1.
Lừa đảo qua mạng bao nhiêu tiền bị truy cứu trách nhiệm hình sự?
Lừa đảo trên 2 triệu bị truy cứu
trách nhiệm hình sự
Dưới góc độ pháp lý, lừa đảo qua
mạng được xếp vào một trong các hành vi dùng thủ đoạn gian dối để lừa đảo chiếm
đoạt tài sản của người khác.
Cụ thể, dùng thủ đoạn gian dối là
đưa ra thông tin giả nhưng làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản
cho người phạm tội.
Với trường hợp lừa đảo qua mạng, thủ
đoạn gian dối thường là những câu chuyện bịa đặt được đăng tải trên mạng, thậm
chí là cố tình lừa dối tình cảm người khác hoặc giả mạo người có chức vụ, quyền
hạn…nhằm mục đích khiến người bị lừa tin tưởng và giao tài sản cho người lừa
đảo.
Ví dụ: Gần đây trên mạng xã hội
(facebook, zalo,…), nhiều đối tượng đã cố tình chiếm đoạt tài khoản của người
khác rồi đóng giả chủ tài khoản, dùng những lí do cấp thiết để yêu cầu người
thân, bạn bè của họ chuyển tiền vào một tài khoản ngân hàng sau đó chiếm đoạt.
Dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt
tài sản là hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác.
Vì vậy, hành vi dùng thủ đoạn gian
dối để chiếm đoạt tài sản nói chung và hành vi lừa đảo qua mạng nói riêng có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Cụ thể, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản được quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017
như sau:
“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối
chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000
đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì
bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính
về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về
một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và
290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh,
trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống
chính của người bị hại và gia đình họ.
2. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ
50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc
lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
3. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ
200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá
500.000.000 đồng trở lên;
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh,
tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt
tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần
hoặc toàn bộ tài sản.”
Theo quy định trên, nếu lừa đảo qua
mạng trên 02 triệu thì chắc chắn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tuy nhiên, lừa đảo dưới 02 triệu vẫn
có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi:
- Đã bị xử phạt hành chính về hành
vi chiếm đoạt tài sản;
- Gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an
ninh;
- Tài sản bị lừa đảo là phương tiện
kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
- Đã bị kết án về một trong các tội:
lừa đảo chiếm đoạt tài sản; cướp tài sản, cưỡng đoạt tài sản, lạm dụng uy tín
nhằm chiếm đoạt tài sản, sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện
điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản…chưa được xóa án tích mà còn vi
phạm.
Tùy vào tính chất, mức độ phạm tội
mà người lừa đảo qua mạng có thể bị phạt tù đến 20 năm hoặc tù chung thân, phạt
tiền đến 100 triệu đồng.
Lừa đảo qua mạng bị phạt hành chính
đến 2 triệu đồng
Theo phân tích trên, lừa đảo qua
mạng là một trong những hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản
của người khác.
Trong đó, mức phạt của hành vi dùng
thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác được quy định tại khoản
1 Điều 15 Nghị định 167/2013/NĐ-CP là phạt tiền từ 01 - 02 triệu đồng.
Như vậy, trường hợp lừa đảo qua mạng
chưa đến mức chịu trách nhiệm hình sự có thể bị phạt hành chính đến 02 triệu
đồng.
2. Tội phạm công nghệ cao trong lĩnh vực công
nghệ thông tin, mạng viễn thông
Tội phạm sử dụng công
nghệ cao phải là những hành vi được xác định là tội phạm theo quy định của Bộ
luật Hình sự. Ở Việt Nam, một hành vi chỉ được coi là tội phạm khi hành vi đó
được quy định trong Bộ luật Hình sự. Vì vậy, khi xem xét một hành vi xâm phạm
đến trật tự an toàn thông tin, gây tổn hại cho xã hội có phải là tội phạm sử
dụng công nghệ cao phải xem hành vi đó có được quy định trong Bộ luật Hình sự
hay không.
I. Tội sản xuất, mua
bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích
trái pháp luật
Điều 285 Bộ Luật hình
sự 2015 quy định:
1. Người nào sản xuất,
mua bán, trao đổi, tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm có tính năng tấn công
mạng máy tính, viễn thông, phương tiện điện tử để sử dụng vào mục đích trái
pháp luật, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải
tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến
500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở
lên;
c) Có tính chất chuyên
nghiệp;
d) Thu lợi bất chính
từ 50.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
đ) Gây thiệt hại về
tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
e) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến
1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Thu lợi bất chính
500.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thiệt hại về
tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên.
