I. TỘI GIAO CẤU VỚI TRẺ EM
Giao cấu với trẻ em là hành vi của
một người đã thành niên giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi không
trái với ý muốn của nạn nhân. Điều 115 Bộ luật hình sự quy định:
"1. Người nào đã thành niên mà
giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ một năm
đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Phạm tội nhiều lần;
b) Đối với nhiều người;
c) Có tính chất loạn luân;
d) Làm nạn nhân có thai;
đ) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn
nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.
3. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn
nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn
phạm tội"
A. CÁC DẤU HIỆU CỦA TỘI PHẠM
1. Về phía người phạm tội
Người phạm tội phải là người đã
thành niên, tức là người đã đủ 18 tuổi trở lên. Chủ thể của tội phạm này có thể
là nữ giới, nhưng đa số là nam giới.
Việc giao cấu với người dưới 16 là
hoàn toàn có sự đồng tình của hai người không bên nào ép buộc bên nào. Sự thoả
thuận này có trường hợp là mối tình yêu đương giữa hai người, nhất là ở một số
vùng nông thôn, tệ tảo hôn còn phổ biến, cũng có trường hợp do cuộc sống, do
hoàn cảnh éo le của một số em gái chưa đủ 16 tuổi đã bán dâm cho khách làng chơi
để kiếm tiền.
Việc trừng trị hành vi giao cấu với
người dưới 16 tuổi bằng luật hình sự của Nhà nước ta cũng chủ yếu nhằm bảo vệ
sự phát triển bình thường về mặt tình dục đối với người chưa đủ 16 tuổi.
2. Đối với người bị hại
Người bị hại trong vụ án giao cấu
với người dưới 16 tuổi là người có độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Mọi
trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em và
người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc
tử hình)
Việc để người phạm tội giao cấu là
hoàn toàn có sự tự nguyên, không hề có sự cưỡng bức hay ép buộc nào. Mặc dù họ
tự nguyện và có nhiều trường hợp họ yêu cầu không xử lý đối với người phạm tội,
nhưng yêu cầu này của họ không được chấp nhận vì họ là đối tượng mà Nhà nước
buộc phải bảo vệ.
Chỉ coi là tội giao cấu với trẻ em
khi người phạm tội và người bị hại đã thực hiện việc giao cấu, nếu chỉ có những
hành vi có tính chất dâm ô mà chưa thực hiện việc giao cấu thì không cấu thành
tội giao cấu với trẻ em mà tuỳ trường hợp có thể bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội dâm ô trẻ em quy định tại Điều 116 Bộ luật hình sự.
B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Giao cấu với một người từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi (khoản 1 Điều 115)
Trường hợp người phạm tội chỉ giao
cấu với một người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo khoản 1 Điều 115 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ một năm đến
năm năm tù. Khi quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm tội này, cần phải
xem xét một cách toàn diện đầy đủ các tình tiết của vụ án, nhân thân người phạm
tội, đặc biệt là mối quan hệ giữa người bị hại với người phạm tội. Thông qua
việc giải quyết vụ án các cơ quan tiến hành tố tụng cần giáo dục không chỉ
người phạm tội mà cần giáo dục ngay cả đối với người bị hại để họ nhận thức
được trách nhiệm của mình đối với bản thân và xã hội.
2. Phạm tội nhiều lần (điểm a khoản
2 Điều 115)
Phạm tội nhiều lần trong trường hợp
này là giao cấu với một trẻ em từ hai lần trở lên. Khi xác định tình tiết phạm
tội này cần chú ý: Tất cả các lần giao cấu, người phạm tội đã đủ 18 tuổi và
người bị hại ở độ tuổi từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi, nếu có hai lần giao cấu nhưng
trong đó coa một lần người phạm tội chưa đủ 18 tuổi hoặc người bị hại đã đủ 16
tuổi thì không coi là phạm tội nhiều lần và người phạm tội chỉ bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 115 Bộ luật hình sự. Nếu trong các lần
giao cấu mà có một lần người bị hại dưới 13 tuổi thì người phạm tội phải bị
truy cứu về hai tội: tội hiếp dâm trẻ em và tội giao cấu với trẻ em.
3. Đối với nhiều người (điểm b khoản
2 Điều 115)
Phạm tội đối với nhiều người trong
trường hợp này là giao cấu với từ hai trẻ em trở lên và tất cả người bị hại đều
ở độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu có hai người bị hại, trong đó có
một người đủ 16 tuổi thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo khoản 1 Điều 115 Bộ luật hình sự. Trường hợp nếu có một người dưới 13 tuổi
khi bị giao cấu thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự hai tội: tội
giao cấu với trẻ em và tội hiếp dâm trẻ em. Trường hợp có nhiều người bị giao
cấu, trong dó có người bị giao cấu từ hai lần trở lên thì người phạm tội thuộc
hai trường hợp: phạm tội nhiều lần và đối với nhiều người.
4. Giao cấu với trẻ em có tính chất
loạn luân (điểm c khoản 2 Điều 115)
Trường hợp phạm tội này cũng tương
tự như các trường hợp hiếp dâm có tính chất loạn luân, cưỡng dâm có tính chất
loạn luân, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này giữa nạn nhân với người phạm
tội có sự thoả thuận, đồng tình với nhau khi giao cấu. Việc xử lý nghiêm trường
hợp giao cấu với trẻ em có tính chất loạn luân là nhằm bảo vệ giống nòi, bảo vệ
sự phát triển bình thường của các em, bảo vệ thuần phong mỹ tục của gia đình và
xã hội.
