ĐOÀN
LUẬT SƯ TP.HCM
VĂN
PHÒNG LUẬT SƯ GIA ĐÌNH
ĐT: 028.38779958
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập – Tự
Do – Hạnh Phúc
Văn phòng luật sư Gia Đình là một hãng luật được quyền
cung cấp dịch vụ pháp lý là luật sư tư vấn pháp luật thường xuyên trên Đài
Truyền hình HTV7, HTV9, Đài truyền hình Vĩnh Long, Đài truyền hình Việt Nam
(VTV), Đài truyền hình cáp VTC, Truyền hình Cần Thơ, Đài VOV Giao Thông,
SCTV, Truyền hình Công an ANTV, Truyền hình Quốc hội Việt Nam, Đài phát thanh
Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo công an nhân dân, Báo Công an nhân dân,
Thanh Niên, Báo pháp luật… và nhiều hãng báo chí khác... là luật sư được Trường
Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định Cấp
Quốc Gia, học thuật với trường Đại học Cảnh sát nhân dân. Là Luật
sư bào chữa, tư vấn, bảo vệ cho nhiều vụ án trên mọi lĩnh vực…
|
BÀI LUẬN CỨ
CỦA LS TRẦN MINH HÙNG – TRƯỞNG VPLS GIA ĐÌNH BÀO CHỮA CHO BỊ CÁO TRẦN NGỌC
HOÀNG TRONG VỤ ÁN “CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN”.
Cáo trạng và kết luận điều tra
truy tố bị cáo Trần Ngọc Hoàng về tội danh Cưỡng đoạt tài sản theo quy định tại
điểm a Khoản 4 Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 với tình
tiết “Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên” là không có cơ sở, trái
với quy định pháp luật. Bởi các lẽ sau:
Thứ nhất: Bitcoin không phải là tài sản
1. Theo quy định pháp luật dân sự, Bitcoin không được
xem là tài sản, cụ thể như sau:
Căn cứ điều 105 BLDS 2015:
“1. Tài sản
là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản
bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản
hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”
Vật là một bộ phận của thế giới vật chất tồn tại dưới
dạng rắn, lỏng, khí và con người có thể chiếm hữu, kiểm soát được. Do đó, các
đồng tiền mã hóa (tiền ảo) không phải là vật.
Căn cứ khoản 2 điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước 2010:
“Đồng tiền
của quốc gia khác hoặc đồng tiền chung châu Âu và đồng tiền chung khác được sử
dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực (sau đây gọi là ngoại tệ); …”
Theo quy định này, các đồng tiền mã hóa (tiền ảo)
không phải là tiền tệ do không được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành và
không phải là ngoại tệ do không phải là đồng tiền chính thức của bất cứ quốc
gia nào.
Căn cứ khoản 1 điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày
22/02/2012 sửa đổi bổ sung Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của
Chính phủ về giao dịch bảo đảm:
Giấy tờ có
giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ
tiền gửi, séc, chứng chỉ quỹ, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật,
trị giá được thành tiền và được phép giao dịch.
Nên các đồng tiền mã hóa (tiền ảo) không phải là giấy
tờ có giá.
Căn cứ điều 115 BLDS 2015:
“Quyền tài
sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng
quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.”
Do đó các đồng tiền mã hóa (tiền ảo) không phải là
quyền tài sản.
Tiền ảo không thuộc 1 trong 4 loại nêu trên nên tiền
ảo không được coi là tài sản. Như vậy theo quy định pháp luật dân sự, các đồng
tiền mã hóa/ tiền ảo như Tron, Bitcoin, Bittoren.. không phải là tài sản.
2. Các cơ
quan Nhà nước cũng có các Công văn trả lời về việc Bitcoin có được xem là tài
sản hay không, cụ thể như sau:
- Công văn số
60/CSHS ngày 18/6/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Bộ Công an về đề
nghị phối hợp cung cấp thông tin, bút lục 837.
Tóm tắt
công văn số 60/CSHS: Để phục
vụ yêu cầu điều tra xác minh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đề nghị Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam cho biết, Tiền điện tử TRX(Tron), BTT(bittorent), BTC
(Bitcoin), ETH (Ethereum) có được Nhà nước công nhận là tài sản theo quy định
tại điều 105 BLDS 2015 hay không. Nếu được coi là tài sản thì được định giá như
thế nào. Cơ quan nào có thẩm quyền định giá và quy đổi.
