1.
Giải quyết tranh chấp đất đai khi ly hôn với người nước ngoài?
Câu hỏi: Tôi là vợ của một người
nước ngoài. Hiện nay do mẫu thuẫn trong công việc cũng như cuộc sống gia đình
chúng tôi đã ly hôn.
Trước đây vợ chồng tôi đã cùng bỏ
tiền đầu tư mua đất để mở công ty du lịch sinh thái biển khoảng 10.000 m2. Công
ty này đang hoạt động bình thường và do tôi đứng tên và là chủ sở hữu.
Vậy sau khi ly hôn tôi muốn giữ lại
tất cả diện tích đất để công ty được tiếp tục hoạt động được không?
Sau khi Tòa sử chia tài sản theo
luật hôn nhân, do tôi muốn giữ đất, tôi có thể đưa phần tiền giá trị một nửa số
tài sản và đất đai mà tòa đã định giá cho chồng tôi được không?
Hiện nay thì chồng tôi cũng đang
muốn tranh chấp để lấy đất, vậy anh ấy có lấy đất được không? Tôi phải làm thế
nào?
Xin chân thành cảm ơn!
Luật sư Gia Đình trả lời:
1. Trước hết, việc ly hôn giữa công
dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú
tại Việt Nam được giải quyết theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình.
Theo đó, trường hợp tài sản thuộc sở
hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì
trong giấy chứng nhận quyền sở hữu (GCN) phải ghi tên của cả vợ chồng (khoản 1
& 2, Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình). Tuy nhiên, trường hợp tài sản được
tạo lập trong thời kỳ hôn nhân mà vì lý do nào đó chỉ một bên đứng tên, nếu
không có tranh chấp thì tài sản đó vẫn là tài sản chung của vợ chồng (khoản 3
Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình). Nếu có tranh chấp thì người có tên trong
GCN phải chứng minh tài sản đó là tài sản riêng, nếu không chứng minh được thì
tài sản đó vẫn là tài sản chung.
Vì vậy, trong trường hợp của chị, dù
chồng chị không đứng tên trên GCN, nhưng mảnh đất để thực hiện dự án du lịch
sinh thái do công ty mà chị đứng tên vẫn được xem là tài sản chung của vợ chồng
chị có trong thời kỳ hôn nhân (trừ khi chị chứng minh được đó là tài sản riêng
của chị) và sẽ được chia theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình.
2. Việc tự thỏa thuận phân chia tài
sản chung khi ly hôn là quyền của các bên, và nếu không thỏa thuận được hoặc có
tranh chấp thì các bên có quyền đề nghị cơ quan Tòa án xem xét giải quyết.
Thông thường, khi có tranh chấp về
tài sản chung, Tòa án sẽ xem xét các chứng cứ để giải thích, giúp cho đương sự
hiểu rõ các quyền và nghĩa vụ liên quan. Nếu không hòa giải thành việc chia tài
sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc nêu tại Điều 95, Luật Hôn nhân và
Gia đình như sau:
- Tài sản chung của vợ chồng về
nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng
tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển
tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu
nhập;
- Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân
sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
- Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi
bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục
lao động tạo thu nhập;
- Tài sản chung của vợ chồng được
chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật
có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần
giá trị chênh lệch.
Căn cứ vào những quy định nói trên,
hiện nay chị đang có lợi thế về mặt pháp lý khi GCN và dự án du lịch sinh thái
đều do chị đứng tên. Tuy nhiên, chị cần lưu ý rằng, đây chỉ là lợi thế chứ
không phải là yếu tố tiên quyết để cơ quan có thẩm quyền quyết định cho chị
được quyền giữ lại toàn bộ tài sản nói trên.
Do đó, trong trường hợp chị muốn giữ
lại khối tài sản bằng cách thanh toán cho chồng chị ½ giá trị tài sản (bằng
tiền), thì chị nên nêu ý kiến đề xuất này trực tiếp với chồng chị để các bên có
thể thỏa thuận, thương lượng hướng giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng
nhất. Và chỉ có giải pháp hòa giải thành công mới giúp cho các bên không tốn nhiều
công sức, thời gian, của cải để giải quyết vụ việc.
2.
Tư vấn về cách ngăn chặn việc tẩu tán tài sản khi đang ly hôn.
Câu hỏi:
Chào luật sư tôi muốn hỏi trường hợp
về xử lý trường hợp tẩu tán tài sản khi ly hôn như sau: Trong trường hợp tài
sản (tiền) hình thành trong thời gian hôn nhân, số tiền đó đứng tên vợ và gửi
tại ngân hàng. Tuy nhiên tất cả sổ tiết kiệm vợ dấu chồng, không cho chồng
biết. Như vậy nếu chồng nộp đơn ly hôn, những tài sản đó có được phân chia hay
không.
