1.
Mức phạt hình sự với tội buôn bán hàng giả
Bài viết này sẽ cung cấp thông tin
về Tội buôn bán hàng giả tại Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm
2017, không bao gồm các tội: Buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ
gia thực phẩm; buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; Buôn bán
hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực
vật, giống cây trồng, vật nuôi.
Tại Điều 192 quy định, người nào sản
xuất, buôn bán hàng giả thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tiền
từ 100 triệu đến 01 tỷ đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
- Hàng giả tương đương với số lượng
của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 30
đến dưới 150 triệu đồng;
- Hàng giả tương đương với số lượng
của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá dưới
30 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi
quy định tại Điều 192 hoặc tại một trong các điều 188, 189, 190, 191, 193, 194,
195, 196 và 200 của Bộ luật Hình sự hoặc đã bị kết án về một trong các tội này,
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Các tội đã liệt kê trên cụ thể là:
+ Tội buôn lậu (Điều 188); Tội vận
chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới (Điều 189);
+ Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm
(Điều 190); Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm (Điều 191);
+ Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là
lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm (Điều 193); Tội sản xuất, buôn bán
hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 194); Tội sản xuất, buôn
bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ
thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi (Điều 195);
+ Tội đầu cơ (Điều 196); Tội trốn
thuế (Điều 200).
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
- Thu lợi bất chính từ 50 đến dưới
100 triệu đồng;
- Gây thiệt hại về tài sản từ 100
đến dưới 500 triệu đồng.
Pháp nhân thương mại vi phạm quy
định trên thì bị phạt tiền từ 01 - 03 tỷ đồng.
Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm khi
phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Phạm tội có tổ chức;
- Có tính chất chuyên nghiệp;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
- Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ
chức;
- Hàng giả tương đương với số lượng
của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ
150 đến dưới 500 triệu đồng;
- Thu lợi bất chính từ 100 đến dưới
500 triệu đồng;
- Làm chết người;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những
người này từ 61% đến 121%;
- Gây thiệt hại về tài sản từ 500
triệu đến dưới 1,5 tỷ đồng;
- Buôn bán qua biên giới;
- Tái phạm nguy hiểm.
Pháp nhân thương mại phạm tội thuộc
một trong các trường hợp trên thì bị phạt tiền từ 03 - 06 tỷ đồng, trừ các
trường hợp: lợi dụng chức vụ, quyền hạn; lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chứ;
tái phạm nguy hiểm.
Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm khi
phạm tội thuộc một trong các trường hợp:
- Hàng giả tương đương với số lượng
của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá 500
triệu đồng trở lên;
- Thu lợi bất chính 500 triệu đồng
trở lên;
- Làm chết 02 người trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những
người này 122% trở lên;
- Gây thiệt hại về tài sản 1,5 tỷ
đồng trở lên.
Pháp nhân phạm tội thuộc trường hợp
này thì bị phạt tiền từ 06 - 09 tỷ đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ
06 tháng đến 03 năm.
Ngoài các mức phạt trên, người phạm
tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 20 - 50 triệu đồng,
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 - 05
năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Bên cạnh đó, hình phạt bổ sung được
áp dụng với pháp nhân thương mại là phạt tiền từ 50 - 200 triệu đồng, cấm kinh
doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ
01 - 03 năm.
Trong trường hợp pháp nhân thương
mại thành lập chỉ để buôn bán hàng giả thì có thể bị đình chỉ vĩnh viễn toàn bộ
hoạt động.
2.Xử
phạt hành chính:
Hành vi buôn bán hàng giả mạo nhãn
hàng hóa, bao bì hàng hóa sẽ bị xử phạt theo Điều 13 Nghị định 185/2013/NĐ-CP.
Mức phạt từ 200 000 đồng đến 30 000 000 đồng.
Biện pháp khắc phục hậu quả:
+ Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên
nhãn, bao bì hàng giả hoặc buộc tiêu hủy hàng giả;
+ Buộc thu hồi loại bỏ yếu tố vi
phạm trên nhãn, bao bì hàng giả hoặc buộc thu hồi tiêu hủy hàng giả đang lưu
thông trên thị trường;
+ Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp
có được do thực hiện hành vi vi phạm.
3.
Phân biệt tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” và tội “Xâm phạm sở hữu công
nghiệp”
Quy định của pháp luật hình sự về
tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” và tội “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp”
Các quy định của pháp luật hình sự
về hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả được hình thành khá sớm. Điều 5 Pháp
lệnh số PL/1982 ngày 30 tháng 06 năm 1982 của Hội đồng nhà nước về trừng trị
tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép đã có những quy định
cụ thể đối với các hành vi làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả với mức hình
phạt cao nhất là tù chung thân. Kế thừa các quy định Pháp lệnh, Bộ luật hình sự
1985 (Sửa đổi, bổ sung năm 1992) đã quy định về tội Làm hàng giả, buôn bán hàng
giả, theo đó, đây là một tội phạm thuộc chương các tội phạm về kinh tế và có
mức hình phạt nghiêm khắc (mức hình phạt cao nhất là tử hình).
Trong suốt thời kỳ đó, pháp luật
hình sự chưa có quy định xử lý đối với các hành vi xâm phạm sở hữu công nghiệp.