- Công văn số
5027/NHNN-TT ngày 09/7/2020 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc
phối hợp cung cấp thông tin phục vụ công tác điều tra, bút lục 838.
Tóm tắt
công văn số 5027/NHNN-TT: Trên cơ
sở Công văn số 11633/VPCP-KTTH ngày 29/11/2018 của Văn phòng Chính phủ về báo
cáo về việc rà soát, đánh giá toàn diện thực trạng pháp luật, thực tiễn về tài
sản ảo, tiền ảo, Bộ Tài chính được giao nhiệm vụ “xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật về tài sản ảo, tiền ảo”. Do đó Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đề nghị Cơ
quan Cảnh sát điều tra – Bộ Công án tham khảo ý kiến của Bộ Tài chính đối với
vấn Đề quản lý, quy định việc kinh doanh, giao dịch tài sản mã hóa, tiền mã
hóa/ tiền ảo.
- Trong văn bản gửi các cơ quan báo chí ngày
28/10/2017, Ngân hàng Nhà nước đã khẳng định căn cứ vào quy định pháp lý hiện
hành (Nghị định số 80/2016/NĐ-CP sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của
Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt), Bitcoin và các loại tiền ảo tương
tự khác không phải là phương tiện thanh toán hợp pháp tại Việt Nam.
3. Một số ghi nhận chính thức về mặt chính sách, pháp
luật liên quan đến tiền ảo:
Thông cáo báo chí về bitcoin và các loại tiền ảo tương
tự khác ngày 27/02/2014 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:
·
Khẳng định Bitcoin là một dạng tiền kỹ thuật số (tiền ảo),
không được phát hành bởi chính phủ hay một tổ chức tài chính, mà được tạo ra và
vận hành dựa trên hệ thống các máy tính kết nối mạng internet ngang hàng.
·
Khẳng định các giao dịch bằng Bitcoin có tính ẩn danh
cao nên Bitcoin có thể trở thành công cụ cho tội phạm như rửa tiền, buôn bán ma
túy, trốn thuế, giao dịch, thanh toán tài sản phi pháp.
·
Việc sử dụng Bitcoin (và các loại tiền ảo tương tự
khác) làm phương tiện thanh toán không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Các
tổ chức tín dụng không được phép sử dụng Bitcoin (và các loại tiền ảo tương tự
khác) như một loại tiền tệ hoặc phương tiện thanh toán khi cung ứng dịch vụ cho
khách hàng.
·
Việc sở hữu, mua bán, sử dụng bitcoin (và các loại tiền
ảo tương tự khác) như một loại tài sản tiềm ẩn rất nhiều rủi ro cho người dân
và không được pháp luật bảo vệ.
- Quyết định số 1255/QĐ-TTg ngày 21/8/2017 về phê
duyệt đề án hoàn thiện khung pháp lý để quản lý, xử lý đối với các loại tài sản
ảo, tiền điện tử, tiền ảo.
(Quyết định là cơ sở pháp lý quan trọng, đặt nền móng
cho việc nghiên cứu và ban hành các quy định pháp luật liên quan đến tiền ảo
trong tương lai tại Việt Nam).
Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 11/4/2018 về tăng cường quản
lý các hoạt động liên quan tới Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác.
(Trên cơ sở những cảnh báo nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực
của hoạt động liên quan đến tiền ảo, Chỉ thị đã yêu cầu các Bộ, ngành có liên
quan thực hiện việc quản lý các hoạt động liên quan đến tiền ảo nhằm hạn chế
những rủi ro, hệ lụy cho xã hội; kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành
vi vi phạm pháp luật).
- Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 13/4/2018 về các biện
pháp tăng cường kiểm soát các giao dịch, hoạt động liên quan đến tiền ảo.
(Chỉ thị đưa ra yêu cầu các đơn vị có liên quan (các
tổ chức tín dụng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; các đơn vị
tại trụ sở chính Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Ngân hàng Nhà nước chi nhánh các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) nghiêm túc thực hiện các biện pháp cụ
thể nhằm tăng cường kiểm soát, xử lý các giao dịch liên quan tới tiền ảo).
