Số người nghiện ma tuý trên địa bàn tỉnh Bến Tre những năm gần đây có chiều hướng ngày càng gia tăng, một trong những nguyên nhân chính tăng tội phạm về ma túy Theo báo cáo của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bến Tre, tính đến tháng 12/2015 số người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý là 1.120 người, tuy nhiên số vụ án ma tuý bị phát hiện, khởi tố điều tra, truy tố, xét xử chưa đáp ứng nhu cầu tình hình mới, nhất là đối với các vụ án ma tuý “truy xét”.
Trên địa bàn tỉnh Bến Tre tội phạm về ma túy đã khởi tố đa số xuất phát từ việc bắt quả tang đối tượng tàng trữ, vận chuyển hoặc mua bán trái phép chất ma túy. Cơ quan điều tra tiến hành điều tra làm rõ những lần phạm tội trước đó (án truy xét) thực tế còn gặp phải những khó khăn sau:
Một là: Đối với các vụ án ma tuý “truy xét”, nguồn chứng cứ chủ yếu dựa vào lời khai nhận của đối tượng bị bắt, của người nghiện mua ma tuý về sử dụng để làm căn cứ buộc tội, không có người chứng kiến, không thu được mẫu vật để phục vụ cho công tác giám định (thành phần, hàm lượng, trọng lượng,…).
Thực tiễn xét xử cho thấy: Để xét xử được bị cáo phạm tội mua bán trái phép chất ma túy theo Điểm b Khoản 2 Điều 194 BLHS (phạm tội nhiều lần) đối với án ma tuý “truy xét” đòi hỏi ngoài lời khai nhận tội của bị cáo, lời khai người mua, phải có lời khai của người thứ ba chính mắt trông thấy, hoặc những tình tiết có liên quan khác thể hiện việc mua bán là có cơ sở.
Hai là: Bắt quả tang về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đối tượng khai nhận mua ma túy về để sử dụng, khi có người mua thì bán. Qua điều tra xác định, có nhiều người trước đó đã mua ma túy của đối tượng để sử dụng nhưng đối tượng không thừa nhận, trường hợp này thông thường Tòa án xử bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 194 BLHS chỉ khi bị can thừa nhận đã bán ma túy cho nhiều người khác trước đó thì Tòa án xử về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 194 BLHS (phạm tội nhiều lần).
Ba là: Bắt quả tang đối tượng trên đường đi bán ma túy (bị phát hiện, ngăn chặn trước khi mua bán) đối tượng khai nhận đem ma túy bán cho người nghiện tên Nguyễn Văn A, qua đấu tranh A (người mua) không thừa nhận. Trường hợp này cũng chỉ xử bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 194 BLHS.
Bốn là: Còn có quan điểm khác nhau trong việc đánh giá chứng cứ giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng. Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, cho rằng trong các vụ án ma tuý “truy xét” thì lời khai của người làm chứng được thu thập khách quan theo đúng quy định của BLTTHS thì phải xác định đây là chứng cứ, dù bị can, bị cáo không nhận tội, vẫn có thể dùng chứng cứ này buộc tội. Tuy nhiên, quan điểm của Tòa án về việc đánh giá chứng cứ chủ yếu căn cứ vào diễn biến phiên tòa, mặc dù trong quá trình điều tra, truy tố, bị can, bị cáo khai nhận tội phù hợp với lời khai của người làm chứng nhưng tại phiên tòa bị cáo phản cung, không thừa nhận thì Tòa án chấp nhận lời khai của bị cáo tại phiên xét xử. Thậm chí tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thừa nhận các lần “truy xét”, đến phiên tòa phúc thẩm bị cáo không thừa nhận các lần phạm tội trước đó, Tòa án cấp phúc thẩm lại chấp nhận lời khai của bị cáo.
