được giải quyết hoặc giải quyết không hợp
lý thì bạn có thể khởi kiện hành chính theo quy định của luật tố tụng hành
chính. Về phần chứng cứ thì những người được thừa kế có thể cung cấp chứng cứ
là chữ ký của mình hoặc có thể yêu cầu được giám định chữ ký. Sau khi tiếp nhận
đơn khiếu nại hoặc khởi kiện thì cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét và thực hiện
các thủ tục để giải quyết.
Theo danh mục án phí, lệ phí tòa án
thì án phí hành chính sơ thẩm là 300.000 đồng.
Nếu anh thứ tư dùng thủ đoạn gian
dối là tờ giấy được ba mẹ bạn ký cho toàn bộ tài sản từ năm 2004 với 7 chữ ký
của anh em bạn để chiếm đoạt mảnh đất thì anh thứ tư của bạn có thể sẽ bị truy
cứu trách nhiệm hình sự theo điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 (Bộ luật hình sự
sửa đổi, bổ sung năm 2017) như sau:
"Điều 174. Tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối
chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000
đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì
bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính
về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về
một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và
290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh,
trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống
chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng
có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.
2. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ
50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc
lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
g) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ
2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp
quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.
3. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ
200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ
50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp
quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá
500.000.000 đồng trở lên;
b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ
200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp
quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh,
tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt
tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc
toàn bộ tài sản".
Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia
tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi
là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên
viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm,
kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm
và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý-
cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư
bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là
nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư
luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư
thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề,
chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh
hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật
sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp
được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem
lại công bằng cho xã hội.
Luật
sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư
Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền
thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật
trên các Kênh truyền hình uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM
(HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long,
Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam,
Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát
thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi
trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an
nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học
luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường
ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học
uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật
sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng
trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng
Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu
giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa
Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự,
kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại
niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công
lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi
cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước
rất lâu năm.
Trân trọng
cảm ơn!.
|