1. Cấm đi khỏi nơi cư trú là gì?
Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án( Theo Khoản 1 Điều 123 Bộ luật tố tụng hình sự 2015).
Theo Khoản 1 Điều 12 Luật cư trú 2006 quy định:
“Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú.
Chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật.
Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú.”
Như vậy, cấm đi khỏi nơi cư trú là cấm đi khỏi nơi sinh sống, nơi đăng kí hộ khẩu thường trú của bị can bị cáo.
Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp cưỡng chế tuy nhiên khác với các biện pháp khác, khi bị cấm đi khỏi nơi cư trú thì bị can, bị cáo không bị cách ly khỏi ra đình, xã hội mà vẫn được làm việc bình thường tuy nhiên bị hạn chế quyền tự do cư trú và đi lại của mình trong một không gian, thời gian nhất định. Đây được coi là biện pháp ngăn chặn ít nghiêm khắc hơn biện pháp tạm giam, tạm giữ.
2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về cấm đi khỏi nơi cư trú:
Căn cứ pháp lý: Cấm đi khỏi nơi cư trú được quy định tại Điều 123 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Cụ thể,
“Cấm đi khỏi nơi cư trú
Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.
2. Bị can, bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ:
a) Không đi khỏi nơi cư trú nếu không được cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cho phép;
b) Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;
c) Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;
d) Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại Khoản này thì bị tạm giam.
3. Những người có thẩm quyền quy định tại Khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Đồn trưởng Đồn biên phòng có quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.
4. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.
5. Người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đơn vị quân đội đó để quản lý, theo dõi họ.
Trường hợp bị can, bị cáo vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc đơn vị quân đội quản lý họ và phải có giấy cho phép của người đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.
6. Nếu bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo phải báo ngay cho cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú biết để xử lý theo thẩm quyền.”
– Đối tượng áp dụng
* Đối tượng áp dụng đối với biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú: là các bị can, bị cáo. Tuy nhiên điều luật này cũng như các quy định khác trong Bộ luật tố tụng hình sự không có quy định bắt buộc biện pháp này chỉ được áp dụng với tội ít nghiêm trọng mà không được áp dụng với tội rất nghiêm trọng. Căn cứ nơi cư trú rõ ràng thường được hiểu là bị can, bị cáo có nơi ổn định, thường xuyên, đã đăng ký thường trú ở địa điểm đó. Do đó, chúng ta có thể hiểu rằng cấm đi khỏi nơi cư trú được áp dụng đối với mọi loại tội phạm.
– Thẩm quyền áp dụng
Thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú được thực hiện bởi những người có thẩm quyền áp ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam, ngoài ra còn có Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Đồn trưởng Đồn biên phòng có quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Người có thẩm quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo cho chính quyền về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn, nơi bị can, bị cáo đang cư trú nhằm quản lý bị can, bị cáo, bởi đây là cấp quản lý trực tiếp đối với bị can, bị cáo.
– Thời hạn áp dụng
Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú được xác định dựa theo thời hạn điều tra truy tố hoặc xét xử. Đối với người bị kết án phạt tù thì thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không được quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.
* Khi bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cần phải làm giấy cam đoan, thực hiện nghĩa vụ được liệt kê tại Khoản 2 Điều 123 Bộ luật tố tụng hình sư như:
– Một là, cấm đi khỏi nơi cư trú khi được sự cho phép của cơ quan ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú
– Hai là, khi có giấy triệu tập phải có mặt đầy đủ trừ trường hợp lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan
– Ba là, không bỏ trốn và tiếp tục phạm tội
– Bốn là, không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Trong trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo đang cư trú phải báo ngay cho cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú biết để có biện pháp xử lý kịp thời.
3. So sánh quy định cấm đi khỏi nơi cư trú trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và Bộ luật tố tụng hình sự 2015:
Quy định cấm đi khỏi nơi cư trú đã từng được ghi nhận trước đây trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003 như sau:
1. Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.
2. Những người quy định tại Khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên Tòa có quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.
Bị can, bị cáo phải làm giấy cam đoan không đi khỏi nơi cư trú của mình, phải có mặt đúng thời gian, địa điểm ghi trong giấy triệu tập.
Người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn để quản lý, theo dõi họ. Trong trường hợp bị can, bị cáo có lý do chính đáng phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú và phải có giấy phép của cơ quan đã áp dụng biện pháp ngăn chặn đó.
3. Bị can, bị cáo vi phạm lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.”
Nhìn chung về cơ bản cả hai Bộ luật này đều đã ghi nhận đây là biện pháp ngăn chặn nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án.
Tuy nhiên, trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định này chưa được rõ ràng và chặt chẽ khi không đề cập đến những vấn đề mà bị can, bị cáo cần phải cam đoan và thực hiện các nghĩa vụ khi bị cấm đi khỏi nơi cư trú. Vấn đề này đã được sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015 ( quy định tại Khoản 2 Điều 123 Bộ luật tố tụng hình sự 2015).