4. Người phạm tội còn
có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức
vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch
thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
II. Tội phát tán
chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử
Điều 286 Bộ Luật hình
sự 2015 quy định:
1. Người nào cố ý phát
tán chương trình tin học gây hại cho mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện
điện tử thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000
đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù
từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Thu lợi bất chính
từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
b) Gây thiệt hại từ
50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;
c) Làm lây nhiễm từ 50
phương tiện điện tử đến dưới 200 phương tiện điện tử hoặc hệ thống thông tin có
từ 50 người sử dụng đến dưới 200 người sử dụng;
d) Đã bị xử phạt vi
phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án
tích mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến
500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Thu lợi bất chính từ
200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
c) Gây thiệt hại từ
300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
d) Làm lây nhiễm từ
200 phương tiện điện tử đến dưới 500 phương tiện điện tử hoặc hệ thống thông
tin có từ 200 người sử dụng đến dưới 500 người sử dụng;
đ) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Đối với hệ thống dữ
liệu thuộc bí mật nhà nước; hệ thống thông tin phục vụ quốc phòng, an ninh;
b) Đối với cơ sở hạ
tầng thông tin quốc gia; hệ thống thông tin điều hành lưới điện quốc gia; hệ
thống thông tin tài chính, ngân hàng; hệ thống thông tin điều khiển giao thông;
c) Thu lợi bất chính
500.000.000 đồng trở lên;
d) Gây thiệt hại
1.000.000.000 đồng trở lên;
đ) Làm lây nhiễm 500
phương tiện điện tử trở lên hoặc hệ thống thông tin có từ 500 người sử dụng trở
lên.
4. Người phạm tội còn
có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức
vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
III. Tội cản trở hoặc
gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
Điều 287 Bộ Luật hình
sự 2015 quy định:
1. Người nào tự ý xóa,
làm tổn hại hoặc thay đổi phần mềm, dữ liệu điện tử hoặc ngăn chặn trái phép
việc truyền tải dữ liệu của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
hoặc có hành vi khác cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử thuộc một trong các trường hợp sau đây,
nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 286 và Điều 289 của Bộ luật này,
thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06
tháng đến 03 năm:
a) Thu lợi bất chính
từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
b) Gây thiệt hại từ
100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
c) Làm tê liệt, gián
đoạn, ngưng trệ hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện
tử từ 30 phút đến dưới 24 giờ hoặc từ 03 lần đến dưới 10 lần trong thời gian 24
giờ;
d) Làm đình trệ hoạt
động của cơ quan, tổ chức từ 24 giờ đến dưới 72 giờ;
đ) Đã bị xử phạt vi
phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án
tích mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến
1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng quyền quản
trị mạng máy tính, mạng viễn thông;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Thu lợi bất chính
từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
đ) Gây thiệt hại từ
500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng;
e) Làm tê liệt, gián
đoạn, ngưng trệ hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện
tử từ 24 giờ đến dưới 168 giờ hoặc từ 10 lần đến dưới 50 lần trong thời gian 24
giờ;
g) Làm đình trệ hoạt
động của cơ quan, tổ chức từ 72 giờ đến dưới 168 giờ.
3. Phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Đối với hệ thống dữ
liệu thuộc bí mật nhà nước; hệ thống thông tin phục vụ quốc phòng, an ninh;
b) Đối với cơ sở hạ
tầng thông tin quốc gia; hệ thống thông tin điều hành lưới điện quốc gia; hệ
thống thông tin, giao dịch tài chính, ngân hàng; hệ thống thông tin điều khiển
giao thông;
c) Thu lợi bất chính
1.000.000.000 đồng trở lên;
d) Gây thiệt hại
1.500.000.000 đồng trở lên;
đ) Làm tê liệt, gián
đoạn, ngưng trệ hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện
tử 168 giờ trở lên hoặc 50 lần trở lên trong thời gian 24 giờ;
e) Làm đình trệ hoạt
động của cơ quan, tổ chức 168 giờ trở lên.
4. Người phạm tội còn
có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức
vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
3. Xác định khung hình phạt áp dụng đối với cá
nhân phạm tội mua bán người dưới 16 tuổi
Bước 1: Xác định tình
tiết áp dụng
Sau khi đã xác định
được hành vi phạm tội mua bán người dưới 16 tuổi thì sử dụng các yếu tố như
tính chất, hậu quả, chủ thể, công cụ, phương tiện, động cơ, mục đích v.v.. được
quy định trong nội dung các tình tiết tại các khoản của điều luật áp dụng để
đối chiếu với các yếu tố tương ứng của hành vi phạm tội đang xem xét, rồi xác
định tình tiết áp dụng cụ thể (còn gọi là các tình tiết định khung hình phạt).