4. Các quy
định trong lĩnh vực pháp luật tiền tệ và ngân hàng:
Căn cứ khoản 2 điều 17 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam 2010 quy định: Tiền giấy, tiền kim
loại do Ngân hàng Nhà nước phát hành là phương tiện thanh toán hợp pháp trên
lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Căn cứ khoản 6, 7 điều 4 Nghị định 101/2012/NĐ-CP ngày
22/11/2012 của Chính phủ về việc thanh toán không dùng tiền mặt (được sửa đổi,
bổ sung bởi Nghị định 80/2016/NĐ-CP) quy định:
“6. Phương
tiện thanh toán không dùng tiền mặt sử dụng trong giao dịch thanh toán (sau đây
gọi là phương tiện thanh toán), bao gồm: Séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu,
ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng và các phương tiện thanh toán khác theo quy định
của Ngân hàng Nhà nước.
7. Phương
tiện thanh toán không hợp pháp là các phương tiện thanh toán không thuộc quy
định tại khoản 6 Điều này.”
- Căn cứ khoản 6 điều 6 Nghị định 101/2012/NĐ-CP (được
sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 80/2016/NĐ-CP) quy định về các hành vi bị cấm:
“6. Phát
hành, cung ứng và sử dụng các phương tiện thanh toán không hợp pháp.”
- Công văn số 5747/NHNN-PC của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam ngày 21/7/2017 gửi Văn phòng Chính phủ đã khẳng định:
“Tiền ảo
nói chung và Bitcoin, Litecoin nói riêng không phải là tiền tệ và không phải là
phương tiện thanh toán hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam. Việc phát
hành, cung ứng và sử dụng tiền ảo nói chung và Bitcoin, Litecoin nói riêng
(phương tiện thanh toán không hợp pháp) làm tiền tệ hoặc phương tiện thanh toán
là hành vi bị cấm. Chế tài xử lý hành vi này đã được quy định tại Nghị định
96/2014/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền
tệ và ngân hàng và Bộ luật Hình sự 2015 (đã sửa đổi, bổ sung).”
Như vậy, tại Việt Nam, Bitcoin không phải là tài sản
và chưa có quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động phát hành, mua bán, trao đổi
tiền ảo, tài sản ảo, cũng chưa quy định đơn vị chính thức quản lý việc phát
hành và giao dịch các đồng tiền ảo, tài sản ảo.
Thứ hai: Cho đến thời điểm hiện nay, để có căn cứ áp dụng Khoản 4 Điều
170 Bộ luật Hình Sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 phải định giá và xác định được cụ
thể số tiền bị cáo cưỡng đoạt là trên 500.000.000 đồng
Hiện nay, vẫn chưa thể xác định định lượng cụ thể của
số tiền các bị cáo chiếm đoạt. Đồng tiền Bitcoin không được xem là tài sản nên
không thể tiến hành định lượng giá trị được. Bên cạnh đó, Không có căn cứ hoặc
bất kỳ văn bản định giá nào của cơ quan chức năng có thẩm quyền thể hiện được
số tiền bị chiếm đoạt có giá trị lớn hơn 500.000.000 đồng. Cụ thể:
- Công văn số
159/CSHS-P6 ngày 01/10/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Bộ Công an về
đề nghị cung cấp thông tin về tiền ảo, bút lục 843.
Tóm tắt
công văn số 159/CSHS-P6: sau khi
chiếm đoạt tiền ảo của anh Lê Đức Nguyên, Hồ Ngọc Tài cùng đồng bọn đã bán các
đồng tiền ảo gồm TRX, BTT, BTC, ETH trên sàn Binance để lấy tiền Việt Nam đồng
chia nhau. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Bộ Công an đề nghị Bộ Tài chính cung cấp
thông tin về tiền ảo: Hiện nay, việc định giá, quy đổi tiền ảo ra tiền Việt Nam
đồng được thực hiện dựa trên căn cứ nào, thực hiện ra sao. Tại Việt Nam, cơ
quan, tổ chức nào có thể định giá, quy đổi các loại tiền ảo này.
