ĐOÀN LUẬT
SƯ TP. HỒ CHÍ MINH
VĂN PHÒNG
LUẬT SƯ GIA ĐÌNH
----------------------
Trụ sở chính: 402A
Nguyễn Văn Luông, phường 12, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh.
Chi nhánh: 5/1 Đường
Nguyễn Du, phường Quang Vinh, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
SĐT: 028-38779958 - 0972238006
|
CỘNG HÒA
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
--------------------------
TP. Hồ Chí
Minh, ngày … tháng … năm 2024
|
ĐỀ CƯƠNG
BỒI DƯỠNG CHUYÊN MÔN, NGHIỆP VỤ LUẬT SƯ
(Cập
Nhật Kiến Thức Pháp Luật Về Tranh Chấp Dân Sự, Luật Đất Đai Mới và Kỹ Năng
Tranh Tụng; Quy Tắc Đạo Đức và Ứng Xử Hành Nghề Luật Sư)
PHẦN I: CẬP NHẬT KIẾN THỨC PHÁP LUẬT VỀ TRANH CHẤP
DÂN SỰ, LUẬT ĐẤT ĐAI MỚI VÀ KỸ NĂNG TRANH TỤNG
I.
TỔNG QUAN VỀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
1.
Hiểu thế nào về tranh chấp đất đai?
Tranh chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn
hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào
quan hệ pháp luật đất đai... các chủ thể tranh chấp đất đai chỉ là chủ thể quản
lý và sử dụng đất, không có quyền sở hữu đối với đất đai. Một quan điểm khác
cho rằng: Tranh chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn giữa các chủ thể (sử dụng
đất) trong việc xác định ai là người có quyền sử dụng đối với một (hoặc những)
thửa đất nhất định...Tranh chấp đất đai có thể bao hàm cả các tranh chấp về địa
giới giữa các đơn vị hành chính. Dưới góc độ là tranh chấp đất đai theo quy định
của Luật đất đai cũ thì tranh chấp đất đai là mọi tranh chấp phát sinh trong
quan hệ đất đai bao gồm tranh chấp về quyền sử dụng đất, tranh chấp về tài sản
gắn liền với đất, tranh chấp liên quan đến địa giới hành chính... Quan điểm này
được nhiều cơ quan có thẩm quyền giải quyết chấp nhận trong giải quyết.
Hiến pháp 2013 ghi nhận Đất đai thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Theo khoản 24
Điều 3 Luật đất đai 2013, "Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền,
nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất
đai".Tranh chấp đất đai là dạng tranh chấp phổ biến, phức tạp nhất hiện
nay do đó, để giải quyết tranh chấp đất đai cần phải xác định được các dạng
tranh chấp đất đai phổ biến.Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền sử dụng đất
nhưng không phải là tranh chấp về tài sản gắn liền với đất.
Khoản 24, Điều 3, Luật Đất đai năm 2013 có một
số quy định khác liên quan đến nội hàm của khái niệm tranh chấp đất đai như Khoản
14, Điều 22 quy định một trong những nội dung quản lý nhà nước về đất đai là
“Giải quyết tranh chấp về đất đai; Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý
và sử dụng đất đai”; Điều 203 quy định Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
(có thể thuộc về TAND hoặc Ủy ban nhân dân...).
2.
Đặc điểm
của tranh chấp đất đai
Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, Luật đất
đai và các văn bản pháp luật có liên quan đến đất đai (Bộ luật dân sự, Luật nhà
ở , Luật xây dựng, Luật kinh doanh bất động sản, v.v.) vụ án tranh chấp đất
đai có những đặc điểm sau đây:
+ Đối tượng của tranh chấp
đất đai là quyền quản lý, quyền sử dụng và những lợi ích phát sinh từ quá trình
sử dụng một loại tài sản đặc biệt không thuộc quyền sở hữu của các bên tranh chấp;
+ Các chủ thể tranh chấp
đất đai chỉ là chủ thể quản lý và sử dụng đất (được Nhà nước giao đất, cho thuê
đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất) hoặc người
khác có quyền, nghĩa vụ liên quan đến thửa đất, không có quyền sở hữu đối với đất
đai;
Trường hợp tranh chấp
không phát sinh giữa những chủ thể này với nhau liên quan đến thửa đất thì đó
là quan hệ tranh chấp khác. Ví dụ: tranh chấp phát sinh giữa người sử dụng đất
với Cơ quan có thẩm quyền trong việc giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử
dụng đất, thu hồi đất thì đó là tranh chấp về khiếu kiện hành chính.
+ Nội dung của tranh chấp
đất đai rất đa dạng và phức tạp. Đất đai đã trở thành loại hàng hóa đặc biệt có
giá trị kinh tế và giá trị của nó được biến động theo nền kinh tế thị trường, từ
đó việc quản lý và sử dụng đất đai không chỉ đơn thuần là việc khai thác giá trị
sử dụng mà bao gồm cả giá trị sinh lời của đất. Khi nội dung quản lý và sử dụng
đất phong phú và phức tạp thì phát sinh những mâu thuẫn, bất đồng xung quanh việc
này cũng trở nên căng thẳng và trầm trọng hơn.
+ Tranh chấp đất đai luôn
gắn liền với quá trình sử dụng đất của các chủ thể nên không chỉ ảnh hưởng đến
lợi ích trực tiếp của các bên tham gia tranh chấp mà còn ảnh hưởng đến lợi ích
của Nhà Nước. Vì trước hết, khi xảy ra tranh chấp, một bên không thực hiện được
những quyền của mình, do đó ảnh hưởng đến việc thực hiện các nghĩa vụ đối với
nhà nước.
+ Đất đai có những mục
đích sử dụng không giống nhau mà nhà làm luật gọi đó là mục đích sử dụng đất và
loại đất.Như thế dẫn đến việc tranh chấp về đất đai sẽ bao gồm các bên khác
nhau tham gia vào tranh chấp đó. Điều này dẫn đến một điều là tranh chấp đất
đai cần phải nhanh chóng,tích cực chủ động giải quyết để bảo đảm quyền lợi của
các bên, tránh tình trạng kéo dài, có tổ chức và đông người tham gia.
3.
Những tranh chấp về đất
đai thường phát sinh trong thực tiễn
Quan hệ pháp luật về đất
đai rất phức tạp, trải qua nhiều thể chế về đất đai rất khác nhau, với nhiều giấy
tờ không thống nhất được cấp ở nhiều thời kỳ lịch sử bao gồ m cả những giấy
tờ viết tay. Tranh chấp đất đai là tranh chấp phát sinh trong quan hệ giữa
chủ sở hữu qua các thời kỳ, giữa chủ sở hữu đất với người sử dụng đất, giữa
những người sử dụng đất với nhau. Tranh chấp đất đai thường phát sinh từ
quyền và nghĩa vụ trong quá trình quản lý, sử dụng đất, giao dịch về đất đai,
v.v..Trong thực tiễn, tranh chấp về đất đai thường bao gồm:
- Tranh chấp về đất đai
trong quan hệ giữa chủ sở hữu đất đai (do Nhà nước làm đại diện) với người
sử dụng đất (tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, cơ sở tôn giáo, cộng đồng dân
cư).
- Tranh chấp về đất đai
trong quan hệ giữa những người sử dụng đất (thông thường còn được gọi là chủ sử
dụng đất) với nhau.
a) Tranh chấp về đất đai
trong quan hệ giữa chủ sở hữu đất đai (Nhà nước đại diện) vớ i người sử dụng đất
(tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, cơ sở tôn giáo, cộng đồng dân
cư):
Loại này bao gồm các
tranh chấp:
- Thực hiện các nghĩa vụ
tài chính về đất.
- Thực hiện các thủ tục
hành chính về đất.
- Cấp, thu hồi Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất.
- Giao đất, thu hồi đất,
trưng dụng đất, bồi thường hỗ trợ tái định cư khi thu hồi đất.
- Giải quyết khiếu nại, tố
cáo về đất đai.
- Xử phạt vi phạm hành
chính về đất đai.
- Đấu giá quyền sử dụng đất.
- Chế độ phân loại và sử
dụng các loại đất.
- Các thủ tục hành chính
về đất đai.
b) Tranh chấp về đất đai
trong quan hệ giữa những người sử dụng đất với nhau:
Các loại tranh chấp đất
đai này bao gồm:
- Tranh chấp đất đai phát
sinh từ các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình (thừa kế, ly hôn,
v.v.).
- Tranh chấp đất đai phát
sinh từ quan hệ giao dịch về chuyển quyền sử dụng đất (chuyển đổi, chuyển
nhượng, tặng cho, cho thuê, cho thuê lại, v.v.).
- Tranh chấp về lấn chiếm
đất, ranh giới đất, cột mốc, hàng rào, xây tường ngăn trên đất.
- Tranh chấp quyền về lối
đi qua thửa đất liền kề .
- Tranh chấp về đất đai
liên quan đến tiêu nước, tưới nước trong canh tác, cấp, thoát nước, cấp khí
gas, đường dây tải điện, thông tin liên lạc và các nhu cầu cần thiết khác.
- Tranh chấp đất đai
trong thực hiện các dự án bất động sản nhà ở thương mại, nhà ở xã hội (tranh chấp
liên quan đến tài sản hình thành trong tương lai).
- Tranh chấp đất đai
trong chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án đầu tư bất động sản có quyền sử
dụng đất.
- Tranh chấp đất đai
trong các hợp đồng vay tài sản, hợp đồng tín dụng có cầm cố , thế chấp quyền sử
dụng đất, có đăng ký giao dịch bảo đảm.
- Tranh chấp đất đai
trong quá trình thi hành án đối với bản án dân sự, đối với bản án hành chính và
đối với bản án hình sự có liên quan đến đất đai, quyền sử dụng đất, v.v..
- Tranh chấp tiền bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư trong trường hợp đất bị thu hồi để thực hiện dự án.
- Tranh chấp liên quan đến
góp vốn bằng quyền sử dụng đất, giá trị quyền sử dụng đất.
- Tranh chấp liên quan đến
bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, giá trị quyền sử dụng đất.
- Tranh chấp về việc nhận
đứng tên dùm quyền sử dụng đất.
- Tranh chấp chấm dứt quyền
đối với bất động sản liền kề.
4.