Trong Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2003, tuy không quy định thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú cũng không quy định khi nào hết thời hạn áp dụng biện pháp này. Do vậy, trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, sau khi Cơ quan điều tra ra lệnh áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú thì lệnh này sẽ tồn tại suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án nếu không được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác.
Do đó có trường hợp bị cáo sau khi xét xử xong vẫn còn lệnh này. Khắc phục tình trạng này, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã quy định thêm về thời hạn áp dụng đối với bị can, bị cáo khi bị cấm đi khỏi nơi cư trú để có sự thống nhất giữa nội dung của luật cũng như tình hình thực tiễn( quy định cụ thể tại Khoản 4 Điều 123 Bộ luật tố tụng hình sự 2015).
LS TRẦN
MINH HÙNG, LS GIỎI VÀ GIÀU KINH NGHIỆM BÀO CHỮA NHIỀU VỤ ÁN LỚN NÊN ĐƯỢC NHIỀU
ĐÀI TRUYỀN HÌNH QUỐC GIA NHƯ HTV, VTV,VOV,VOH, TRUYỀN HÌNH CÔNG AN, QUỐC HỘI,
QUỐC PHÒNG, TÂY NINH, CẦN THƠ, BÌNH DƯƠNG, VĨNH LONG, BÁO CHÍ CHÍNH THỐNG, NHIỀU
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỜI PHỎNG VẤN, CHIA SẼ KINH NGHIỆM, TRAO ĐỔI PHÁP LÝ, GÓP Ý KIẾN
PHÁP LÝ CHO NGƯỜI DÂN, SINH VIÊN, CHO CÁC CHUYÊN GIA.
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.
Luật sư Trần Minh Hùng là một trong những luật sư sáng lập văn phòng luật, giàu kinh nghiệm về kiến thức và thực tiễn đã dành nhiều thắng lợi vụ kiện và quan trọng luật sư Hùng luôn coi trọng chữ Tâm của nghề luật sư và trách nhiệm đối với xã hội nên đã được nhiều hãng báo chí, truyền thông, Đài truyền hình, Đài tiếng nói Việt nam phỏng vấn nhiều lĩnh vực quan trọng liên quan đến đời sống. Luật sư Trần Minh Hùng được nhiều hãng truyền thông, báo chí trong nước tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn trên VOV Giao Thông – Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài truyền hình TP.HCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Truyền hình SCTV, THĐN, Truyền hình Quốc Hội VN, Truyền hình Công an ANTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Đài phát thanh kiên giang, Đài Bình Dương... và các hãng báo chí trên cả nước, được các tổ chức, trường Đại học Luật TP.HCM mời làm giám khảo các cuộc thi Phiên tòa giả định với Đại học cảnh sát, mời làm chuyên gia ý kiến về các sự kiện……là đối tác tư vấn luật của các hãng truyền thông này và luôn mang lại niềm tin cho khách hàng và ghi nhận sự đóng góp của chúng tôi cho xã hội...là luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như Viettinbank, các vụ Giết Người do mâu thuẫn hát karaoke tại Bình Chánh, Bào chữa chủ tịch Huyện Đông Hòa, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành- Dầu Dây, Bào chữa bị cáo Huân không đeo khẩu trang mùa Covit, Vụ Nữ sinh Tân Bình bị cắt tai, bảo vệ cho MC Trấn Thành, Bào chữa, bảo vệ vụ "Bác sĩ khoa rút ống thở", Bảo vệ cho người cho thuê nhà vụ Công ty Thế giới Di Động không trả tiền thuê nhà mùa dịch covid, Tư vấn cho nghệ sĩ Thương Tín, bảo vệ vụ đổ xăng đốt 10 người tại TPHCM, các vụ Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, cưỡng đoạt, cướp, gây thương tích, tham ô, mua bán ma túy, cố ý làm trái, bào chữa vụ án cựu Cảnh sát Buôn Lậu và các bị cáo kiên quan, bào chữa vụ khai thác cát Cần giờ- Tiền Giang, bào chữa vụ chiếm đoạt tiền công nghệ của nước Úc của bị can về công nghệ, bào chữa vụ Mua bán khẩu trang mùa covid, bào chữa nhiều vụ án ma túy, bào chữa vụ lợi dụng chức vụ quyền hạn của tổ chức tín dụng... .… và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi..…là hãng luật tư vấn luật cho nhiều công ty Việt Nam và nước ngoài trên cả nước luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
64 Võ Thị Sáu, Tân Định, quận 1, TPHCM
68/147 Trần Quang Khải (số mới Trần Nguyên Đán), Tân Định, Quận1, TPHCM
Điện thoại: 028-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
|