- Công văn số
13949/BTC-UBCK ngày 12/11/2020 của Bộ Tài chính về việc cung cấp thông tin
về tiền ảo theo yêu cầu của Cơ quan Cảnh sát điều tra, bút lục 844.
Tóm tắt
công văn số 13949/BTC-UBCK: Bộ Tài
chính cung cấp thông tin về tiền ảo theo yêu cầu của Cơ quan Cảnh sát điều tra
như sau, Việt Nam chưa có quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động phát hành, mua
bán, trao đổi, định giá, quy đổi tiền
ảo, tài sản ảo ra tiền Việt Nam đồng, đồng thời chưa quy định đơn vị chính thức
nào quản lý việc phát hành và giao dịch các đồng tiền ảo, tài sản ảo).
- Công văn số
536/A05-P6 ngày 29/01/2021 của Cục An ninh mạng và PCTP sử dụng công nghệ
cao – Bộ Công an về việc phối hợp trao đổi thông tin, tài liệu phục vụ công tác
điều tra, bút lục 846.
Tóm tắt
công văn số 536/A05-P6: Cục An
ninh mạng và PCTP sử dụng công nghệ cao – Bộ Công an trao đổi kết quả như sau:
Các quốc gia trên thế giới có nhiều quy định khác nhau về tiền ảo, chưa có sự
thống nhất. Hiện tại, chưa có cơ quan,
đơn vị, tổ chức quốc tế nào có chức năng, thẩm quyền định giá, quy đổi các loại
tiền ảo (bao gồm bitcoin và các loại tiền kỹ thuật số khác). Việc định giá, quy
đổi các loại tiền ảo phụ thuộc vào thỏa thuận giữa các cá nhân, tổ chức thực
hiện giao dịch. Tại Việt Nam chưa có hành lang pháp lý quy định giá các loại
tiền ảo.
Định giá
tài sản:
- Yêu cầu định
giá tài sản số 201/YC – CSHS-P6 ngày 19/4/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều
tra – Bộ Công an, bút lục 3472.
Tóm tắt yêu
cầu định giá tài sản số 201/YC-CSHS-P6: yêu cầu định giá số tiền mã hóa (tiền ảo) bao gồm: 105.639.624 TRX;
0,15 BTC; 19.333.059 BTT.
- Công văn số
2785/HĐĐGTS-QLG ngày 09/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự cấp
thành phố về yêu cầu định giá tài sản
số 201/YC – CSHS-P6 ngày 19/4/2022, bút lục 3473.
Tóm tắt
công văn số 2785/HĐĐGTS-QLG:
Các đồng tiền mã hóa/ tiền ảo là một dạng tiền kỹ
thuật số, không được phát hành bởi chính phủ hay một tổ chức tài chính, mà được
tạo ra và vận hành dựa trên hệ thống các máy tính kết nối mạng internet ngang
hàng.
Hội đồng
định giá cấp thành phố từ chối thành lập Hội đồng định giá đối với yêu cầu định
giá tài sản số 201/YC – CSHS-P6 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Bộ Công an do
yêu cầu định giá là các đồng tiền mã hóa/ tiền ảo không phải là tài sản.
Như vậy, vì đồng tiền ảo không phải là tài
sản nên không thể tiến hành định giá được. Do đó, không có căn cứ để xác định
số tiền bị chiếm đoạt là từ 500.000.000 đồng trở lên theo quy định tại Khoản 4
Điều 170 Bộ luật Hình sự để truy tố các bị cáo khoản 4 là không có căn cứ. Căn cứ
nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo thì nếu xử lý các bị cáo thì chỉ có thể xử
lý theo khoản 2, điều 170 BLHS với định khung có tổ chức, không thể căn cứ khoản
4 vì không thể định lượng được, không định giá được nên không có căn cứ truy tố
các bị cáo vào khoản 4.