Thủ tục giải quyết tranh
chấp đất đai
a) Giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính:
- Giải quyết tranh chấp đất
đai thông qua hòa giải cơ sở (Điều 202 Luật đất đai năm 2013):
+ Phải có đơn yêu cầu hòa
giải tranh chấp đất đai.
+ Thành phần hòa giải: Đại
diện Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp, đại diện Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, của tổ chức thành viên của Mặt trận, của tổ chức xã hội.
+ Thời hạn tổ chức hòa giải:
Không quá 45 ngày kể từ ngày Ủy bản nhân dân xã, phường, thị trấn nhận được đơn
yêu cầu hòa giải tranh chấp đất đai.
+ Việc hòa giải phải được
lập thành biên bản có chữ ký của các bên và có xác nhận hòa giải thành hoặc hòa
giải không thành của Ủy ban nhân dân cấp xã. Biên bản hòa giải được gửi đến các
bên tranh chấp, lưu tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp.
Đối với trường hợp hòa giải
thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới, người sử dụng đất thì Ủy
ban nhân dân cấp xã gửi biên bản hòa giải đến Phòng Tài nguyên và Môi trường
đối với trường hợp tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng
dân cư với nhau; gửi đến Sở Tài nguyên và Môi trường đối với các trường hợp
khác.
- Giải quyết tranh chấp đất
đai trong trường hợp hòa giải ở cơ sở không thành (Điều 203 Luật đất đai năm
2013):
+ Trường hợp có Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, hoặc có một trong các giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật
đất đai năm 2013, hoặc có tranh chấp tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án giải
quyết.
+ Trường hợp không có Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các giấy tờ quy định
tại Điều 100 Luật đất đai năm 2013 thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai
cách giải quyết như sau:
·
Thứ nhất: Nộp đơn khở i kiện tại tòa án có thẩm quyền
(nơi có đất tranh chấp) theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự hiện
hành.
·
Thứ hai: Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban
nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định, như sau:
+ Trường hợp tranh chấp
cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng dân cư với nhau thì yêu cầu Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp huyện nơi có đất tranh chấp giải quyết. Nếu không đồng ý với quyết
định giải quyết của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện thì có quyền: Khiếu
nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, hoặc khởi kiện tại Tòa án theo quy định
của Luật tố tụng hành chính hiện hành.
+ Trường hợp tranh chấp
mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
giải quyết. Nếu không đồng ý vớ i quyết định giải quyết của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh thì : Khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, hoặc
khởi kiện tại tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính. Người có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai phải ra quyết định giải quyết
tranh chấp. Quyết định giải quyết tranh chấp có hiệu lực thi hành phải được các
bên tranh chấp nghiêm chỉnh chấp hành. Trường hợp các bên không chấp hành
sẽ bị cưỡng chế thi hành.
- Giải quyết khiếu nại về
đất đai:
+ Người sử dụng đất, người
có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sử dụng đất có quyền khiếu nại quyết
định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai.
+ Trình tự, thủ tục giải
quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai thực
hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại. Trình tự, thủ tục giải quyết
khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai thực hiện
theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.
Trong các trường hợp này,
Luật sư phải nắm rõ và thực hiện theo đúng Luật khiếu nại năm 2011, Luật
tố tụng hành chính năm 2015.
- Giải quyết tố cáo về đất
đai:
+ Cá nhân có quyền tố cáo
vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai.
+ Việc giải quyết tố cáo
vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai thực hiện theo quy định của
pháp luật về tố cáo.
Trong trường hợp này, Luật
sư phải nắm rõ và thực hiện theo đúng Luật tố cáo năm 2011.
b) Giải quyết tranh chấp đất đai trong tố tụng dân sự:
Về giải quyết tranh chấp
đất đai trong tố tụng dân sự, Luật sư cần quan tâm các vấn đề như
sau:
Thứ nhất, trừ trường hợp tranh
chấp đất đai trong vụ án tranh chấp thừa kế, tranh chấp tài sản của vợ chồng
trong vụ án ly hôn, hay tranh chấp tài sản vợ chồng sau khi ly hôn, các tranh
chấp đất đai theo Luật đất đai phải được hòa giải ở cơ sở , tại Ủy ban
nhân dân xã , phườ ng, thị trấn nơi có đất tranh chấp trước khi khở i kiện.
Vì vậ y, hồ sơ khở i kiện vụ án tranh chấp đất đai phải kèm theo biên bản hòa
giải không thành ở cơ sở (Ủy ban nhân dân xã , phường, thị trấn nơi có đất
tranh chấp).
Thứ hai, thành phần tham
gia hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở do Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn tổ chứ c, phải có đầ y đủ thà nh phầ n tham dự như đại
diện Ủy ban nhân dân, đại diện Mặt trận Tổ quốc, thành viên của Mặt trận
Tổ quốc, của tổ chức xã hội, v.v., nếu không đủ thành phần tham gia hòa giải
tranh chấp đất đai, Tòa án sẽ yêu cầu hòa giải lại với đầy đủ thành phần.
Thứ ba, tranh chấp đất
đai phải nêu rõ đặc điểm của thửa đất tranh chấp, số thửa, số tờ bản đồ, diện
tích, địa chỉ nơi có đất tranh chấp, v.v.. Nếu thửa đất tranh chấp có số
thửa, số tờ bản đồ khác nhau qua các thời kỳ đăng ký, thống kê đất đai của
Nhà nước, kể cả trường hợp của chế độ cũ, thì cũng phải nêu rõ để không gặp
phức tạp, khó khăn khi Tòa án giải quyết và khi thi hành án.
Thứ tư, diện tích thửa đất,
phần đất tranh chấ p phải được nêu rõ trong biên bản hòa giải vì nếu khi
hòa giải diện tích nhỏ, khi Tòa án thụ lý diện tích lớn hơn thì thẩm phán có thể
yêu cầu hòa giải phần diện tích chênh lệch. Hơn nữa khi khởi kiện, nếu
tranh chấp diện tích thửa đất nhỏ hơn khi đo đạc thực tế trong quá trình Tòa án
thụ lý thì Tòa án có quyền yêu cầu nộp bổ sung tiền tạm ứng án phí đối với
phần diện tích đất chênh lệch.
Thực tế, giấy tờ về đất
đai có rất nhiều loại, trải qua nhiều thời kỳ lịch sử. Vì vậy, Luật sư cần
biết rõ, theo pháp luật hiện hành về đất đai, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (màu hồng) là chứng thư pháp
lý để Nhà nước xác nhậ n quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn
liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở
hữu tài sản khác gắn liền với đất.
II.
KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ TRONG THAM GIA GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP ĐẤT ĐAI
1.
Kỹ năng của luật sư trong
hoạt động thu thập, nghiên cứu, đánh giá sử dụng chứng cứ ở giai đoạn tiếp xúc
khách hàng.
Đây là giai đoạn có thể
nói Luật sư phải chủ động thu thập, khai thác đầy đủ các chứng cứ có từ khách
hàng của minh. Bên cạnh đó. Luật sư còn phải sử dụng đến kỹ năng phân tích cũng
như nghiên các chứng cứ liên quan đến vụ án. Tuy nhiên trong giai đoạn này, chứng
cứ chi được đánh giá dưới dạng sơ bộ, chưa chỉ tiết và chính xác hoàn toàn. Trong
đó, chứng cứ trong giai đoạn này chủ yếu Luật sư căn cứ vào hồ sơ vụ việc mã
khách hàng cung cấp. Tùy vào từng trường hợp cụ thể mà Luật sư xem xét là với
những chứng cứ ây đã đầy đủ cơ sở để tiến hành vụ việc cho khách hàng hay chưa?
Và khách hàng cần phải bổ sung them những tài liệu chứng cứ nào nữa không?
Trong một vụ án dân sự
liên quan đến đất đai và nhà cửa thông thường có rất nhiều loại chứng cứ khác
nhau, do đó vai trò của luật sự là phải hướng dẫn khách hàng nắm bắt được sơ bộ
chứng cứ nào là quan trọng đối với việc xem xét và giải quyết vụ án, trên cơ sở
đó giúp cho khách hàng tập hợp các chứng cứ lại. Thông thường các chứng cứ được
sắp xếp theo thứ tự ngày tháng, nội dung hoặc theo hình thức của chúng cử đó. Đối
với những chứng cử là bán gốc dầy nhất thì cần phải photo công chúng lại các bản
đó. Đối với những tài liệu là tiếng nước ngoài thì phải dịch có công chứng để
tăng thêm giá trị tài liệu Tất cả các chứng cứ đã thu thập được phải nhẫn ra
làm 02 bản để nộp lại cho Tòa án 01 bản và lưu giữ lại 01 bản. Việc cung cấp
các chứng cứ này cho Tòa án vào thời điểm nào là do Luật sư quyết định.
Có những lúc Luật sư phải
tự mình đi thu thập, xác minh chứng cứ tại một số cơ quan, xí nghiệp, địa
phương mà khách hàng không thể làm được. Vấn đề tìm ra chứng cứ và cung cấp chứng
cứ là cực kỳ quan trọng trong vụ án về nhà đất. Nhiều tranh chấp về nhà đất có
nguồn gốc hàng chục năm và bị mai một theo thời gian. Có những chứng cứ được thể
hiện dưới hình thức hết sức đơn sơ như những tờ giấy rách cũ kỹ nhưng nội dung
lại hết sức quan trọng có khả năng quyết định việc thắng thua. Vi vậy nhiều trường
hợp đòi hỏi phải có luật sư thu thập. Những chứng cư, tài liệu mà Luật sư thu
thập được cần phải thông báo cho khách hàng của minh đồng thời cũng cần thiết
phải cung cấp cho Tòa án.
Ngoài ra Luật sư phải xác
định chứng cứ có lợi cho thân chủ của mình và đâu là những chứng cứ bất lợi cho
thân chủ của mình. Nếu thấy chứng cứ bất lợi cho họ thi Luật sư không khai thác
các chứng cứ đó, biết tận dụng các chứng cử có lợi cho thân chủ mình một cách
triệt để.
2.
Hướng dẫn khách hàng thu
thập chứng cứ
Luật sư nên tham dự các lần
lấy lời khai tại tòa cùng với khách hàng, để khách hàng yên tâm hơn và có thể
trao đổi ý kiến với luật sư. Trong khi tham dự lấy lời khai, luật sư có thể xin
tham gia ý kiến để giúp khách hàng trình bày rõ hơn về sự thật vụ án.
