Trả lời: Chào bạn, Cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến VPLS GIA ĐÌNH, đối với trường hợp trên chúng tôi tư vấn như sau:
- Trước tiên, về vấn đề xác định căn nhà đó là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ chồng thì:
Việc bạn có được chia nhà hay không phụ thuộc vào việc xác định xem căn nhà đó là tài sản chung của vợ chồng bạn hay tài sản riêng của ông ấy?
Theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình thì tài sản chung vợ chồng bao gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Về Tài sản riêng của vợ, chồng theo Quy định tại Điều 32 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2002 gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân.
Khoản 2 Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình có quy định:“Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng”.
Tuy nhiên, tại Điểm b Khoản 3 Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP có hướng dẫn cụ thể như sau: “Thực tiễn cho thấy chỉ có tài sản rất lớn, rất quan trọng đối với đời sống gia đình thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu mới ghi tên của cả vợ chồng (như: nhà ở, quyền sử dụng đất...), song cũng không phải trong mọi trường hợp. Đối với các tài sản khác phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận thường chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng (như: xe môtô, xe ôtô, tàu, thuyền vận tải...). Mặt khác, khoản 1 Điều 32 đã quy định cụ thể về tài sản riêng của vợ chồng. Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên, trong trường hợp tài sản do vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng, nếu không có tranh chấp thì đó là tài sản chung của vợ chồng; nếu có tranh chấp là tài sản riêng thì người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải chứng minh được tài sản này do được thừa kế riêng, được tặng riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản này có được từ nguồn tài sản riêng quy định tại khoản 1 Điều 32 (ví dụ: được thừa kế riêng một khoản tiền và dùng khoản tiền này mua cho bản thân một chiếc xe môtô mà không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng). Trong trường hợp không chứng minh được tài sản đang có tranh chấp này là tài sản riêng thì theo quy định tại khoản 3 Điều 27 tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng”
Như vậy, căn cứ vào quy định của pháp luật, nếu không có tranh chấp, thì dù trong sổ hồng căn nhà ba bạn tặng cho em trai bạn chỉ đứng tên một mình em trai bạn, thì quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất vẫn là tài sản chung của em trai và em dâu bạn, do được ba bạn tặng cho trong thời kỳ hôn nhân của em trai và em dâu bạn.
Theo những thông tin bạn cung cấp, hiện em dâu đang tranh chấp đòi chia căn nhà với em trai bạn. Bởi vậy, theo quy định của pháp luật, nếu em trai bạn chứng minh được căn nhà này được ba bạn tặng riêng trong thời kỳ hôn nhân, thì căn nhà thuộc về tài sản riêng của em trai bạn, tức là em dâu bạn nếu ly hôn sẽ không được chia căn nhà đó với em trai bạn.
Mặt khác, nếu em trai bạn không chứng minh được căn nhà là tài sản riêng của mình, thì theo quy định tại Khoản 3 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình, căn nhà sẽ thuộc về tài sản chung của em trai và em dâu bạn. Như vậy có nghĩa là, nếu ly hôn, em dâu của bạn sẽ được chia tài sản chung, trong đó có căn nhà.
- Thứ hai, việc chia tài sản chung khi ly hôn căn cứ vào Điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 như sau:
“1. Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó.
2. Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:
a) Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
b) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.
3. Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”.
Cảm ơn Qúy vị đã tin tưởng chúng tôi trong thời gian qua, còn vấn đề nào chưa rõ bạn có thể liên hệ đến chúng tôi để được tư vấn cụ thể hơn.
Trân trọng. |