Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại là trường hợp đặc biệt của khởi tố vụ án hình sự, trong đó cơ quan, người có thẩm quyền xác định được có hành vi phạm tội trên cơ sở các quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, kết quả kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm, nhưng chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu khởi tố của bị hại trong một số trường hợp pháp luật tố tụng hình sự quy định và phải đình chỉ điều tra, hoặc đình chỉ vụ án khi bị hại rút yêu cầu khởi tố trong những trường hợp do pháp luật tố tụng hình sự quy định.
Đặc trưng của khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại
Thứ nhất, khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại là một quy định đặc biệt so với quy định chung về khởi tố vụ án hình sự và một số nguyên tắc chung được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS).
Thứ hai, quy định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại áp dụng đối với các trường hợp phạm tội có tính chất nguy hiểm không cao. Đó là một số trường hợp tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng xâm hại đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền sở hữu công nghiệp của bị hại và không có các tình tiết tăng nặng.
Thứ ba, yếu tố ý chí của bị hại hoặc đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần và thể chất hoặc đã chết có vai trò quan trọng, là điều kiện để khởi tố vụ án hình sự, cũng như căn cứ quan trọng chấm dứt việc giải quyết vụ án.
Quy định của BLTTHS năm 2015 về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại
Về chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại
Điều 62 BLTTHS năm 2015, quy định “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”. Tại khoản 1 Điều 155 BLTTHS năm 2015 quy định: “Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các Điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết”.
Như vậy, chủ thể có quyền yêu cầu theo BLTTHS năm 2015 hiện nay là cá nhân (trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản); cơ quan, tổ chức (bị thiệt hại về tài sản, uy tín) và đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
Về điều kiện để có thể yêu cầu khởi tố vụ án: Đối với người đại diện cho người dưới 18 tuổi. Quy định này cần được hiểu là người đại diện theo pháp luật của người dưới 18 tuổi. Theo quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 có thể là cha, mẹ đối với người chưa thành niên; người giám hộ đối với người được giám hộ là người dưới 18 tuổi và đáp ứng các yêu cầu theo BLDS năm 2015 (Ví dụ: Cá nhân có đủ các điều kiện sau đây có thể làm người giám hộ: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; Có tư cách đạo đức tốt và các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người giám hộ; Không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị kết án nhưng chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác; Không phải là người bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên.
Đối với người bị hại là người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất: Người có nhược điểm về thể chất, tâm thần thì hiện nay BLTTHS năm 2015 không có quy định và cũng không có văn bản nào hướng dẫn. Tuy nhiên, có thể hiểu người có nhược điểm về tâm thần, thể chất là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, tức là người do tình trạng thể chất (như mù, câm, điếc, tàn tật…) hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi, vì thế cần thiết phải có người đại diện. Việc xác nhận dấu hiệu người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần phải thực hiện theo quy định của BLDS.
Đối với trường hợp bị hại là cơ quan, tổ chức thì người đại diện có thể là đại diện theo pháp luật, hoặc đại diện theo ủy quyền. Trường hợp đại diện theo ủy quyền thì phải lập thành văn bản theo quy định của pháp luật.
Về phạm vi các tội phạm được yêu cầu khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại
Việc quy định pháp luật dành cho bị hại quyền yêu cầu khởi tố nhằm tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, nhưng mục tiêu lớn hơn là bảo đảm trật tự và công bằng xã hội, bảo đảm nguyên tắc người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với hành vi và hậu quả do mình gây ra. Chính vì vậy, các tội phạm khởi tố theo yêu cầu của bị hại cần được giới hạn ở một mức độ phù hợp, đó là một số trường hợp phạm tội do vô ý hoặc phạm tội cố ý nhưng thiệt hại không lớn, tính chất của sự xâm hại không nghiêm trọng. Khoản 1 Điều 155 BLTTHS 2015 quy định: “Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các Điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự...”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 155 BLTTHS năm 2015, chỉ được khởi tố vụ án hình sự đối với 10 tội phạm quy định tại khoản 1các Điều 134, 135, 136, 138, 139; 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật Hình sự (BLHS) khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
Về nội dung, hình thức và hậu quả pháp lý của việc yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại
Nội dung yêu cầu khởi tố vụ án hình sự: Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành chưa quy định về nội dung yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cũng không ban hành mẫu đơn yêu cầu khởi tố (tương tự như mẫu đơn khởi kiện trong các vụ án dân sự), do vậy gây không ít khó khăn cho người yêu cầu khởi tố, vì nhiều trường hợp, người yêu cầu không biết cách thể hiện chính xác ý chí của mình trong đơn.