Cần hướng dẫn khách hàng
một số công việc cần thiết khi họ phải trả lời các câu hỏi trước Tòa liên quan
đến cung cấp chứng cứ. Nên cho họ biết rằng họ có thể từ chối bất kỳ câu hỏi hoặc
nhờ Luật sư trả lời hộ trong trường hợp cần thiết Cần hướng dẫn khách hàng một
số công việc cần thiết khi họ phải trả lời các câu hội trước Tòa liên quan đến
cung cấp chứng cứ. Nên cho họ biết rằng họ có thể từ chối bất kỳ câu hỏi hoặc
nhờ Luật sư trả lời hộ trong trường hợp cần thiết
Luật sư cần hướng dẫn
đương sự hoặc giúp đỡ đương sự tự thu thập chứng cứ sao cho phù hợp với quy định
tại Điều 81, Điều 82 Bộ luật tố tụng dân sự:
Thứ nhất: Đối với tài liệu
đọc được nội dung thi phải là bản chính hoặc bản sao có công chúng chứng thực.
Luật sư nên hướng dẫn khách hàng sao thành nhiều bản để tránh trường hợp thất lạc.
Thứ hai: Đối với các tài
liệu nghe được, nhìn được pahi kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu
đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình theo Khoản 2 Điều
83 BLTTDS. Luật sư nên hướng dẫn khách hàng gửi kèm các chứng cứ này theo đơn
khởi kiện.
Thứ ba: đối với vật chứng
phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc dân sự theo quy định tại khoản 3 Điều
83 BLTTDS. Luật sư cần hỏi rõ đương sự nếu khẳng định chắc chắn đó là hiện gốc
liên quan đến vụ việc tranh chấp thì mới sử dụng làm chứng cứ
Thứ tư: Các tập quản nếu
được cộng đồng nơi có tập quán thừa nhận cũng được xem là chứng cứ. Luật sư cần
giải thích cho khách hàng biết rõ để được coi là tập quán được cộng đồng thừa
nhận thì phải hội đủ những yếu tố nào....
3.
Kỹ năng tranh tụng của Luật sư khi tham gia giải
quyết một số vụ tranh chấp đất đai phổ biến
3.1
Một số vấn đề về tố tụng
Các quy định chung về
giao dịch, về hợp đồng trong Bộ luật dân sự (BLDS) và Bộ luật tố tụng dân sự
(BLTTDS) cũng được áp dụng đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tặng
cho quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó, cần lưu ý một số vấn đề đặc thù riêng, thường
có nhận thức, áp dụng không đúng, không thống nhất trong thực tiễn như sau:
3.1.1
Về thời hiệu khởi kiện
Đối
với hợp đồng về quyền sử dụng (HĐVQSD) đất được xác lập từ ngày 01/07/2016
(ngày BLTTDS năm 2015 có hiệu lực) Phải
áp dụng các quy định về thời hiệu của các văn bản pháp luật đó để xác định thời
hiệu còn hay hết, không phân biệt giao dịch dân sự đó được thực hiện xong trước
ngày 01/7/1996 hay từ ngày 01/7/1996. Trường hợp từ ngày 01/7/1996, các bên
tham gia giao dịch dân sự có thoả thuận bổ sung thì cần phân biệt như sau:
– Trường hợp các bên đang tiếp
tục thực hiện hợp đồng, có thoả thuận bổ sung mà thoả thuận đó là một phần
không tách rời của hợp đồng đó thì việc xác định thời hiệu đối với hợp đồng nói
chung (bao gồm cả thoả thuận mới) được thực hiện theo quy định của các văn bản
pháp luật có hiệu lực tại thời điểm có thỏa thuận bổ sung.
Theo Điều 4 Nghị quyết số
02/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của Hội đồng Thẩm phán (HĐTP) Tòa án nhân dân
tối cao, khi thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự cần lưu ý: Thời điểm phát sinh
tranh chấp, yêu cầu về dân sự quy định tại Điều 2 Nghị quyết số 103/2015/QH13
là ngày khởi kiện, ngày yêu cầu. Việc xác định ngày khởi kiện, ngày yêu cầu
được thực hiện theo quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 190 BLTTDS năm 2015.
Từ ngày 01/01/2017, Tòa án áp dụng quy định của BLTTDS và BLDS năm 2015 và luật
khác có liên quan về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu để thụ lý, giải
quyết.
Đối với HĐVQSD đất được xác lập
từ ngày 01/01/2005 mà BLDS và các văn bản pháp luật khác không quy định thời
hiệu khởi kiện: Thời hiệu khởi kiện được
thực hiện theo quy định tại Điều 159 BLTTDS năm 2004: Thời hiệu khởi kiện để
yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 02 năm, kể từ ngày quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của
Nhà nước bị xâm phạm.
3.1.2
Về thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố HĐVQSD đất vô
hiệu
Đối
với HĐVQSD đất được giao kết từ ngày 01/01/2017 đến nay mà có yêu cầu Toà án
tuyên bố hợp đồng vô hiệu (theo Điều 132 BLDS năm 2015), cần phân biệt:
–
Hợp đồng do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự xác lập thực hiện; hợp đồng được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối,
đe dọa, cưỡng ép; hợp đồng do người xác lập không nhận thức và làm chủ được
hành vi của mình; hợp đồng không tuân thủ quy định về hình thức thì thời hiệu
yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu là 02 năm kể từ một trong các thời
điểm sau:
+
Ngày người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự biết được hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác
lập, thực hiện giao dịch;
+
Ngày người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập
do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối;
+
Ngày người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép;
+
Ngày người không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình xác lập giao dịch.
–
Hợp đồng, vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội, hợp đồng giả tạo thì
thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu không bị hạn chế. Điểm khác
của BLDS năm 2015 và các BLDS trước đó là: BLDS năm 2015 quy định hợp đồng vi
phạm điều cấm “của luật” còn ở các BLDS trước đó quy định hợp đồng vi
phạm điều cấm của “pháp luật”. Vi phạm điều cấm của luật là vi phạm
những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất
định. Hợp đồng có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã
hội thì bị vô hiệu.
*
Ngoài ra, cần lưu ý:
Thứ nhất, đối với HĐVQSD đất được
giao kết trước ngày 01/7/1996Nội dung hợp đồng vi phạm điều
cấm của pháp luật hoặc trái với đạo đức xã hội; một hoặc các bên không có quyền
giao kết hợp đồng (chủ thể giao kết hợp đồng không thuộc một trong các trường
hợp quy định tại Điều 3 Pháp lệnh HĐDS năm 1991) thì thời gian yêu cầu Toà án
tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế.
+
thuộc
trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 15 Pháp lệnh HĐDS năm 1991 bao
gồm: HĐDS vô hiệu do người chưa thành niên xác lập, thực hiện (do có vi phạm
quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 3 Pháp lệnh HĐDS năm 1991); do một bên bị
nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp đồng; bị đe dọa hoặc bị lừa dối thì thời
hạn yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định tại Điều 56
Pháp lệnh HĐDS năm 1991 là 03 năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập. Hết
thời hạn 03 năm mà không có yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
thì giao dịch dân sự đó có hiệu lực.
Trường
hợp các bên vẫn thực hiện hợp đồng và phát sinh tranh chấp, một bên hoặc các
bên khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết, nếu đã hết thời hạn 03 năm, kể từ ngày
giao dịch dân sự được xác lập, thì họ không có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố
giao dịch dân sự đó vô hiệu vì lý do vi phạm quy định khoản 2 hoặc khoản 3 Điều
15 Pháp lệnh HĐDS năm 1991. Trong trường hợp này, Toà án tiến hành giải quyết
tranh chấp theo thủ tục chung.
Thứ ba, đối với HĐVQSD đất được
giao kết từ ngày 01/7/1996 đến trước ngày 01/01/2006 mà
có yêu cầu Toà án tuyên bố vô hiệu thì áp dụng các quy định tại Điều 136 BLDS
năm 2005 về thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.
Thứ tư, đối với HĐVQSD đất được
giao kết từ ngày 01/01/2006 đến trước ngày 01/01/2017 mà
có yêu cầu Toà án tuyên bố vô hiệu cần phân biệt:
+
Giao dịch do vi phạm điều cấm của
pháp luật, trái đạo đức xã hội; giao dịch giả tạo thì không bị hạn chế về thời
hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu.
3.1.3
Về thẩm quyền giải quyết vụ án của Tòa án
Tranh
chấp HĐCN, TC QSDĐ là tranh chấp hợp đồng dân sự theo quy định tại khoản 3 Điều
26 BLTTDS năm 2015 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Căn
cứ điểm a, b khoản 1 Điều 35 BLTTDS 2015, thẩm quyền giải quyết tranh chấp
HĐCN, TC QSDĐ thuộc về Tòa án cấp huyện. Trường hợp có đương sự hoặc tài sản ở
nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước
ngoài thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp tỉnh. Việc xác định thẩm
quyền theo lãnh thổ đối với tranh chấp HĐCN, TC QSDĐ căn cứ vào khoản 1 Điều 39
BLTTDS năm 2015. Cần lưu ý đối với trường hợp vụ án dân sự đã được Tòa án thụ
lý và đang giải quyết theo đúng quy định của BLTTDS về thẩm quyền của Tòa án
theo lãnh thổ thì phải được Tòa án đó tiếp tục giải quyết, cho dù trong quá
trình giải quyết vụ án có sự thay đổi nơi cư trú, trụ sở hoặc địa chỉ giao dịch
của đương sự. Quá trình yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp HĐCN, TC QSDĐ,
nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án (khoản 1 Điều 40 BLTTDS năm 2015). Tranh
chấp phát sinh từ hợp đồng, nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được
thực hiện giải quyết. Nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi
khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi một trong các bị đơn cư trú,
làm việc, có trụ sở giải quyết.