Thứ
ba: Không đủ căn cứ xác định hành vi mua bán Bitcoin qua Sàn Binance
Cơ quan cảnh sát điều tra đã gửi
công văn sang quần đảo Cayman để xác định về tính pháp lý cũng như các tài liệu
chứng cứ liên quan đến Sàn Binance nhưng không nhận được bất kỳ văn bản, công
văn phúc đáp nào. Do đó, không đủ căn cứ để có thể xác định hành vi mua bán
Bitcoin qua Sàn Binance. Cụ thể:
- Công văn số
4344/CSHS-P6 ngày 10/11/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra-Bộ Công an về đề
nghị hỗ trợ phối hợp điều tra vụ án, bút lục 845.
Tóm tắt
công văn số 4344/CSHS-P6: Cơ quan
Cảnh sát điều tra – Bộ Công an đề nghị Cục An ninh mạng và phòng, chống tội
phạm sử dụng công nghệ cao (A05) hỗ trợ, phối hợp điều tra vụ án như sau: Các
đồng tiền ảo như: TRX (Tron), BTT (Bittorent), BTC (Bitcoin), ETH (Ethereum)
được định giá như thế nào. Cơ quan, đơn vị, tổ chức quốc tế nào có chức năng,
thẩm quyền định giá, quy đổi các loại tiền này. Tỷ giá quy đổi đồng đô la Mỹ
(USD) như thế nào vào lúc 13h ngày 17/5/2020. Cơ quan, tổ chức quốc tế nào là
đơn vị chủ quản sàn Binance.com, có trụ sở ở quốc gia nào. Trên sàn Binance.com
còn tồn tại ví điện tử có địa chỉ TVHk4mdQ9UbtKoR163JgAưKbHDu4kvPtnP hay không.
Nếu còn tồn tại thì việc xác định lịch sử giao dịch, thông tin giao dịch của ví
điện tử địa chỉ nêu trên được thực hiện như thế nào. Có việc ví điện tử đó đã
bị xóa hoặc bị vô hiệu hóa tạm thời thì có phục hồi được không.
Sàn Binance.com thuộc tập đoàn Binance có trụ sở chính
tại: Govermors Square #3-21223 Lime Tree Bay GEORGE TOWN, GRAND CAYMAN,
KY1-1203, quần đảo Cayman.
- Yêu cầu tương
trợ tư pháp về hình sự số 1745/UTTPHS-P6 ngày 15/4/2021 của Cơ quan Cảnh
sát điều tra Bộ Công an về việc yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự, bút lục
824, ủy thác cho Cơ quan có thẩm quyền tương trợ tư pháp hình sự của Quần đảo
Cayman thuộc Vương quốc Anh thu thập tài liệu chứng cứ về tài khoản mở trên sàn
Binance.com (được đăng ký qua địa chỉ email: hongoctai1989@gmail.com; mật khẩu: HoDuongBaoChau2014).
- Bản kết luận
điều tra vụ án hình sự đề nghị truy tố (bổ sung) số 41/CSHS-P6 ngày 20/9/2021
của Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an, bút lục 3198.
(Đối với yêu cầu làm rõ bị can Hồ Ngọc Tài sau khi gây
án đã xóa hay chỉ tạm khóa tài khoản của Tài mở trên sàn Binance. Tài khoản này
có thể phục hồi được không để đăng nhập, trích xuất dữ liệu và xác định số tiền
ảo còn trong tài khoản.
=> Tài khoản của Hồ Ngọc Tài trên sàn Binance đã
ngưng hoạt động từ ngày 15/6/2020. Để có căn cứ xác định tài khoản này đã bị
xóa hay tạm khóa, ngày 15/4/2021, Cơ quan CSĐT Bộ Công an có Yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự số
1745/UTTPHS-P6/C02, ủy thác cho Cơ quan có thẩm quyền tương trợ tư pháp
hình sự của Quần đảo Cayman thuộc Vương quốc Anh xác minh tài khoản của Hồ Ngọc
Tài trên sàn Binance (được đăng ký qua địa chỉ email: hongoctai1989dn@gmail.com; mật khẩu: HoDuongBaoChau2014) đã bị xóa hay đang tạm khóa, đề nghị hỗ
trợ phục hồi lại tài khoản (nếu tài khoản bị xóa) hoặc mở khóa kích hoạt lại
tài khoản (nếu tài khoản bị khóa) để thu thập lịch sử giao dịch, xác định số
tiền ảo còn lại trong tài khoản. Đến nay, Cơ quan CSĐT Bộ Công an chưa nhận
được kết quả trả lời từ phía Cơ quan có thẩm quyền tương trợ tư pháp hình sự
của Quần đảo Cayman thuộc Vương quốc Anh).
