1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực,
truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức
khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
2. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án
nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp
phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định.
Theo quy định trên thì không phải Công an cứ thích bắt
người thì bắt, cứ thích giam, thích giữ thì giam giữ người. Việc bắt, giam, giữ
người của Công an phải tuân thủ theo luật pháp Việt Nam và người dân cần hiểu
rõ luật pháp và quyền lợi của mình để bảo vệ bản thân khỏi những trường
hợp bắt giữ sai trái. Như vậy, tất cả mọi người đều được tôn trọng và bảo vệ quyền
bất khả xâm phạm về thân thể. Chỉ khi nào có quyết định của cơ quan
có thẩm quyền thì mới được bắt người hoặc bị bắt do phạm tội quả
tang. Bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào bắt giữ người trái phép
thì có thể sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 123 bộ luật Hình
sự.
Pháp luật quy định những
trường hợp sau sẽ được bắt người:
1. Điều 80 quy định bắt bị can, bị cáo để tạm
giam:
“1. Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can,
bị cáo để tạm giam:
a) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và
Viện kiểm sát quân sự các cấp;
b) Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân
sự các cấp;
c) Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử;
d) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp.
Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước
khi thi hành.
2. Lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ
của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải
có chữ ký của người ra lệnh và có đóng dấu.
Người thi hành lệnh phải đọc lệnh, giải thích lệnh, quyền
và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt.
Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có
đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt
chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc phải có đại diện
cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại
nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn
nơi tiến hành bắt người.
3. Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt
khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã quy định tại Điều 81
và Điều 82 của Bộ luật này”.
– Điều 96 bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Đêm
được tính từ 22 giờ đến 6 giờ sáng ngày hôm sau”.
2. Điều 81 quy định bắt người trong trường hợp
khẩn cấp:
“1. Trong những trường hợp sau đây thì được bắt khẩn
cấp:
a) Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực
hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội
phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà
xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
c) Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ
ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc
người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ.
2. Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt người trong
trường hợp khẩn cấp:
a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
b) Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn
và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;
c) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển
đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
3. Nội dung lệnh bắt và việc thi hành lệnh bắt người
trong trường hợp khẩn cấp phải theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 80 của Bộ
luật này.
4. Trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được báo
ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến
việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn.
Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ bắt khẩn cấp
quy định tại Điều này. Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát phải trực tiếp
gặp, hỏi người bị bắt trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định
không phê chuẩn.
Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị xét
phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra
quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát quyết
định không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị
bắt”.
– Tiểu mục 3.1 và 3.2 Mục 3 Thông tư liên tịch
05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP về quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và viện kiểm
sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2003 quy định:
“3.1. Chỉ được bắt khẩn cấp khi có đủ tài liệu chứng
minh việc bắt khẩn cấp thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 1
Điều 81 của BLTTHS. Nếu bắt khẩn cấp theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này
thì trong hồ sơ phải có tài liệu chứng minh các căn cứ để cho rằng người đó
đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng. Nếu bắt khẩn cấp theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này thì trong hồ
sơ phải có biên bản ghi lời khai của người bị hại hoặc lời khai của người có
mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã
thực hiện tội phạm và các tài liệu hoặc căn cứ khác chứng tỏ người đó sẽ bỏ
trốn. Nếu bắt khẩn cấp theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều này thì phải thu
thập hoặc ghi nhận được dấu vết, tài liệu, đồ vật liên quan đến tội phạm ở
người hoặc tại chỗ ở, nơi làm việc của người bị nghi thực hiện tội phạm đó.
Cần lưu ý, để nhận định đúng việc người đó có thể trốn
theo quy định tại các điểm b, c khoản 1 Điều 81 của BLTTHS, người có thẩm quyền
ra lệnh bắt khẩn cấp và Viện kiểm sát khi xét phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp phải
căn cứ và đánh giá một cách toàn diện về các mặt như: nhân thân người đó (có
tiền án, tiền sự, lang thang không có nơi cư trú rõ ràng….), tính chất nghiêm
trọng của hành vi phạm tội và loại phạm tội được thực hiện và thực tiễn cho
thấy người phạm tội thường trốn như tội trộm cắp, lừa đảo, cướp, giết người,
mua bán trái phép các chất ma tuý…