3.1.4
Xác định
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án
Việc
xác định đầy đủ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc giải quyết vụ
án tranh chấp HĐCN, TC QSDĐ có ý nghĩa bảo đảm quyền và lợi ích của họ khi Tòa
án giải quyết vụ án, hạn chế việc vụ án bị hủy khi có kháng cáo, kháng nghị. Do
đó, cần lưu ý một số trường hợp sau để xác định đúng, đủ người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan: QSD đất là đối tượng của hợp đồng đã được cấp giấy chứng
nhận cho hộ gia đình và do hộ gia đình canh tác, sử dụng thì cần xác định các
thành viên trong hộ gia đình được cấp giấy chứng nhận QSD đất, làm rõ tại thời
điểm cấp giấy chứng nhận QSD đất hộ gia đình gồm những ai để đưa họ vào tham
gia tố tụng trong vụ án (cần phân biệt “đất tranh chấp” chỉ dùng trong
“tranh chấp đất đai”; còn đối với tranh chấp hợp HĐVQSD đất thì QSD đất là đối
tượng của tranh chấp hợp đồng); QSD đất do bên thứ ba đang trực tiếp canh
tác, sử dụng cần xem xét việc sử dụng đất của bên thứ ba là do được cho mượn,
cho thuê, chuyển nhượng hay là hộ có đất giáp ranh đất tranh chấp tự ý lấn
chiếm, sử dụng; trường hợp đất tranh chấp mà đương sự đã thế chấp cho Ngân hàng
hoặc đất tranh chấp có tài sản của người thứ ba mà tài sản này có thể hình
thành trước khi có tranh chấp hoặc trong quá trình Tòa án giải quyết. Thành
viên hộ gia đình, bên thứ ba, ngân hàng… trong các trường hợp nêu trên phải
được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
3.2
Một số
nội dung khi giải quyết các vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất (HĐCN QSD đất)Theo Điều 502 BLDS năm 2015, HĐCN
QSD đất phải được lập thành văn bản, có hình thức phù hợp với quy định của
BLDS, pháp luật về đất đai và quy định khác của pháp luật có liên quan. Khoản 3
Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 quy định HĐCN QSD đất phải được công chứng,
chứng thực, việc công chứng phải bảo đảm theo quy định của Luật Công chứng năm
2014. Trường hợp hợp đồng chỉ do hai bên ký kết, không được công chứng thì hợp
đồng đó phải bảo đảm yếu tố hai bên đều tự nguyện và việc ký kết phải trước
ngày 01/7/2004 (ngày Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực) để tùy từng trường hợp
áp dụng Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của HĐTP Tòa án nhân dân
tối cao cho phù hợp. Nếu hợp đồng được chứng thực phải thực hiện theo thủ tục
quy định tại Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ về cấp
bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký, chứng
thực hợp đồng, giao dịch.
thì
áp dụng Điều 129 BLDS năm 2015 về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ
quy định về hình thức và điểm a khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013. Thông
thường, HĐCN QSD đất không tuân thủ các quy định về công chứng, chứng thực thì
hợp đồng sẽ vô hiệu. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 129 BLDS năm 2015 quy định đối với
trường hợp giao dịch đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt
buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai
phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa
án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó mà các bên không phải thực
hiện việc công chứng, chứng thực nữa.
+ Giao dịch xảy ra trước ngày
01/7/2004 thì căn cứ Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của HĐTP Tòa
án nhân dân tối cao để giải quyết;
+ Giao dịch xảy ra từ ngày
01/01/2017 thì áp dụng Điều 129 BLDS năm 2015 làm căn cứ giải quyết;
+ Đối với các giao dịch xảy ra
sau ngày 01/7/2004 thì giao dịch này phải bị xác định là vô hiệu và giải quyết
hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu. Phụ thuộc vào thời gian xác lập giao dịch
mà áp dụng quy định của Điều 137 BLDS năm 2005 hoặc Điều 131 BLDS năm 2015.
3.2.2
Điều
kiện có hiệu lực của HĐCN QSD đất
– HĐCN QSD đất phải được lập
thành văn bản có công chứng, chứng thực, trừ các trường hợp quy định tại khoản
2 Điều 129 BLDS năm 2015;
– QSD đất chuyển nhượng phải đã
có giấy chứng nhận QSD đất;
– QSD đất không bị kê biên bảo
đảm thi hành án. Về nguyên tắc, nếu QSD đất được xem là nguồn tài sản của các
cá nhân vi phạm pháp luật (hoặc đang là tài sản bảo đảm nghĩa vụ thanh toán dân
sự) thì sẽ không được đưa ra làm tài sản chuyển nhượng. Việc chuyển nhượng QSD
đất thuộc diện bị kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án là không hợp pháp và
thuộc điều cấm của pháp luật đất đai. Do đó, giao dịch này sẽ bị vô hiệu.
– Đất chuyển nhượng còn phải bảo
đảm diện tích tối thiểu để tách thửa theo quy định của UBND tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương nơi có đất chuyển nhượng. Nếu vi phạm điều kiện này thì
hợp đồng chuyển nhượng được xác định là vô hiệu do có đối tượng không thể thực
hiện được.
– Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân,
cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được nhận chuyển nhượng QSD đất đối với
trường hợp mà pháp luật không cho phép chuyển nhượng QSD đất.
– Hộ gia đình, cá nhân không trực
tiếp sản xuất nông nghiệp, không có hộ khẩu tại địa phương không được nhận
chuyển nhượng QSD đất trồng lúa.
Trước đây khi giải quyết đối với
các trường hợp này thì Tòa án thường xác định hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên, thực
tiễn phát sinh nhiều trường hợp việc chuyển nhượng đất có sự đồng ý của hai vợ
chồng nhưng khi làm thủ tục chuyển nhượng chỉ có một bên đại diện ký hợp đồng,
việc chuyển nhượng có hiệu lực pháp luật nhưng sau đó do nhiều nguyên nhân (giá
đất tăng cao, mâu thuẫn vợ chồng phát sinh… ) nên lấy lý do một bên không ký
vào hợp đồng để đề nghị tuyên hợp đồng vô hiệu, gây thiệt hại cho bên nhận
chuyển nhượng. Để khắc phục vấn đề này, HĐTP Tòa án nhân dân tối cao đã thông
qua Án lệ số 04/2016/AL ngày 06/4/2016; theo đó, nếu có đủ căn cứ xác định bên
chuyển nhượng đã nhận đủ số tiền theo thỏa thuận, người không ký tên trong hợp
đồng biết và cùng sử dụng tiền chuyển nhượng nhà đất; bên nhận chuyển nhượng
nhà đất đã nhận và quản lý, sử dụng nhà đất đó công khai; người không ký tên
trong hợp đồng biết mà không có ý kiến phản đối gì thì phải xác định là người
đó đồng ý với việc chuyển nhượng nhà đất và công nhận hợp đồng.
b) Trường hợp nhà đất là di sản
thừa kế và đã được một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng
Căn cứ Điều 102 và Điều 212 BLDS
năm 2015, việc chuyển nhượng đối với tài sản chung của hộ gia đình cần phải
được sự đồng ý của các thành viên trong hộ gia đình sử dụng đất và phải được
lập thành văn bản có công chứng, chứng thực theo quy định. Theo khoản 1 Điều 64
Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Đất đai năm
2013 thì “HĐVQSD đất của hộ gia đình phải được người có tên trên giấy chứng
nhận hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự ký tên”.
Theo khoản 5 Điều 14 Thông tư số 02/2015/TT-BTNMT quy định chi tiết một số điều
của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP và Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của
Chính phủ thì “Người có tên trên giấy chứng nhận hoặc người được ủy quyền
theo quy định của pháp luật về dân sự quy định tại khoản 1 Điều 64 của Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP chỉ được thực hiện việc ký hợp đồng, văn bản giao dịch về
QSD đất khi đã được các thành viên trong hộ gia đình sử dụng đất đồng ý bằng
văn bản và văn bản đó đã được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp
luật”.
3.2.5
Hợp
đồng vô hiệu do giả tạo
Được
xác định theo Điều 124 BLDS năm 2015. Trên thực tế, việc xác lập giao dịch
chuyển nhượng QSD đất giả tạo thường nhằm trốn tránh nghĩa vụ thuế, phí đối với
Nhà nước, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, che giấu hợp đồng vay tài sản. Tuy
nhiên, việc đánh giá hợp đồng nào là giả tạo, hợp đồng nào là có thực, các bên
tự nguyện hay bị cưỡng ép khi ký kết hợp đồng là rất khó khăn, đòi hỏi sự thận
trọng, kĩ năng và kinh nghiệm trong việc đánh giá tài liệu, chứng cứ của vụ án.
Ví
dụ, để bảo đảm cho hợp đồng vay tài sản, bên cho vay thường yêu cầu bên vay ký
HĐCN QSD đất; hợp đồng cùng được công chứng, chứng thực; thậm chí, bên cho vay
còn hoàn thành thủ tục sang tên và được cấp giấy chứng nhận QSD đất. Đặc điểm
của dạng hợp đồng này là việc ký HĐCN QSD đất thường được thực hiện với giá
chuyển nhượng thấp hơn nhiều so với giá trị thực tế, QSD đất vẫn do người vay
tài sản quản lý, sử dụng, xây nhà kiên cố và trồng cây lâu năm trên đất nhưng
bên nhận chuyển nhượng không có ý kiến gì. Do đó, việc nhận biết hợp đồng
chuyển nhượng giả tạo hay không cần lưu ý đến các yếu tố như: Ý chí của bên
chuyển nhượng trong việc ký kết, xác lập giao dịch có hoàn toàn tự nguyện hay
không? Có các tài liệu gì về việc vay tiền để chứng minh quan hệ vay tiền là có
thật? Có việc giao nhận QSD đất trên thực tế không? Giá chuyển nhượng có phù
hợp với giá thị trường, giá trị khoản vay (gốc và lãi) hay không? Đây là những
vấn đề cần quan tâm để xác định tính có căn cứ của HĐCN QSD đất.
Khi
có cơ sở xác định các bên xác lập hợp đồng giả tạo nhằm che giấu một hợp đồng
khác thì áp dụng Điều 124 BLDS năm 2015 để xác định hợp đồng giả tạo vô hiệu,
còn hợp đồng bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp hợp đồng đó cũng vô
hiệu. Trường hợp xác lập hợp đồng giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người
thứ ba thì hợp đồng đó vô hiệu.