Thứ
tư: Hoàng chỉ nhận 300 triệu từ Tài. Việc sử dụng lịch sử tài khoản Tài chuyển
Bitcoin qua Hoàng hay Hoàng bán cho người khác là không có cơ sở vì Hoàng là
người kinh doanh Bitcoin
- Trong
lĩnh vực pháp luật đầu tư, kinh doanh:
Pháp luật hiện hành không có quy định cấm đầu tư kinh
doanh ngành nghề liên quan đến tiền ảo. Trong danh sách các ngành nghề cấm đầu
tư kinh doanh và ngành, nghề kinh doanh có điều kiện quy định tại Điều 6 và
Điều 7 Luật Đầu tư năm 2020 đều không liệt kê hoạt động kinh doanh liên quan
đến tiền ảo. Dựa trên nguyên tắc “Mọi
người có quyền tự do kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm”
theo Điều 33 Hiến pháp thì các doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh, mua
bán, chuyển nhượng, huy động vốn bằng tiền ảo thì không bị coi là cấm.
Pháp
luật không quy định về việc cấm đầu tư, kinh doanh ngành nghề liên quan đến
tiền ảo. Do đó, hành vi kinh doanh đồng tiền ảo Bitcoin của Hoàng không phải là
hành vi bị pháp luật nghiêm cấm. Vì Hoàng kinh doanh đồng tiền ảo Bitcoin nên
việc sử dụng lịch sử giao dịch Tài có chuyển Bitcoin qua Hoàng hay Hoàng bán
Bitcoin cho người khác để xác định số tiền Hoàng chiếm đoạt được là không có cơ
sở.
- (Tại đơn xin khiếu nại, bút lục 3112), Hoàng trình
bày Tài không chuyển 33 bitcoin cho
Hoàng. 26,8 bitcoin Hoàng bán cho Tấn
hoàn toàn không phải là bitcoin của Tài cho Hoàng.
- (Tại đơn xin khiếu nại, bút lục 3113), Hoàng trình
bày ngày 20/5/2020 Tài không chuyển cho Hoàng 100 triệu để Hoàng cho Thông và
Phúc. Vào chiều ngày 17/5/2020 Tài có chuyển cho Hoàng 100 triệu để tặng cho
Hoàng.
Hoàng trình bày Tài có chuyển tiền vào tài khoản của
Hoàng 02 lần, mỗi lần 100 triệu là để tặng cho Hoàng, không phải là để cho
Thông, Phúc và Cường. Hoàng chuyển khoản trả nợ cho Cường vì Hoàng có mắc nợ
Cường. Tài có tặng Thông 50 triệu là Tài đưa tiền mặt cho Hoàng để Hoàng đưa
cho Thông, Tài không cho tiền Phúc.
- (Tại biên bản hỏi cung bị can ngày 10/5/2022, bút
lục 3538), Hoàng khai Hoàng chỉ nhận được từ Tài là 300 triệu đồng và 25.000
Torque.
- (Tại biên bản ghi lời khai ngày
19/6/2020, bút lục 1538), Hoàng khai Tài nói với mọi người là chỉ lấy được có
100 bitcoin, so với dự định lấy 1000 bitcoin thì chỉ lấy được 1/10. Tài chia
cho Hoàng 300 triệu đồng và Tài cho Hoàng một tài khoản Torque có 33.000 USD
điện tử để hàng tháng lấy lãi.