5. Giao cấu với trẻ em làm nạn nhân
có thai (điểm d khoản 2 Điều 115)
Trường hợp phạm tội này cũng tương
tự như trường hợp làm nạn nhân có thai trong các trường hợp đối với tội hiếp
dâm, tội cưỡng dâm, chỉ khác ở chỗ trong trường hợp phạm tội này nạn nhân đã
đồng tình để người phạm tội giao cấu.
Khi xác định ttình tiết phạm tội này
cần chú ý: Chỉ khi nào xác định người bị hại có thai do chính hành vi giao cấu
của người phạm tội làm cho nạn nhân có thai và khi có thai, người bị hại ở độ
tuổi từ đủ 13 đến dưới 16. Nếu người bị hại có thai do kết quả của một lần giao
cấu với người khác hoặc tuy có thai với người phạm tội nhưng do giao cấu nhiều
lần trong đó có lần người bị hại đã đủ 16 tuổi và cái thai đó là kết quả của
lần giao cấu khi người bị hại đã tròn 16 tuổi, thì không thuộc trường hợp phạm
tội này.
II. Giao cấu với người 16 tuổi trở lên có vi phạm pháp luật
hình sự không ?
Bộ luật hình sự sửa đổi 2015, sửa
đổi bổ sung năm 2017 có quy định một số tội liên quan đên việc quan hệ tình dục
từ Điều 141 đến Điều 145 thì không có quy định nào về việc xử lý hành vi quan
hệ tình dục tự nguyên với người trên 16 tuổi.
Bạn có thể tham khảo một số quy định
về hành vi quan hệ tình dục trong Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) như sau:
"Điều 141. Tội hiếp dâm
1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ
đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn
của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Đối với người mà người phạm tội
có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
c) Nhiều người hiếp một người;
d) Phạm tội 02 lần trở lên;
đ) Đối với 02 người trở lên;
e) Có tính chất loạn luân;
g) Làm nạn nhân có thai;
h) Gây thương tích, gây tổn hại cho
sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương
cơ thể từ 31% đến 60%;
i) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Gây thương tích, gây tổn hại cho
sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương
cơ thể 61 % trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn
phạm tội;
c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
4. Phạm tội đối với người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường
hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình
phạt quy định tại các khoản đó.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm
đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05
năm".
"Điều 142. Tội hiếp dâm người
dưới 16 tuổi
1. Người nào thực hiện một trong các
hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực
hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác
giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ;
b) Giao cấu hoặc thực hiện hành vi
quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi.
2. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Có tính chất loạn luân;
b) Làm nạn nhân có thai;
c) Gây thương tích, gây tổn hại cho
sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương
cơ thể từ 31% đến 60%;
d) Đối với người mà người phạm tội
có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
đ) Phạm tội 02 lần trở lên;
e) Đối với 02 người trở lên;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Có tổ chức;
b) Nhiều người hiếp một người;
c) Đối với người dưới 10 tuổi;
d) Gây thương tích, gây tổn hại cho
sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương
cơ thể 61% trở lên;
đ) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn
phạm tội;
e) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm
đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05
năm".
"Điều 143. Tội cưỡng dâm
1. Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến
người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn
cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị
phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Nhiều người cưỡng dâm một người;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Đối với 02 người trở lên;
d) Có tính chất loạn luân;
đ) Làm nạn nhân có thai;
e) Gây thương tích, gây tổn hại cho
sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương
cơ thể từ 31 % đến 60%;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 18 năm:
a) Gây thương tích, gây tổn hại cho
sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương
cơ thể 61% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn
phạm tội;
c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
4. Cưỡng dâm người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường
hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình
phạt quy định tại các khoản đó.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm
đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05
năm".
"Điều 144. Tội cưỡng dâm người
từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
1. Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình hoặc
trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện
hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tính chất loạn luân;
b) Làm nạn nhân có thai;
c) Gây thương tích, gây tổn hại cho
sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương
cơ thể từ 3 1% đến 60%;
d) Phạm tội 02 lần trở lên;
đ) Đối với 02 người trở lên;
e) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Nhiều người cưỡng dâm một người;
b) Gây thương tích, gây tổn hại cho
sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương
cơ thể 61% trở lên;
c) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn
phạm tội;
d) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm
đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05
năm".
"Điều 145. Tội giao cấu hoặc
thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
tuổi
1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà
giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144
của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
c) Có tính chất loạn luân;
d) Làm nạn nhân có thai;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
e) Đối với người mà người phạm tội
có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh.
3. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn
phạm tội.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm
đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05
năm".
Luật
sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV,
SCTV1...
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi,
luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên
môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên
nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi
quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công
bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và
những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào
chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên
đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và
phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy
hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia
đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải
oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho
thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.
Luật sư Trần Minh
Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có
nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin
tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các
Kênh truyền hình uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền
hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV,
SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC,
Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên
Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời
sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân
dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật
TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL,
Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy
tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật
sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng
trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng
Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu
giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa
Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự,
kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại
niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công
lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh
nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh
Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 028-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
Email: luatsuthanhpho@gmail.com
http://www.luatsugiadinh.net. vn
http://www.luatsuthanhpho.com
|