3.2.6
Về bảo
vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu
Tại
khoản 2 Điều 133 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp giao dịch dân sự vô
hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó
được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và
người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao
dịch đó không bị vô hiệu…”. Để xác định giao dịch với người thứ ba có được
bảo vệ hay không thì cần căn cứ vào các yếu tố sau đây:
– Nếu
giao dịch với người thứ ba ngay tình được xác lập trước ngày 01/01/2017 thì
giao dịch này vẫn bị xác định là vô hiệu (trừ trường hợp người thứ ba ngay tình
nhận được tài sản thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao
dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là
chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do
bản án, quyết định bị hủy, sửa).
–
Nếu giao dịch với người thứ ba ngay tình được xác lập từ ngày 01/01/2017 thì
căn cứ theo quy định tại Điều 133 BLDS năm 2015, giao dịch với người thứ ba
không vô hiệu.
Tuy
nhiên, khi xem xét giao dịch với người thứ ba phát sinh sau ngày 01/01/2017 thì
không phải trường hợp nào người thứ ba cũng được bảo vệ mà phải là người thứ ba
ngay tình. Do đó, khi kiểm sát cần chú ý xem xét việc người thứ ba có ngay tình
hay không căn cứ vào những yếu tố như: Người thứ ba quan hệ như thế nào với các
bên trong giao dịch vô hiệu trước đó? Khi thực hiện giao dịch thì họ có biết
các bên có tranh chấp hay hợp đồng trước vô hiệu hay không? Đối với bên thứ ba
là Ngân hàng khi nhận thế chấp thì có tiến hành xem xét, thẩm định tài sản thế
chấp theo đúng trình tự, thủ tục hay không…. Nếu có căn cứ xác định người thứ
ba không ngay tình thì cần tuyên giao dịch với người thứ ba vô hiệu.
Tại
Công văn số 02/TANDTC-PC ngày 02/8/2021 của Tòa án nhân dân tối cao về việc
giải đáp một số vướng mắc trong xét xử có hướng dẫn việc xem xét quyền lợi của
người thứ ba ngay tình trong một số trường hợp cụ thể, Kiểm sát viên cần tham
khảo.
3.2.7
Giải
quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu
3.3
Một số nội dung khi giải quyết
các vụ án tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất (HĐTC QSD đất)
3.3.1
Về
hình thức HĐTC QSD đất
HĐTC
QSD đất phải thoả mãn các điều kiện về hình thức, cụ thể là: Hợp đồng phải được
lập thành văn bản; phải có công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp
luật và phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Điều 167 Luật Đất đai
năm 2013). Khoản 2 Điều 459 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng tặng cho bất
động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký”; khoản 3 Điều 188 Luật Đất
đai năm 2013 quy định: “Việc tặng cho QSD đất phải đăng ký tại cơ quan đăng
ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào Sổ địa chính”.
3.3.2
Về
điều kiện để tặng cho QSD đất
Theo
quy định tại khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013, điều kiện tặng cho QSD đất
được xác định như sau:
Một là, QSD
đất được tặng cho đã có giấy chứng nhận QSD đất, trừ trường hợp quy định tại
khoản 3 Điều 186 Luật Đất đai năm 2013 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại
khoản 1 Điều 168 của Luật Đất đai năm 2013, theo đó:
–
Người tặng cho là người nhận được QSD đất thông qua thừa kế nhưng họ thuộc
trường hợp không được cấp giấy chứng nhận QSD đất theo quy định người Việt Nam
định cư ở nước ngoài hoặc người nước ngoài không được mua nhà ở gắn với QSD đất
ở tại Việt Nam.
–
Người tặng cho là người có QSD đất thông qua thừa kế mặc dù có đủ điều kiện
nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận QSD đất.
Hai là, QSD
đất tặng cho không có tranh chấp. Để bảo đảm quyền lợi cho các chủ thể khác
cũng như tránh việc phát sinh các tranh chấp sau này bắt buộc các bên chỉ có
thể thực hiện tặng cho QSD đất khi không có tranh chấp liên quan hoặc tranh
chấp đã được giải quyết.
Ba là, QSD
đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án.
Bốn là, QSD
đất được tặng cho phải còn trong thời gian sử dụng theo quy định của pháp luật.
Đối với các trường hợp đất được Nhà nước giao hoặc cho thuê có thời hạn thì khi
hết thời hạn này, QSD đất của người được giao hoặc cho thuê cũng sẽ chấm dứt
nên người sử dụng đất muốn thực hiện việc tặng cho QSD đất của mình phải thực
hiện khi đất còn trong thời hạn sử dụng.
Ngoài
ra, theo quy định tại các điều 191 và 192 Luật Đất đai năm 2013, khi thực hiện
tặng cho QSD đất cho người khác phải bảo đảm thuộc những trường hợp pháp luật
cho phép tặng cho. Đối với đất tặng cho là đất trồng lúa thì bên nhận tặng cho
phải là cá nhân hoặc hộ gia đình trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp. Đối
với đất ở hay đất nông nghiệp nằm trong phạm vi rừng phòng hộ, rừng đặc dụng
(phân khu bảo vệ, phục hồi sinh thái) chỉ được tặng cho đối với người đang sinh
sống trong khu vực này.
3.3.3
Về
thời điểm có hiệu lực của HĐTC QSD đất
Khoản
1 Điều 401 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu
lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên
quan có quy định khác”. Tại Điều 459 BLDS năm 2015 quy định: “Tặng cho
bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải
đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật. Hợp
đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động
sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ
thời điểm chuyển giao tài sản”. Điểm a khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai năm
2013 quy định: “HĐTC QSD đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
phải được công chứng hoặc chứng thực”.
Khoản
1 Điều 5 Luật Công chứng năm 2014 quy định: “Văn bản công chứng có hiệu lực
kể từ ngày được Công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng”.
Như
vậy, HĐTC QSD đất phải được công chứng hoặc chứng thực và có hiệu lực kể từ
thời điểm hoàn thành việc công chứng hoặc chứng thực, còn việc tặng cho QSD đất
phải đăng ký chuyển quyền và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa
chính.
3.3.4
Về
HĐTC QSD đất giữa cha mẹ và con:
– Trường
hợp QSD đất đúng tên cả người cha và mẹ hoặc cá nhân cha hoặc mẹ thì
cha, mẹ có toàn quyền định đoạt việc tặng cho. Đối với trường hợp người con đã
có vợ hoặc chồng thì khi tặng cho cần thể hiện rõ trong hợp đồng nội dung muốn
tặng riêng cho con hay tặng chung cho hai vợ chồng người con.
– Trường
hợp QSD đất đứng tên hộ gia đình thì được xác định là tài sản chung
của tất cả các thành viên trong hộ gia đình nên khi muốn tặng cho thì bắt buộc
phải có sự đồng ý của tất cả thành viên.
3.3.5
Về
tặng cho QSD đất có điều kiện
Tặng
cho tài sản có điều kiện được quy định tại Điều 462 BLDS năm 2015. Việc tặng
cho QSD đất có điều kiện cho phép bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho
thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho
không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Nếu bên nhận
tặng cho không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ mà bên tặng cho yêu
cầu thì bên tặng cho có quyền yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho bất cứ lúc nào.
3.3.6
HĐTC
QSD đất vô hiệu
Về
nguyên tắc, HĐTC QSD đất không thỏa mãn các điều kiện có hiệu lực theo quy định
của pháp luật thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng tặng cho vô
hiệu, cụ thể:
– Hợp
đồng vô hiệu khi vi phạm điều kiện về chủ thể: Hợp đồng do người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện.
– Hợp
đồng vô hiệu do vi phạm về điều kiện ý chí gồm: HĐTC QSD đất vô hiệu
do bị nhầm lẫn, có nghĩa là làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục
đích của việc xác lập giao dịch (bên tặng cho có nhiều thửa đất muốn tặng cho
thửa đất A nhưng lại tặng cho thửa đất B). HĐTC QSD đất vô hiệu do bị lừa dối,
đe dọa, cưỡng ép, nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của
đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó không
tự nguyện khi xác lập giao dịch.
– HĐTC
QSD đất vô hiệu do giả tạo: Khi các bên xác lập hợp đồng tặng cho giả
tạo để che giấu một giao dịch khác thì hợp đồng tặng cho vô hiệu, còn giao dịch
dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu
theo quy định của BLDS hoặc luật khác có liên quan. Trường hợp xác lập giao
dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân
sự đó vô hiệu.
– HĐTC
QSD đất vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội: Tặng
cho QSD đất khi đất đang là đối tượng tranh chấp, đang bị kê biên để đảm bảo
thi hành án, đang bị áp dụng biện pháp cấm chuyển dịch, tặng cho trong trường
hợp pháp luật quy định không được tặng cho.
3.3.7
Áp
dụng án lệ để giải quyết tranh chấp HĐTC QSD đất
Để
giải quyết tranh chấp HĐTC QSD đất, HĐTP Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành
các án lệ có liên quan như sau:
–
Án lệ số 03/2016/AL ngày 06/4/2016 về giải quyết vụ án ly hôn trong đó công
nhận việc tặng cho QSD đất giữa cha mẹ và con áp dụng trong trường hợp cha mẹ
đã cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ chồng người con đã xây dựng
nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con xây dựng
nhà thì cha mẹ và những người khác trong gia đình không có ý kiến phản đối gì;
vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến
hành việc kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận QSD đất thì phải xác định vợ
chồng người con đã được tặng cho QSD đất.
–
Án lệ số 14/2017/AL ngày 14/12/2017 về công nhận điều kiện của HĐTC QSD đất mà
điều kiện đó không được ghi trong hợp đồng, áp dụng đối với trường hợp HĐTC QSD
đất không ghi điều kiện tặng cho nhưng tại các văn bản, tài liệu khác có liên
quan thể hiện các bên đã có thỏa thuận, thống nhất về điều kiện tặng cho và
điều kiện tặng cho là hợp pháp; trường hợp này, Tòa án phải công nhận điều kiện
của HĐTC QSD đất và xác định HĐTC QSD đất đó là hợp đồng tặng cho tài sản có
điều kiện.
–
Án lệ số 52/2021/AL ngày 25/11/2021 về hiệu lực của HĐTC QSD đất khi chưa đăng
ký QSD đất, áp dụng trong trường hợp HĐTC QSD đất được lập thành văn bản đã
được công chứng, chứng thực; bên được tặng cho chưa đăng ký QSD đất do trở ngại
khách quan thì bên tặng cho tài sản chết. Trường hợp này, phải xác định HĐTC
QSD đất có hiệu lực pháp luật.