Thứ năm:
Về việc kê
biên tài sản:
- (Tại biên bản ghi lời khai ngày 01/12/2020, bút lục
2793, 2794), thể hiện Trương Ngọc Lệ khai Lệ và Hoàng có mua lô đất số B2.33,
lô 42 khu E2 Hòa Xuân, diện tích 103m2 đất dự án đã có sổ đứng tên
vợ chồng Lệ và Hoàng tại khu Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, Đà Nẵng với giá lúc mua là
2.520.000.000 đồng. Số tiền mua lô đất trên là từ Hoàng. Lệ có hỏi Hoàng tiền
đâu mà có như vậy thì Hoàng nói có được số tiền này là do làm ăn chung về
bitcoin với Tài và bán số bitcoin có được để lấy tiền mua đất. Sau khi cướp
tiền ảo từ Nguyên, Hoàng đã nhờ Tấn bán 26,8 bitcoin được số tiền là
5.647.405.500 đồng, Hoàng đã sử dụng số tiền trên để mua lô đất khu Hòa Xuân
như Lệ đã khai ở trên và dùng để trả nợ cho khoản vay của Hoàng khi thế chấp
nhà số 122/29 Trưng Nữ Vương, số tiền còn lại Hoàng rút ra sử dụng vào việc gì
thì Lệ không rõ.
Tuy nhiên trước khi ký tên vào biên bản bà Lệ trình
bày bà không biết Hoàng bán bitcoin hùn tiền mua đất với bà Lệ và không biết
Hoàng chơi bitcoin, chỉ biết Hoàng có làm ăn với Tài. Cho thấy bản
khai không khách quan, chưa bảo đảm đúng ý chỉ bà Lệ nên cuối bản khai bà Lệ mới
viết như vậy. Đề nghị không được quyền kê biên, phát mãi phần ½ tài sản của bà Lệ
trong quyền sử dụng đất trên vì đây là tài sản chung của vợ chồng.
- (Tại bản tự khai, bút lục 1400), Tài khai Tài đã
chuyển cho Hoàng 33 bitcoin, sau đó Tài có rủ Hoàng đầu tư trên sàn Torque. Khi
ngồi với Hoàng, Tài có bày Hoàng mở tài khoản, sau đó Hoàng có bù vào tài khoản
Torque khoảng 2 BTC để lấy lãi.
Ngoài ra, Tài khai trước khi vào TP HCM, Tài có cho
Hoàng 90 triệu, sau khi gây án Tài có chuyển khoản cho Hoàng 200 triệu, mỗi lần
100 triệu, lần đầu cho Phúc và Thông mỗi người 50 triệu, còn lần sau Tài chuyển
khoản cho Hoàng để Hoàng cho Cường mượn tiền.
- (Tại biên bản ghi lời khai ngày
09/5/2022, bút lục 3562), Nguyễn Viết Tấn khai bán bitcoin cho Hoàng và được
hưởng khoảng 12 triệu đồng.
(tại
biên bản ghi lời khai này Tấn không đề cập Hoàng nhờ Tấn bán bao nhiêu bitcoin,
tuy nhiên căn cứ lời khai của Hoàng, tại biên bản làm việc ngày 19/3/2021, bút
lục 1456, số bitcoin mà Hoàng chuyển cho Tấn nhờ bán là 26,8 bitcoin).
Thứ sáu: Cáo trạng cho rằng Hoàng không
thành khẩn là không đúng, điều 60 BLTTHS quy định không bắt buộc bị can khai
chống mình, không bắt bị can nhận tội, bị can Hoàng vẫn thừa nhận hành vi là có
sai, thành khẩn nên cho Hoàng không thành khẩn, không ăn năn để không cho hưởng
tình tiết giảm nhẹ là không đúng, còn việc chứng minh 300triệu, biotin…là việc của
cơ quan tố tụng.
Thứ bảy: việc Copy các mã ký tự giao dịch mua
bán bitcoin của Hoàng dán lên trang Blockchain để truy ra lịch sử mua bán bitcoin
của Hoàng mà không được dịch thuật, hợp pháp hóa lãnh sự là việc thu thập chứng
cứ không đúng pháp luật theo bộ luật tố tụng hình sự nên không được xem xét chứng
cứ này để giải quyết vụ án.
Từ tất cả các luận cứ trên cho thấy, không
đủ căn cứ để kết luận bị cáo Trần Ngọc Hoàng phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo
quy định tại điểm a Khoản 4 Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017
với tình tiết “Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên” là không có
cơ sở, trái với quy định pháp luật.
Kính mong HĐXX xem xét chấp nhận.
Trân trọng.
LS TRẦN MINH HÙNG
TRƯỞNG VPLS GIA ĐÌNH
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
LS TRẦN MINH HÙNG
|