Theo khoản 1 Điều 37 Hiến pháp 2013 có quy
định cụ thể rằng: Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại,
hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi
khác vi phạm quyền trẻ em. Và theo Luật Trẻ em 2016 có quy định trẻ em là người
dưới 16 tuổi và có quyền được bảo vệ tính mạng, được bảo đảm tốt nhất các điều
kiện sống và phát triển.
Song song đó khoản 6 Điều 4 Luật Trẻ Em
2016 giải thích các hành vi bạo hành, bạo lực trẻ em là hành vi hành hạ, ngược
đãi, đánh đập; xâm hại thân thể, sức khỏe; lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
cô lập, xua đuổi và các hành vi cố ý khác gây tổn hại về thể chất, tinh thần của
trẻ em. Đồng thời, theo khoản 3 Điều 6 Luật này cũng quy định các hành vi bị
nghiêm cấm đối với trẻ em trong đó có: Xâm hại tình dục, bạo lực, lạm dụng, bóc
lột trẻ em.
Pháp luật sẽ căn cứ vào mục đích, động cơ, hậu quả của hành vi bạo
hành, và tùy trường hợp người bạo hành có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc
truy cứu trách nhiệm hình sự.
Đối với mức xử phạt hành chính đối với hành vi bạo hành, bạo lực
trẻ em với mức phạt cao nhất lên đến 20.000.000 đồng theo Điều 22 Nghị định
130/2021/NĐ-CP cụ thể như sau:
- Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một
trong các hành vi vi phạm sau đây:
+ Bắt nhịn ăn, nhịn uống, không cho hoặc hạn chế vệ sinh cá nhân;
bắt sống ở nơi có môi trường độc hại, nguy hiểm hoặc các hình thức đối xử tồi tệ
khác với trẻ em;
+ Gây tổn hại về tinh thần, xúc phạm nhân phẩm, danh dự, lăng mạ,
chửi mắng, đe dọa, cách ly ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ em;
+ Cô lập, xua đuổi hoặc dùng các biện pháp trừng phạt để dạy trẻ
em gây tổn hại về thể chất, tinh thần của trẻ em;
+ Thường xuyên đe dọa trẻ em bằng các hình ảnh, âm thanh, con vật,
đồ vật làm trẻ em sợ hãi, tổn hại về tinh thần.
- Biện pháp khắc phục hậu quả:
+ Buộc chịu mọi chi phí để khám bệnh, chữa bệnh (nếu có) cho trẻ
em đối với hành vi vi phạm nêu trên;
+ Buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe trẻ em đối với các
hình ảnh, âm thanh, con vật, đồ vật làm trẻ em sợ hãi, tổn hại về tinh thần.
Khi có căn cứ xem xét tính chất, mức độ của hành vi bạo hành thì
người thực hiện hành vi bạo hành nếu gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm của trẻ em thì người đó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại
một trong các tội được quy định tại Bộ luật Hình sự như: Tội hành hạ người
khác, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác hoặc
nghiêm trọng hơn là các tội vô ý làm chết người, tội giết người. Tùy vào hành
vi, mức độ nguy hiểm mà người phạm tội sẽ có cấu thành tội phạm khác nhau và phải
chịu trách nhiệm hình sự khác nhau.
+ Tội hành hạ người khác được quy định tại Điều 140 Bộ luật Hình sự
với khung hình phạt tù cao nhất là từ 01 năm đến 30 năm;
+ Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác được quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự với khung hình phạt cao nhất là
phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Trong đó, tại khoản 1 Điều này
quy định trường hợp phạm tội đối với người dưới 16 tuổi thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm;
+ Tội giết người được quy định tại Điều 123 Bộ luật hình sự, giết
người dưới 16 tuổi thì có thể bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung than hoặc
tử hình.
Trẻ em cần được cảm thấy an toàn tại gia đình, trong nhà trường và
trong cộng đồng của mình. Tuy nhiên, bạo lực trẻ em vẫn còn phổ biến ở Việt
Nam. Theo thống kế có 68,4% trẻ em trong độ tuổi từ 1-14 cho biết đã từng bị bạo
hành bởi cha mẹ hoặc người chăm sóc trong gia đình. Hành vi như vậy thường có
nguyên nhân bởi khả năng tài chính, trình độ học vấn của cha mẹ và các vấn đề
khác như lạm dụng rượu hoặc ma túy. Như vậy, cách
xử lý với trường hợp trẻ em bị bạo hành, cần căn cứ vào việc nếu hành vi của đối
tượng phù hợp với các trường hợp, đủ cấu thành các tội phạm nêu trên thì gia
đình có trẻ em bị bạo hành có thể gửi đơn tố cáo tới cơ quan Công an để điều
tra làm rõ hành vi. Hoặc nếu vẫn chưa đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm thì có thể
làm đơn gửi tới Chủ tịch ủy ban nhân dân xã/phường nơi cư trú để trình báo về
hành vi bạo hành hoặc nhờ tới sự giúp đỡ của các tổ chức xã hội ở địa phương
can thiệp.
LS TRẦN MINH HÙNG, LS HÙNG TRÊN TRUYỀN HÌNH UY TÍN
|