4.
Một số điểm mới về giải quyết tranh chấp đất đai
theo Luật Đất đai
Theo Điều 235 Luật Đất
đai 2024, Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải,
hòa giải ở cơ sở theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở, hòa giải theo
quy định của pháp luật về hòa giải thương mại hoặc cơ chế hòa giải khác theo
quy định của pháp luật. Đặc biệt, So với Luật Đất đai 2013, Luật mới quy định
trước khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai theo quy
định (tòa án hoặc UBND cấp có thẩm quyền), các bên tranh chấp phải thực hiện
hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp, trừ địa bàn không thành lập đơn
vị hành chính cấp xã trực thuộc UBND cấp huyện.
Về thủ tục hòa giải
tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã, sau khi nhận được đơn yêu cầu hòa giải
tranh chấp đất đai, Chủ tịch UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp có trách nhiệm
thành lập Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai để thực hiện hòa giải tranh chấp
đất đai.
Thành phần Hội đồng hòa
giải tranh chấp đất đai bao gồm: Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND cấp xã là Chủ
tịch Hội đồng, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã, công chức làm công tác
địa chính, người sinh sống lâu năm biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối
với thửa đất tranh chấp (nếu có). Tùy từng trường hợp cụ thể, có thể mời đại diện
tổ chức, cá nhân khác tham gia Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai.
Việc hòa giải tranh chấp
đất đai tại UBND cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ
ngày nhận được đơn yêu cầu hòa giải tranh chấp đất đai (Thời gian này đã được
rút ngắn hơn so với quy định hiện nay, Luật Đất đai 2013 quy định thực hiện
trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết
tranh chấp đất đai).
Việc hòa giải phải được
lập thành biên bản có chữ ký của các bên và có xác nhận hòa giải thành hoặc hòa
giải không thành của UBND cấp xã. Biên bản hòa giải được gửi đến các bên tranh
chấp, lưu tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp.
Trường hợp hòa giải
không thành mà một hoặc các bên tranh chấp không ký vào biên bản thì Chủ tịch Hội
đồng, các thành viên tham gia hòa giải phải ký vào biên bản, đóng dấu của UBND
cấp xã và gửi cho các bên tranh chấp.
Đối với trường hợp hòa
giải thành và có thay đổi hiện trạng về ranh giới, diện tích, người sử dụng đất
thì trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản công nhận kết
quả hòa giải thành, các bên tham gia hòa giải phải gửi văn bản công nhận kết quả
hòa giải thành đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện việc đăng ký, cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo
quy định.
Quy định rõ thẩm quyền giải quyết tranh chấp
đất đai đối với các trường hợp
Theo Điều 236 Luật Đất đai 2024, tranh chấp
đất đai mà các bên tranh chấp hoặc một trong các bên tranh chấp có Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất
ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình
xây dựng, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn
liền với đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền
với đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 137 của Luật này
và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án giải quyết;
Với những tranh chấp đất đai mà các bên
tranh chấp không có các giấy tờ trên thì các bên tranh chấp chỉ được lựa chọn
một trong 2 hình thức giải quyết tranh chấp: Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh
chấp tại UBND cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này; Khởi kiện
tại Tòa án có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Trường hợp các bên tranh chấp lựa chọn giải
quyết tranh chấp tại UBND cấp có thẩm quyền thì việc giải quyết tranh chấp đất
đai được thực hiện như sau:
Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá
nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết. Sau
thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND
cấp huyện mà các bên tranh chấp không gửi đơn đến cơ quan, người có thẩm quyền
giải quyết theo quy định tại điểm này thì quyết định giải quyết tranh chấp của
Chủ tịch UBND cấp huyện có hiệu lực thi hành.
Trường hợp không đồng ý với quyết định giải
quyết thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định, các bên tranh
chấp có quyền khởi kiện tại Tòa án theo quy định của pháp luật về tố tụng hành
chính hoặc khiếu nại đến Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Quyết định giải quyết của Chủ
tịch UBND cấp tỉnh có hiệu lực thi hành…
Chủ tịch UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp
tỉnh, Bộ trưởng Bộ TNMT khi giải quyết tranh chấp đất đai phải ra quyết định
giải quyết tranh chấp. Quyết định giải quyết tranh chấp có hiệu lực thi hành
phải được các bên nghiêm chỉnh chấp hành. Sau thời hạn 30 ngày kể từ ngày quyết
định giải quyết tranh chấp có hiệu lực thi hành mà các bên hoặc một trong các
bên không chấp hành sẽ bị cưỡng chế thi hành.
Chủ tịch UBND cấp huyện nơi có đất tranh
chấp ban hành quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định giải quyết tranh chấp đất
đai và tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế.
Mở rộng chủ thể có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp thương mại liên quan đến đất đai.
Đáng chú ý, Luật Đất đai 2024 quy định tranh
chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại liên quan đến đất đai sẽ do
tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự hoặc do trọng
tài thương mại Việt Nam giải quyết theo quy định của pháp luật về trọng tài
thương mại.
Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm cung
cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc quản lý, sử dụng đất khi được Tòa án,
Trọng tài thương mại Việt Nam yêu cầu để làm căn cứ cho giải quyết tranh chấp
đất đai.
Đây là lần đầu tiên Luật Đất đai 2024 đã
chính thức ghi nhận thẩm quyền giải quyết tranh chấp cho Trọng tài thương mại
tại khoản 5 Điều 236. Như vậy, ngoài Tòa án thì những tranh chấp phát sinh từ
hoạt động thương mại liên quan đến đất đai có thể được giải quyết bởi Trọng tài
thương mại Việt Nam theo quy định của pháp luật về trọng tài thương mại.
Do đó, việc sửa đổi, bổ sung trên phù hợp
với xu hướng xét xử và phát triển ngày nay bởi thực tế đã chứng minh ưu điểm từ
việc lựa chọn giải quyết tranh chấp tại Trọng tài trong thời gian qua. Bên cạnh
đó hiện nay, trong các hoạt động đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt
là hoạt động đầu tư kinh doanh liên quan đến bất động sản xuất hiện nhiều mâu
thẫu tranh chấp liên thương mại chứ không đơn thuần là các mâu thuẫn, tranh
chấp cơ bản liên quan đến quyền và nghĩa vụ sử dụng đất. Do đó nếu chỉ giao
thẩm quyền giải quyết các tranh chấp này cho Toà án hay UBND các cấp thì vô
hình chung đã tạo ra một khối lượng công việc lớn cho các chủ thể này, thậm chí
nhiều vụ việc giải quyết kéo dài, làm tăng thêm chi phí và điều này không chỉ
gián tiếp có ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế mà còn ảnh hưởng đến hiệu quả
thu hút đầu tư tại một số địa phương. Việc cho phép Trọng tài thương mại có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại liên quan đến đất đai sẽ giúp giảm
tải của Tòa án trong công tác xét xử tranh chấp đất đai hiện nay. Đồng thời,
các mâu thuẫn, tranh chấp thương mại của doanh nghiệp, nhà đầu tư trong mối
quan hệ kinh doanh liên quan đến đất đai được giải quyết kịp thời, thấu đáo,
hiệu quả về thời gian và cả chi phí.
Như vậy, với nhiều quy định mới về cơ chế
giải quyết các tranh chấp liên quan đến đất đai, Luật đất đai năm 2024
khi có hiệu lưc, hi vọng sẽ tạo ra sự rõ ràng, minh bạch,
thuận lợi cho người dân, cơ quan Nhà nước, Tòa án, Trọng tài thương mại Việt
Nam trong việc giải quyết nhanh chóng các vụ việc tranh chấp đất đai vốn là những
tranh chấp căng thẳng, phố biến nhất trong xã hội.
PHẦN 2: QUY TẮC ĐẠO ĐỨC VÀ ỨNG XỬ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ
1.
Những vấn đề về nội dung
Để thực hiện được những
chức năng xã hội nêu trên, đạo đức nghề nghiệp chính là nguồn gốc, là nền tảng
cơ bản của nghề Luật sư. Không có đạo đức nghề nghiệp, nghề Luật sư không thể tồn
tại và phát triển. Ý thức được tầm quan trọng về đạo đức của một người Luật sư
trong hoạt động hành nghề, Hội đồng Luật sư toàn quốc đã ban hành Bộ Quy tắc Đạo
đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam vào năm 2011 (sau được ban hành mới
vào năm 2019) để điều chỉnh hành vi của các Luật sư trong quan hệ với các chủ
thể có liên quan khi hoạt động nghề nghiệp và trong giao tiếp xã hội. Bộ Quy tắc
Đạo đức và ứng xử hành nghề Luật sư Việt Nam năm 2019 được ban hành gồm 06
chương với 32 quy tắc quy định về: Các quy tắc chung của Luật sư khi hành nghề;
các quy tắc trong quan hệ giữa Luật sư với khách hàng; các quy tắc của Luật sư
trong mối quan hệ với đồng nghiệp; các quy tắc khi Luật sư tiếp xúc, làm việc với
các cơ quan tiến hành tố tụng; cơ quan nhà nước và các tổ chức, cá nhân khác;
các quy tắc khi Luật sư cung cấp thông tin cho các cơ quan báo chí hay thực hiện
quảng cáo cho hoạt động hành nghề của mình.
Trên đây là những mối
quan hệ cơ bản của một Luật sư trong quá trình hoạt động nghề nghiệp được Bộ
Quy tắc Đạo đức và ứng xử hành nghề Luật sư Việt Nam điều chỉnh cụ thể như sau:
-
Các quy tắc chung của Luật sư khi hành nghề được quy định
tại chương I đã nêu lên các chức năng xã hội của Luật sư với sứ mệnh cao cả là
bảo vệ công lý, phát triển kinh tế, góp phần xây dựng xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh; tuân thủ và trung thành với Hiến pháp, pháp luật; độc lập, ngay thẳng,
tôn trọng sự thật và góp phần vào việc phát triển hệ thống pháp luật, tích cực
tham gia các hoạt động công ích.