Sự ra đời của Bộ luật dân sự 1995 và các quy định của pháp luật về quyền sở hữu
công nghiệp được hình thành, từ đó Bộ luật hình sự 1999 lần đầu tiên quy định
về tội “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp” tại Điều 171 BLHS 1999 với hành vi
khách quan là “vì mục đích kinh doanh mà chiếm đoạt, sử dụng bất hợp pháp sáng
chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi,
xuất xứ hàng hoá hoặc các đối tượng sở hữu công nghiệp khác đang được bảo hộ
tại Việt Nam gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi
này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm”. Như
vậy, hành vi khách quan của tội “Xâm phạm sở hữu công nghiệp” trong thời kỳ này
được quy định khá rộng, bao gồm tất cả các hành vi chiếm đoạt, sử dụng các đối
tượng quy định tại Mục 1, Chương II, Phần thứ sáu Bộ luật dân sự 1995 và sau
này là Phần thứ ba Luật sở hữu trí tuệ 2005. So với tội “Sản xuất, buôn bán
hàng giả” quy định tại Điều 156 BLHS 1999 thì tội “Xâm phạm sở hữu công nghiệp”
được xác định là có tính nguy hiểm cho xã hội ít hơn, do đó mức hình phạt của
tội này được quy định thấp hơn nhiều so với tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả”
với mức hình phạt cao nhất là đến 03 năm tù.
Bộ luật hình sự 2015 ra đời đã hoàn
thiện quy định về tội “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp” để phù hợp với pháp
luật về dân sự, kinh doanh thương mại, sở hữu trí tuệ, theo đó, tội “Xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp” là hành vi cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam mà đối tượng là
hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý. Như vậy, từ việc quy định tất
cả các hành vi chiếm đoạt, sử dụng các đối tượng thuộc quyền sở hữu công nghiệp
theo Luật sở hữu trí tuệ thì nay, mặt khách quan của tội này chỉ còn là hành vi
cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý
đang được bảo hộ tại Việt Nam mà đối tượng là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc
chỉ dẫn địa lý. Tội phạm này được xác định là tội ít nghiêm trọng với mức hình
phạt cao nhất là đến 03 năm tù đối với cá nhân phạm tội, hoặc phạt tiền từ
2.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn
từ 06 tháng đến 02 năm đối với pháp nhân thương mại phạm tội.
Phân biệt tội “Sản xuất, buôn bán
hàng giả” với tội “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp”
Trong cấu thành tội phạm của tội
“Sản xuất, buôn bán hàng giả” và tội “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp” có sự
tương đồng về chủ thể tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm. Chủ thể tội phạm
của các tội này đều không phải là chủ thể đặc biệt và phải thỏa mãn các điều
kiện về năng lực hành vi hình sự và tuổi chịu trách nhiệm hình sự, đồng thời
tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý. Việc phân biệt hai tội phạm trên dựa trên
yếu tố khách thể và mặt khách quan của tội phạm, cụ thể như sau:
Khách thể của tội phạm:
Bộ luật hình sự 2015 (BLHS) xác định
tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” thuộc nhóm các tội phạm xâm phạm trật tự quản
lý kinh tế trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại tại Mục 1, Chương
XVIII. Nhóm tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả quy định tại Mục này còn bao
gồm các tội: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia
thực phẩm (Điều 193); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc
phòng bệnh (Điều 194); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi,
phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều
195). Nhóm tội phạm này tương đồng về cấu thành tội phạm, tuy nhiên do những
đặc thù về mặt hàng bị làm giả dẫn đến sự phân loại tính nguy hiểm cho xã hội
khác nhau. Vì vậy BLHS quy định về căn cứ định tội và định khung hình phạt đối
với từng tội phạm trên có sự khác biệt.
Tội “Xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp” được quy định thuộc Mục 3, Chương XVIII của BLHS, tức là nhóm tội phạm
khác xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Cụ thể hơn, tội phạm này cùng với tội
“Xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan” quy định tại Điều 225 BLHS thuộc nhóm
tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đối với quyền sở hữu trí tuệ.
Việc xác định sự khác biệt về khách
thể của tội phạm đối với tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” và tội “Xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp” có ý nghĩa xác định sự khác nhau giữa các quan hệ
pháp luật mà các tội phạm này xâm phạm, từ đó có một nhận thức đúng đắn về mặt
khách quan như phân tích dưới đây.
Mặt khách quan của tội phạm:
Để phân biệt rõ mặt khách quan của
tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” và tội “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp”
cần phải làm rõ quy định của pháp luật hiện hành về khái niệm “hàng giả” là đối
tượng của tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” và “hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc
chỉ dẫn địa lý” là đối tượng của tội “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp”.
Các văn bản pháp luật hình sự hiện
chưa quy định cụ thể về hai khái niệm trên, do đó cần phải căn cứ vào các quy
định của pháp luật liên quan và phù hợp với quy định của pháp luật hình sự.
Khái niệm hàng giả trước đây được quy định tại Thông tư liên tịch của Bộ thương
mại – Bộ tài chính – Bộ công an – Bộ Khoa học công nghệ và môi trường số
10/2000/TTLT-BTM-BTC-BCA – BKHCNMT ngày 27/04/2000 hướng dẫn thực hiện chỉ thị
số 31/1999/CT – TTg ngày 27/10/1999 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống
sản xuất và buôn bán hàng giả. Hiện nay, khái niệm hàng giả được ghi nhận tại
Khoản 8, Điều 3 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2013 của Chính
phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất,
buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (sau đây gọi là
Nghị định 185).
Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV,
THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp
nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có
trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết
rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong
nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề
luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những
nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy
hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy
hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm,
có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có
khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công
việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa.
Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ,
đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã
hội.
Luật sư Trần Minh Hùng
Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều
năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng
với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh
truyền hình uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình
Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV,
THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV
Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình
Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp
luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên
cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho
nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với
trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật
cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều
vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người
dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và
Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa
Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố
ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động,
hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự
đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội
của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi cùng tư vấn luật và
cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT
SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh
Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 028-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
Email: luatsuthanhpho@gmail.com
http://www.luatsugiadinh.net.
vn
http://www.luatsuthanhpho.com
|