Hình thức yêu cầu khởi tố vụ án hình sự: Đây là hình thức phản ánh yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại, là một trong những tài liệu quan trọng, nếu không muốn nói là quan trọng nhất mà thiếu nó hoặc không có nó thì không thể xử lý vụ án được. Trong BLTTHS không đề cập đến hình thức yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, tuy nhiên tại Thông tư Liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2018, về quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2015 có quy định về vấn đề này tại khoản 5 Điều 7.
Mặc dù, pháp luật tố tụng hình sự chưa quy định cụ thể nhưng yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại phải đảm bảo các nội dụng sau: Một là, chủ thể yêu cầu phải là bị hại hoặc đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần, thể chất hoặc đã chết. Hai là, phải có các thông tin sau: Nơi cư trú của bị hại, ngày, tháng, năm sinh, trình bày tóm tắt nội dung vụ án yêu cầu khởi tố. Ba là, bị hại phải điểm chỉ hoặc ký xác nhận cho yêu cầu của mình để thể hiện sự tự nguyện.
Hậu quả pháp lý của yêu cầu khởi tố: Khi bị hại có yêu cầu khởi tố thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự (khi đã đảm bảo các yêu cầu chung để khởi tố vụ án hình sự), và từ đây vụ án sẽ được giải quyết theo thủ tục chung của BLTTHS. Trong trường hợp khởi tố vụ án thì tại phiên toà xét xử sơ thẩm, bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ sẽ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa. BLTTHS năm 2015 đã quy định rõ, sau khi Kiểm sát viên tiến hành luận tội thì bị hại hoặc người đại diện của họ trình bày, bổ sung ý kiến sau khi Kiểm sát viên trình bày luận tội. (khoản 4 Điều 320 BLTTHS năm 2015).
Nội dung, hình thức và phạm vi quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại
Nội dung rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại: BLTTHS và các văn bản hướng dẫn thi hành không đề cập đến nội dung và hình thức rút yêu cầu khởi tố vụ án như thế nào. Tuy nhiên, có thể hiểu nội dung rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự là yêu cầu chấm dứt tố tụng đối với vụ án hình sự đã khởi tố trước đó trên cơ sở khởi tố của của bị hại hoặc đại diện của bị hại (là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần, thể chất hoặc đã chết).
Về hình thức rút yêu cầu khởi tố vụ án của bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của họ: Hình thức phải thể hiện bằng đơn rút yêu cầu có chữ ký hoặc điểm chỉ của họ. Trường hợp việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự được trình bày trực tiếp thì Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án phải lập biên bản ghi rõ việc rút yêu cầu khởi tố, có chữ ký hoặc điểm chỉ của người rút yêu cầu. Tuy nhiên, nội hàm này cần phải được hiểu thống nhất là việc rút yêu cầu phải được thể hiện bằng một trong hai cách trên, mà không phải là việc rút (lấy lại) đơn đã yêu cầu trước đó.
Hậu quả pháp lý của việc rút yêu cầu: Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Về thẩm quyền đình chỉ: Sau khi khởi tố vụ án hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của họ rút yêu cầu khởi tố, nếu đang điều tra hoặc đã có bản kết luận điều tra nhưng hồ sơ chưa chuyển cho Viện Kiểm sát thì Cơ quan điều tra xem xét, quyết định việc đình chỉ điều tra; nếu đã chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát thì Viện Kiểm sát xem xét, quyết định việc đình chỉ vụ án.
Căn cứ Công văn số 254/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, về việc người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu theo quy định tại Điều 155 BLTTHS nêu rõ “Tại giai đoạn xét xử sơ thẩm: Người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa căn cứ vào Điều 45, điểm a khoản 1 Điều 282 của Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án; Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155, Điều 299 của Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án; Trường hợp sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm vẫn còn thời 38 hạn kháng cáo, kháng nghị mà người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu thì Tòa án phải hướng dẫn họ làm đơn kháng cáo để Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết việc rút yêu cầu theo thủ tục phúc thẩm”.
Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.

Luật sư Trần Minh Hùng – Tốt nghiệp đại học Luật
TPHCM, tốt nghiệp Học viện Tư Pháp, Tốt nghiệp Luật sư, thuộc Đoàn LS TPHCM,
Thuộc Liên đoàn LSVN là một trong những luật sư sáng lập văn phòng luật, giàu
kinh nghiệm về kiến thức và thực tiễn đã dành nhiều thắng lợi vụ kiện và quan
trọng luật sư Hùng luôn coi trọng chữ Tâm của nghề luật sư và trách nhiệm đối
với xã hội nên đã được nhiều hãng báo chí, truyền thông, Đài truyền hình, Đài
tiếng nói Việt nam phỏng vấn pháp luật,
nhiều lĩnh vực quan trọng liên quan đến đời sống. Luật sư Trần Minh
Hùng là đối tác tư vấn pháp luật được nhiều hãng truyền thông, báo chí trong
nước tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn trên VOV
Giao Thông – Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh VOH TPHCM, Đài truyền hình
TP.HCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Truyền hình SCTV, THĐN,
Truyền hình Quốc Hội VN, Truyền hình Công an ANTV, Đài truyền hình
Vĩnh Long, Đài phát thanh kiên giang, Đài Bình Dương, Truyền hình Quốc Phòng,
VTC... và các hãng báo chí trên cả nước, được các tổ chức, trường Đại học
Luật TP.HCM mời làm giám khảo các cuộc thi Phiên tòa giả định với Đại học cảnh
sát, mời làm chuyên gia ý kiến về các sự kiện lớn, được mời dạy bồi dưỡng
nghiệp vụ cho các luật sư……là đối tác tư vấn luật của các hãng truyền thong, các
tổ chức, xã hội uy tín và chuyên nghiệp và luôn mang lại niềm tin cho khách hàng và ghi nhận sự đóng góp
của chúng tôi cho xã hội...là luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án
đỉnh điểm, quan trọng báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng
Navibank liên quan Huyền Như Viettinbank, các vụ Giết Người do mâu thuẫn hát
karaoke tại Bình Chánh, Bào chữa chủ tịch Huyện Đông Hòa –
Phú Yên, Đại án Vụ cướp bitcoin 35
tỷ Long Thành- Dầu Dây, Bào chữa vụ Đại Án Đăng Kiểm, Bào chữa vụ đại án Khai
thác Cát Cần giờ, Bào chữa bị cáo Huân không đeo khẩu trang mùa Covit, Vụ Nữ
sinh Tân Bình bị cắt tai, bảo vệ cho MC Trấn Thành, Bào chữa, bảo vệ vụ
"Bác sĩ khoa rút ống thở", Bảo vệ cho người cho thuê nhà vụ Công ty
Thế giới Di Động không trả tiền thuê nhà mùa dịch covid, Tư vấn cho nghệ sĩ
Thương Tín, bảo vệ vụ đổ xăng đốt 10 người tại TPHCM, Bảo vệ thành công vụ 1
bệnh nhân bị xông hơi chết tại nhà bè, các vụ Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, cưỡng
đoạt, cướp, gây thương tích, tham ô, mua bán ma túy, cố ý làm trái, bào chữa vụ
án cựu Cảnh sát Buôn Lậu và các bị cáo kiên quan, bào chữa vụ chiếm đoạt tiền công nghệ của nước Úc
của bị can về công nghệ, bào chữa vụ Mua bán khẩu trang mùa covid, bào chữa
nhiều vụ án ma túy, bào chữa vụ lợi dụng chức vụ quyền hạn của tổ chức tín dụng
ngân hàng... .… và rất nhiều các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế,
đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho
khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không
biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi..…là hãng luật tư vấn luật cho
nhiều công ty Việt Nam và nước ngoài trên cả nước luôn mang lại niềm tin
cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không
biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi hội đủ các luật sư chuyên về các lĩnh
vực, kinh nghiệm, chuyên sâu như: hình sự, dân sự, kinh tế, thừa kế, hợp đồng,
đất đai, ly hôn, dịch vụ nhà đất, di chúc, lao động…
|