Và có cách gì để phong tỏa các tài
khoản đó lại hay không? Liệu tài sản đó có bị tẩu tán (chuyển cho người khác
đứng tên) và sẽ xử lý như thế nào? Quy định ra sao mong được tư vấn. tôi cảm
ơn.
Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi
đề nghị tư vấn đến Văn phòng Luật sư Gia Đình, trường hợp của bạn chúng tôi tư
vấn như sau:
Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy
định như sau:
Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm
tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh
doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác
trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của
Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và
tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung….
…3. Trong trường hợp không có căn cứ
để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi
bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.”
Như vậy, trừ tài sản được tặng cho
riêng, thưa kế riêng, nếu vợ chồng không có thỏa thuận khác thì những tài sản
hình thành trong thời kỳ hôn nhân sẽ được xác định là tài sản chung vợ chồng.
Trong trường hợp của bạn, nếu người
vợ không thể chứng minh số tiền tiết kiệm gửi ngân hàng là tài sản riêng của vợ
bạn thì đây sẽ được xác định là tài sản chung. Theo đó khi ly hôn, người chồng
có quyền được hưởng 1 nửa số tài sản này.
Về việc ngăn chặn người vợ có thể
tẩu tán tài sản khi ly hôn, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định như sau:
Điều 111 quy định về quyền áp dụng
các biện pháp khẩn cấp tạm thời như sau:
“1. Trong quá trình giải quyết vụ
án, đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá
nhân khởi kiện vụ án quy định tại Điều 187 của Bộ luật này có quyền yêu cầu Tòa
án đang giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời
quy định tại Điều 114 của Bộ luật này để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách
của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ
chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục
được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án.”
Điều 114.Các biện pháp khẩn cấp tạm
thời
“…10. Phong toả tài khoản tại ngân
hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong toả tài sản ở nơi gửi
giữ…”
Như vậy, trong quá trình giải quyết
vụ án ly hôn (bắt đầu từ thời điểm thụ lý vụ án), nếu thấy có cơ sở cho rằng
người vợ sẽ có hành vi tẩu tán tài sản được gửi giữ trong ngân hàng thì người
chồng có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo
quy định tại Khoản 1 Điều 111.
Song bạn cần lưu ý, người yêu cầu
Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật về yêu cầu của mình. Trong trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường. (theo quy định tại khoản 1
Điều 113 BLTTDS).
Đồng thời người yêu cầu áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời trên sẽ phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý
hoặc giấy tờ có giá do Toà án ấn định nhưng phải tương đương với nghĩa vụ tài
sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện để bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời và ngăn ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có quyền yêu cầu.
Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời được Điều 133 BLTTDS quy định như sau:
“Điều 133. Thủ tục áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời
1. Người yêu cầu Tòa án áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời phải làm đơn gửi đến Tòa án có thẩm quyền. Đơn yêu cầu
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải có các nội dung chính sau đây
a) Ngày, tháng, năm làm đơn;
b) Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax,
địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời;
c) Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax,
địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời;
d) Tóm tắt nội dung tranh chấp hoặc
hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình;
đ) Lý do cần phải áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời;
e) Biện pháp khẩn cấp tạm thời cần
được áp dụng và các yêu cầu cụ thể.
Tùy theo yêu cầu áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời mà người yêu cầu phải cung cấp cho Tòa án chứng cứ để chứng
minh cho sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó.
2. Yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 111 của Bộ luật này
được giải quyết như sau:
a) Trường hợp Tòa án nhận đơn yêu
cầu trước khi mở phiên tòa thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải
xem xét, giải quyết. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, nếu
người yêu cầu không phải thực hiện biện pháp bảo đảm hoặc ngay sau khi người đó
thực hiện xong biện pháp bảo đảm quy định tại Điều 136 của Bộ luật này thì Thẩm
phán phải ra ngay quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không
chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho
người yêu cầu…”
Tóm lại, trong quá trình giải quyết
vụ án ly hôn, người chồng sẽ có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời để ngăn chặn việc người vợ tẩu tán tài sản khi đang trong quá trình
giải quyết vụ án.
Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia
tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi
là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên
viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm,
kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm
và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý-
cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư
bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là
nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư
luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư
thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề,
chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh
hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật
sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp
được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem
lại công bằng cho xã hội.
Luật
sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư
Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền
thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật
trên các Kênh truyền hình uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM
(HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long,
Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam,
Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát
thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi
trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an
nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học
luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường
ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học
uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật
sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng
trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng
Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu
giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa
Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự,
kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại
niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công
lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi
cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước
rất lâu năm.
Trân trọng
cảm ơn!.
|