-
Chương II là các quy tắc đạo đức của Luật sư trong quan hệ
với khách hàng. Khách hàng là một trong những chủ thể quan trọng nhất hình
thành nên nghề Luật sư, đó có thể là các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân sử dụng
dịch vụ pháp lý của Luật sư. Uy tín, lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp Luật sư
đều xuất phát từ nền tảng quan hệ này và tác dụng của nó có ý nghĩa chi phối
các hành vi ứng xử khác trong các quan hệ xã hội của Luật sư. Các tiêu chuẩn
này liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của Luật sư đối với
khách hàng, bao gồm việc tận tâm thực hiện hết khả năng và trách nhiệm với
khách hàng trong khuôn khổ pháp luật cho phép và phạm trù đạo đức nghề nghiệp;
tuân thủ bí mật quốc gia và bí mật của khách hàng; ngăn ngừa các thủ đoạn hành
nghề không lương thiện, tự giác thực hiện các nghĩa vụ trợ giúp pháp lý miễn
phí cho người nghèo, giải quyết các mâu thuẫn về lợi ích, việc nhận thù lao,…
-
Quy tắc trong quan hệ với đồng nghiệp được quy định tại
chương III của Bộ Quy tắc Đạo đức và ứng xử hành nghề Luật sư Việt Nam. Trong
cùng một môi trường việc làm không thể tránh khỏi những trường hợp, thời điểm,
tình huống xảy ra va chạm hay các mối liên hệ qua lại giữa những Luật sư với
nhau. Nhằm củng cố vị trí, vai trò của nghề luật trong xã hội và giữ gìn hình ảnh
của người Luật sư, cần thiết phải có những quy tắc được đặt ra trong mối quan hệ
giữa Luật sư với đồng nghiệp. Theo đó, mỗi Luật sư cần có nghĩa vụ “tôn trọng,
hợp tác với đồng nghiệp”, bảo vệ uy tín, danh dự của đồng nghiệp mình cũng như
chính bản thân. Đồng nghiệp ở đây được hiểu là những Luật sư có thể đang hoạt động
trong tổ chức hành nghề Luật sư, hành nghề với tư cách cá nhân, đang tập sự hoặc
các tổ chức xã hội – nghề nghiệp của Luật sư.
-
Chương IV quy định các nguyên tắc trong mối quan hệ giữa
Luật sư với các cơ quan tiến hành tố tụng. Mối quan hệ giữa Luật sư với các cơ
quan tiến hành tố tụng là mối quan hệ có tính chất đặc thù vừa đấu tranh vừa hợp
tác. Hợp tác ở chỗ Luật sư và cơ quan, người tiến hành tố tụng cùng chấp hành
nghiêm chỉnh quy định của pháp luật, tôn trọng lẫn nhau, cùng hướng tới mục
tiêu tìm ra sự thật, bản chất của vấn đề vì một phán quyết cuối cùng hợp tình hợp
lý. Mặt khác, tính đấu tranh lại thể hiện trong quá trình thực hiện quyền và
nghĩa vụ của từng chủ thể, Luật sư và cơ quan, người tiến hành tố tụng luôn có
sự giám sát qua lại lẫn nhau. Như vậy, với Luật sư, không chỉ đặt ra yêu cầu phải
có kiến thức pháp lý vững chắc, có thể áp dụng pháp luật đúng mà còn đòi hỏi phải
có lòng tự trọng, sự độc lập nhất định và tôn trọng chủ thể còn lại trong quan
hệ trên tinh thần thượng tôn pháp luật.
-
Ngoài cơ quan tiến hành tố tụng, khi hành nghề Luật sư
cũng thường xuyên tiếp xúc với các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức, cá
nhân khác. Mối quan hệ này xuất phát từ sự uỷ quyền của khách hàng cho Luật sư
nhằm giao tiếp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân đó để thực hiện nhu cầu pháp
lý của khách hàng, do vậy thường phát sinh đối với những Luật sư cung cấp dịch
vụ pháp lý đại diện ngoài tố tụng. Bộ Quy tắc quy định những chuẩn mực trong mối
quan hệ này tại Chương V.
-
Mặt khác, tại Chương VI của Bộ Quy tắc cũng đưa ra hai
Quy tắc liên quan đến hoạt động của Luật sư gồm: “Thông tin, truyền thông và Quảng
cáo”. Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển như hiện nay, Luật sư phối
hợp với các tổ chức thông tin đại chúng để cung cấp thông tin về những vấn đề
dư luận đang quan tâm, tuyên truyền pháp luật và phòng chống tội phạm. Tuy nhiên,
với sự bùng nổ thông tin truyền thông hiện nay, trên các phương tiện thông tin
đại chúng luôn xuất hiện rất nhiều ý kiến trái chiều, những thông tin không được
kiểm chứng và với tư cách là một Luật sư – người am hiểu pháp luật, các Luật sư
cần thận trọng với những phát ngôn của mình trước truyền thông. Bộ Quy tắc đã
dành chương cuối để quy định những chuẩn mực của Luật sư khi cung cấp thông tin
cho báo chí, truyền thông, đây như một thước đo, một giới hạn đạo đức mà mỗi Luật
sư cần biết để có cách ứng xử phù hợp thể hiện đúng trách nhiệm của mình.
Trong 32 quy tắc của Bộ
Quy tắc, chương II “quan hệ với khách hàng” gồm 4 mục, 12 quy tắc là quan trọng
nhất. Bởi lẽ, luật sư là hoạt động nghề nghiệp, cung cấp dịch vụ pháp lý cho
khách hàng trên các lĩnh vực tố tụng, tư vấn, đại diện ngoài tố tụng, thực hiện
dịch vụ pháp lý khác. Công việc hành nghề của luật sư luôn gắn với khách hàng
và là quan hệ thường xuyên, phổ biến nhất trong các mối quan hệ liên quan đến
nghề nghiệp luật sư. Do đó, quan hệ giữa khách hàng với luật sư là quan hệ cơ bản
nhất trong hoạt động nghề nghiệp luật sư.
Tóm lại, Bộ Quy tắc Đạo đức
và ứng xử hành nghề Luật sư ở Việt Nam như một kim chỉ nam cho quá trình hành
nghề của mỗi Luật sư. Bộ Quy tắc đã đưa ra những chuẩn mực đạo đức mà mỗi Luật
sư cần tuân theo trong mối quan hệ với khách hàng, với đồng nghiệp; với cơ quan
tiến hành tố tụng; các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân khác và các chuẩn mực
khi cung cấp thông tin với các cơ quan truyền thông hay thực hiện hoạt động quảng
cáo. Từ đó, giúp các Luật sư dễ dàng hơn khi xây dựng định hướng nghề nghiệp
đúng đắn, phù hợp; đồng thời nâng cao vị trí, vai trò và chức năng của nghề Luật
sư trong xã hội.
2.
Hướng dẫn Luật sư ứng dụng
quy tắc trong thực tiễn
2.1
Quan hệ của Luật sư với
khách hàng
Ø
Các câu hỏi trao đổi:
a)
Luật sư có được phép sử dụng các thông tin của khách hàng
hay không?
+ Nếu trả lời có thì hỏi
tiếp: Vậy nếu Luật sư sử dụng bí mật của thân chỉ để bán số cổ phần mà mình nắm
giữ nhằm kiếm lời thì có hợp pháp không? → chỉ cần sử dụng bí mật đã là vi phạm
+ Nếu trả lời không thì hỏi
tiếp: Vậy Luật sư có thể làm gì đối với bí mật của kháng hang → Đưa ra tư vấn,
hành động pháp lý thích hợp để bảo vệ quyền và lợi ích cho thân chủ
b)
Cần làm gì để tránh vi phạm các việc không được làm trong
quan hệ với khách hàng?
c)
Luật sư có nên tiếp nhận tất cả các vụ việc theo yêu cầu
của khách hang hay không?
d)
Cần làm gì để xác định vụ việc có nên được tiếp nhận hay
không?
e)
Trong quá trình thực hiện vụ việc, Luật sư cần tuân thủ
những nghĩa vụ gì?
f)
Luật sư cần xử lý vụ việc như thế nào trong trường hợp xảy
ra xung đột lợi ích?
Ø
Định hướng trả lời:
- Nét văn hóa, đạo đức của
luật sư trong việc tôn trọng sự lựa chọn của khách hàng còn thể hiện ở việc luật
sư chỉ nhận những vụ việc theo khả năng chuyên môn và điều kiện của mình trong
phạm vi yêu cầu hợp pháp của khách hang
- Khi tiếp nhận vụ việc của
khách hàng, việc quyết định nhận lời hay từ chối tiếp nhận vụ việc hoàn toàn
tùy thuộc vào ý chí chủ quan của luật sư, không phụ thuộc vào bất kỳ yếu tố
khách quan nào. Khi luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng, phải đảm bảo
tính pháp lý và tôn trọng nguyện vọng của khách hàng
- Luật sư nhận việc không
đúng chuyên môn, nghiệp vụ, không phù hợp với điều kiện của mình sẽ thực hiện
công việc không hiệu quả, ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng, làm giảm lòng
tin của khách hàng đối với cá nhân luật sư đó và giới luật sư
2.2
Quan hệ đồng nghiệp của
luật sư
Ø
Các câu hỏi trao đổi:
a)
Tại sao Luật sư phải tôn trọng lẫn nhau, không phân biệt
tuổi tác và thời gian hành nghề?
b)
Đặc thù gì của nghề nghiệp luật sư có thể ảnh hưởng đến
tình cảm đồng nghiệp?
c)
Cần làm gì để góp ý với đồng nghiệp?
d)
Luật sư có cạnh tranh không?
+ Nếu trả lời có thì hỏi tiếp: Hình thức cạnh tranh không
lãnh mạnh của luật sư có thể là gì?
+ Nếu trả lời là không thì hỏi tiếp: Vậy nếu trong 1 khu
phố có đến 3 văn phòng luật sư thì học viên sẽ làm gì để thu hút khách
hàng?-->để định hướng là vẫn cần phải làm mọi cách để lôi kéo khách hàng →
có sự cạnh tranh -Cần làm gì khi có mâu thuẫn với luật sư đồng nghiệp? → Hướng
học viên đến hòa giải, thương lượng
+ Thương lượng, hòa giải có lợi ích gì đến tình cảm đồng
nghiệp? - Khi không thể hòa giải thì luật sư cần làm gì?