Năm là: Tội phạm về ma túy thường có tính đối phó cao, tính liên kết, đặc biệt là tính cắt đoạn tự biết phần việc của mình, không biết việc người khác; thủ đoạn cất giấu, giao nhận, thanh toán, thủ đoạn khai báo và chống đối rất cao; một số đối tượng bị bắt quả tang có chất ma túy vẫn không nhận đó là ma túy của mình và thường không thể khai thác mở rộng.
Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trên:
- Năng lực Điều tra viên, Kiểm sát viên còn hạn chế; đề xuất xử lý thiếu chính xác, thậm chí còn dẫn đến oan, sai, bế tắc trong mở rộng điều tra, thao tác nghiệp vụ của Kiểm sát viên còn lúng túng, chưa nghiên cứu toàn diện đánh giá tổng hợp các tình tiết liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội.
- Có nơi, có lúc công tác quản lý, chỉ đạo điều hành, kiểm tra quá trình điều tra, truy tố các tội phạm về án ma túy nhất là án ma tuý “truy xét” chưa thường xuyên, liên tục.
- Trình độ ngoại ngữ và trình độ vi tính của Kiểm sát viên không cao nên gặp khó khăn khi làm việc với bị can là người nước ngoài (chứng chỉ A, B không chưa đủ, mà phải có chứng chỉ ngoại ngữ chuyên ngành vì khi yêu cầu cử phiên dịch thì mới đảm bảo chính xác, đầy đủ), những vụ án ma túy sử dụng công nghệ cao vào quá trình giao dịch, mua bán trái phép chất ma túy cũng như sự hiểu biết về lĩnh vực tài chính, ngân hàng để đánh giá hoạt động rửa tiền của tội phạm về ma túy.
- Quy định pháp luật chưa thống nhất, thiếu chặt chẽ, các vụ án ma tuý “truy xét” chỉ xử lý được đối với tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, còn đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý thì không xử lý được do phải xác định trọng lượng, hàm lượng làm căn cứ định tội. Trang thiết bị phục vụ cho công tác điều tra và truy tố còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế nên khi bị can, bị cáo phản cung thì không có căn cứ để buộc tội.
- Tại Mục 10 Nghị quyết số 01/2006 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao quy định về người chưa thành niên từ 14 đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy từ hai lần trở lên, nếu tổng trọng lượng chất ma túy dưới mức tối thiểu quy định tại các điểm g, h, i, k, l, m, n hoặc o tại Khoản 2 Điều 194 BLHS thì họ không phải chịu trách nhiệm hình sự là mâu thuẫn với Khoản 2 Điều 194 và Điều 8 BLHS.
Từ những khó khăn, vướng mắc trên đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao thường xuyên thông báo rút kinh nghiệm về nghiệp vụ kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử hình sự liên quan đến các vụ án ma túy để Viện kiểm sát nhân dân địa phương nghiên cứu vận dụng; khi địa phương thỉnh thị, liên ngành Trung ương sớm có văn bản hướng dẫn để tạo điều kiện cho địa phương xử lý án nhanh; đồng thời tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Kiểm sát viên làm công tác phòng, chống ma túy theo hướng chuyên sâu. Có chế độ khen thưởng cho cán bộ, Kiểm sát viên đạt thành tích xuất sắc trong thực hiện công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án ma túy nhất là đối với án ma túy “truy xét”. Trang bị phương tiện kỹ thuật đảm bảo cho hoạt động điều tra, xét xử, đáp ứng được quy định của pháp luật Tố tụng hình sự và nhu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới./.
Ngọc Vân - Phòng 1 - VKSND tỉnh Bến Tre
Nguồn: https://www.vksbentre.gov.vn/index.php/vksnd-tnh-bn-tre/1070-an-truy-xet-v-ma-tuy-nhng-kho-khn-vng-mc#:~:text=M%E1%BB%99t%20l%C3%A0%3A%20%C4%90%E1%BB%91i%20v%E1%BB%9Bi%20c%C3%A1c,%2C%20tr%E1%BB%8Dng%20l%C6%B0%E1%BB%A3ng%2C%E2%80%A6).