*Lưu ý khi đối chiếu,
xác định tình tiết định khung hình phạt sau đây để áp dụng:
- Tỷ lệ tổn thương cơ
thể quy đinh tại điểm h khoản 2 hoặc điểm c khoản 3 Điều 151 BLHS là tổng tỷ lệ
thương tích, tổn thương do hành vi phạm tội mua bán người dưới 16 tuổi (dùng vũ
lực, lấy bộ phận cơ thể, hành vi khác…) gây ra một cách cố ý hoặc vô ý.
Trường hợp đã áp dụng
tình tiết định khung nêu trên thì người phạm tội không còn phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác quy định tại Điều 134 BLHS 2015 vì một hành vi vi phạm pháp luật chỉ
bị xử lý một lần. BLHS 2015 không quy định cụ thể về trường hợp này nhưng có
thể tham khảo tương tự khoản 3 Điều 51 và khoản 2 Điều 52 BLHS 2015, Điều 14 Bộ
Luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Điều 3 Luật xử lý vi phạm hành chính số
15/2012/QH13.
- Áp dụng tình tiết
định khung "làm nạn nhân chết " quy định tại điểm đ khoản 3 Điều 151
khi người thực hiện hành vi dùng vũ lực chỉ nhằm mục đích mua bán người dưới 16
tuổi mà không nhằm mục đích giết người và không phải lấy các bộ phận cơ thể
quyết định sự sống của nạn nhân, nhưng trong khi thực hiện hành vi đã vô ý gây
hậu quả chết người.Ví dụ, lấy bộ phận cơ thể không phải bộ phận cơ thể quyết
đinh sự sống của nạn nhân nhưng khi chiếm đoạt mô, bộ phận cơ thể làm nạn nhân
chết do bị nhiễm trùng hoặc thể trạng yếu. (Tham khảo Điều 6 Nghị quyết
02/2019/NQ-HĐTP ).
- Áp dụng tình tiết
định khung "đã lấy bộ phận cơ thể nạn nhân" quy định tại điểm d khoản
3 Điều 151:
+ Trường hợp hành vi
lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân mà gây tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên
thì áp dụng đồng thời 02 tình tiết định khung: tình tiết "đã lấy bộ phận
cơ thể nạn nhân" quy định tại điểm d khoản 3 Điều 151 và tình tiết
"gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe, gây rối loạn tâm thần và hành vi
của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên" quy định tại điểm
c khoản 3 Điều 151.
+Trường hợp hành vi
lấy bộ phận cơ thể nạn nhân làm nạn nhân chết do bi nhiễm trùng thì áp dụng
đồng thời 02 tình tiết định khung: tình tiết "đã lấy bộ phận cơ thể nạn
nhân" quy định tại điểm d khoản 3 Điều 151 và tình tiết "làm nạn nhân
chết" quy định tại điểm đ khoản 3 Điều 151.
Bước 2: Xác khung hình
phạt áp dụng
Khung hình phạt áp
dụng đối với cá nhân phạm tội được quy định tại các khoản của điều luật áp
dụng. Do đó, để xác định khung hình phạt áp dụng thì cần xác định hành vi phạm
tội của cá nhân đó thuộc khoản nào của điều luật áp dụng,cụ thể như sau:
- Nếu tất cả các tình
tiết áp dụng được xác định tại Bước 1 thuộc cùng một khoản thì lựa chọn khung
hình phạt được quy định tại khoản đó là khung hình phạt áp dụng đối với cá nhân
phạm tội.
- Nếu các tình tiết
định xác định tại Bước 1 thuộc các khoản khác nhau của điều luật áp dụng, thì
lựa chọn khoản có khung hình phạt cao nhất để áp dụng (tham khảo mục 5 nghị
quyết số 1/1998/NQ-HĐTPHướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sư).
Tình tiết còn lại
thuộc khung hình phạt nhẹ hơn được sử dụng làm tình tiết tăng nặng hoặc giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp tình tiết đó cũng được quy định tại
Điều 52 về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc Điều 51 về các tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của BLHS 2015.
Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV,
THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi
là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên
viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm,
kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm
và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý-
cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư
bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là
nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư
luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư
thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề,
chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh
hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật
sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp
được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem
lại công bằng cho xã hội.
Luật
sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư
Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền
thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật
trên các Kênh truyền hình uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM
(HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long,
Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam,
Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát
thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi
trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an
nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học
luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường
ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học
uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật
sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng
trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng
Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu
giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa
Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự,
kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại
niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công
lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi
cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước
rất lâu năm.
Trân trọng
cảm ơn!.
|