Ø
Định hướng trả lời:
- Những
luật sư lớn tuổi, có nhiều kinh nghiệm cần tôn trọng các luật sư trẻ tuổi, để từ
đó có thể truyền đạt kinh nghiệm nghề nghiệp cho các thể hệ luật sư kế cận.
Trong khi đó, các luật sư trẻ tuổi cần tôn kính thế hệ luật sư đi trước, những
người đã đặt nền móng cho sự phát triển của nghề luật sư, để học hỏi kinh nghiệm
quý báu từ những luật sư giàu kinh nghiệm
- Có sự va chạm nghề nghiệp, có sự đối đầu về
mặt pháp lý trong những vụ việc nhất định phải xuất phát từ lòng chân thành,
mong muốn luật sư đồng nghiệp thấy được sai trái mà kịp thời khắc phục
2.3
Quan hệ của luật sư với các cơ quan tiến hành
tố tụng và các cơ quan nhà nước khác
Ø
Các câu hỏi trao đổi:
a)
Hiểu thế nào về “tính độc lập nghề nghiệp” của
luật sư trong quan hệ với các cơ quan và người tiến hành tố tụng?
c)
Luật sư cần tuân thủ quy tắc tôn trọng người
tiến hành tố tụng, luật sư đồng nghiệp thì có thể tranh luận, đối đáp lại
không?
+ Nếu
trả lời có thì hỏi tiếp: Thế nào là tranh luận, đối đáp một cách hợp lý, không
đi ngược với quy tắc?
+ Nếu
trả lời là không thì hỏi tiếp: Vậy nếu trong trường hợp quan điểm của người tiến
hành tố tụng/luật sư đồng nghiệp gây bất lợi, trái với quan điểm cá nhân thì phải
làm gì để chứng minh cho quan điểm của mình?-- >để định hướng là vẫn cần phải
sử dụng các tài liệu, chứng cứ để chứng minh quan điểm
e)
Khả
năng làm chủ bản thân, giữ bình tĩnh có lợi ích gì khi xuất hiện các tình huống
thiếu tôn trọng từ người tiến hành tố tụng,khách hang của luật sư tại phiên
tòa?
Ø
Định hướng trả lời:
- Trách
nhiệm của luật sư là phải nghiêm chỉnh chấp hành các quy định đó khi tham gia tố
tụng hoặc trao đổi công việc cần thiết trong hoạt động dịch vụ pháp lý mà luật
sư cung cấp cho khách hàng. Thái độ “hợp tác, lịch sự, tôn trọng những người tiến
hành tố tụng” là biểu hiện đạo đức luật sư khi tham gia các quan hệ tố tụng.
- Với tư cách người bào chữa hoặc người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, luật sư cần nhận thức việc tiếp xúc,
trao đổi ý kiến về nghiệp vụ là cần thiết và có lợi cho khách hàng, nên đương
nhiên phải giữ tính độc lập, không bị chi phối hoặc lệ thuộc vào ý kiến khác
mình làm ảnh hưởng tới việc xây dựng quan điểm, phương án bào chữa, bảo vệ quyền
lợi hợp pháp của khách hàng
HÌNH ẢNH LS
TRẦN MINH HÙNG - LS GIỎI VÀ GIÀU KINH NGHIỆM BÀO CHỮA NHIỀU VỤ ÁN LỚN NÊN ĐƯỢC
NHIỀU ĐÀI TRUYỀN HÌNH QUỐC GIA NHƯ HTV, VTV,VOV,VOH, TRUYỀN HÌNH CÔNG AN ANTV,
TRUYỀN HÌNH QUỐC HỘI VIỆT NAM, QUỐC PHÒNG, TÂY NINH, CẦN THƠ, BÌNH DƯƠNG, TRUYỀN
HÌNH VĨNH LONG, TƯ VẤN LUẬT TRÊN BÁO CHÍ CHÍNH THỐNG, NHIỀU TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỜI
PHỎNG VẤN, CHIA SẼ KINH NGHIỆM, TRAO ĐỔI PHÁP LÝ, GÓP Ý KIẾN PHÁP LÝ CHO NGƯỜI
DÂN, SINH VIÊN, CHO CÁC CHUYÊN GIA.
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ GIA ĐÌNH
Với phương châm chủ đạo “LUẬT SƯ CỦA GIA ĐÌNH BẠN”, Tên LUẬT SƯ GIA ĐÌNH không
có nghĩa chúng tôi chỉ chuyên về hôn nhân gia đình, mà nghĩa là Chúng tôi là
Luật sư của Gia Đình Bạn, Luật sư của doanh nghiệp. Chúng tôi là hãng luật tổng
hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên
có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết
rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong
nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề
luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những
nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy
hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy
hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm,
có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có
khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công
việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa.
Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ,
đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã
hội.
Luật sư Trần Minh Hùng
là một trong những luật sư sáng lập văn phòng luật, giàu kinh nghiệm về kiến
thức và thực tiễn đã dành nhiều thắng lợi vụ kiện và quan trọng luật sư Hùng
luôn coi trọng chữ Tâm của nghề luật sư và trách nhiệm đối với xã hội nên đã
được nhiều hãng báo chí, truyền thông, Đài truyền hình, Đài tiếng nói Việt nam
phỏng vấn pháp luật, nhiều lĩnh vực quan
trọng liên quan đến đời sống. Luật sư Trần Minh Hùng là đối tác tư vấn
pháp luật được nhiều hãng truyền thông, báo chí trong nước tin tưởng với
nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn trên VOV Giao Thông – Đài tiếng nói
Việt Nam, Đài phát thanh VOH TPHCM, Đài truyền hình TP.HCM (HTV), Đài
truyền hình Việt Nam (VTV), Truyền hình SCTV, THĐN, Truyền hình Quốc Hội
VN, Truyền hình Công an ANTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Đài phát
thanh kiên giang, Đài Bình Dương, Truyền hình Quốc Phòng, VTC... và các hãng
báo chí trên cả nước, được các tổ chức, trường Đại học Luật TP.HCM mời làm
giám khảo các cuộc thi Phiên tòa giả định với Đại học cảnh sát, mời làm chuyên
gia ý kiến về các sự kiện……là đối tác tư vấn luật của các hãng truyền thông này
và luôn mang lại niềm tin cho khách hàng và ghi nhận sự đóng góp của chúng tôi
cho xã hội...là luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan
trọng báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank liên quan
Huyền Như Viettinbank, các vụ Giết Người do mâu thuẫn hát karaoke tại Bình
Chánh, Bào chữa chủ tịch Huyện Đông Hòa, Đại án Vụ cướp bitcoin 35 tỷ Long
Thành- Dầu Dây, Bào chữa vụ Đại Án Đăng Kiểm, Bào chữa vụ đại án Khai thác Cát
Cần giờ, Bào chữa bị cáo Huân không đeo khẩu trang mùa Covit, Vụ Nữ sinh Tân
Bình bị cắt tai, bảo vệ cho MC Trấn Thành, Bào chữa, bảo vệ vụ "Bác sĩ
khoa rút ống thở", Bảo vệ cho người cho thuê nhà vụ Công ty Thế giới Di
Động không trả tiền thuê nhà mùa dịch covid, Tư vấn cho nghệ sĩ Thương Tín, bảo
vệ vụ đổ xăng đốt 10 người tại TPHCM, các vụ Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, cưỡng
đoạt, cướp, gây thương tích, tham ô, mua bán ma túy, cố ý làm trái, bào chữa vụ
án cựu Cảnh sát Buôn Lậu và các bị cáo kiên quan, bào chữa vụ khai thác cát Cần
giờ- Tiền Giang, bào chữa vụ chiếm đoạt tiền công nghệ của nước Úc của bị can
về công nghệ, bào chữa vụ Mua bán khẩu trang mùa covid, bào chữa nhiều vụ án ma
túy, bào chữa vụ lợi dụng chức vụ quyền hạn của tổ chức tín dụng ngân hàng...
.… và rất nhiều các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao
động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng
cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi
cho xã hội của luật sư chúng tôi..…là hãng luật tư vấn luật cho nhiều công ty
Việt Nam và nước ngoài trên cả nước luôn mang lại niềm tin cho khách hàng
cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi
cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Đối
tác tư vấn pháp luật của các tờ báo uy tín, đài truyền hình uy tín, nhiều khách
hàng, đối tác, doanh nghiệp như:
Khoa Luật đại học Mở TPHCM, Đại học luật TPHCM, Cao đẳng Nghề Phú Lâm, Công ty
chế biến trái cây Yasaka (Nhật bản), Công ty Nam Chê (Hàn Quốc), Công ty Cổ phần
thương mại dịch vụ Bến Thành (Cổ phần nhà nước), Công ty TNHH Kỹ Thuật Năng Lượng,
Công ty Vina Buhmwoo (Hàn Quốc), Công ty ECO SYS Kim Trường Phát (Hàn Quốc),
Công ty cổ phần BĐS BiG Land, Công ty TNHH dược phẩm AAA, Công ty
TNHH Hanwa Kakoki Việt Nam (Nhật Bản), Công ty TNHH DV BV Ti Tan, Công ty CP
Chuỗi Nông sản Sài gòn, Công ty CP BĐS Happy Land S, Công ty CP SG Xây dựng (cổ
phần hóa nhà nước), Công ty CP Maduphar, Công ty Thủy sản Đắc Lộc (Phú Yên),
Công ty Thủy Sản Ocean Country, Công ty Blue Bay, Công ty Gallent country,
Công ty Hàn Quốc DEASUNG, Công ty Innoluk, Công ty TNHH FURUSHIMA VIỆT NAM, Công ty Kim Trường Phát (Hàn Quốc), Công ty VEDAN …và nhiều công ty, khách hàng khác trên khắp
cả nước.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư
Thành Phố).
Văn phòng quận 6: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công
chứng số 7)
Văn phòng quận 1: 68/147
Trần Quang Khải (số mới: Trần Nguyên Đán), Tân Định, quận 1, TPHCM
Văn phòng Biên Hòa: 5/1
Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
Điện thoại: 0972238006- 028-38779958;
Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng:
0972 238006 (zalo, facebook, viber,telegram)
https://www.youtube.com/@LUATSUTUVANBAOCHUA/about
tiktok: www.tiktok.com/@luatsuminhhung
facebook: Trần Minh Hùng
Email: luatsuthanhpho@gmail.com
http://www.luatsugiadinh.net.vn
|