Tội tổ chức đánh bạc là gì?
Tội tổ chức đánh bạc là hành vi tổ chức, điều hành hoặc giúp đỡ hoạt động đánh bạc trái phép. Đây là hành vi vi phạm pháp luật và bị xử lý nghiêm khắc theo quy định của pháp luật hình sự.
Tội tổ chức đánh bạc bao gồm nhiều hành vi khác nhau như lập các sòng bạc trái phép, điều hành các hoạt động cá cược qua mạng, cung cấp địa điểm và phương tiện cho hoạt động đánh bạc.
Tội tổ chức đánh bạc có được hưởng án treo không?
Theo quy định tại Điều 322 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thì tội tổ chức đánh bạc gồm hai khung hình phạt chính.
– Nếu người phạm tội tổ chức đánh bạc thuộc khoản 1 Điều 322 thì có thể bị phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 300 triệu đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
– Nếu người phạm tội tổ chức đánh bạc thuộc khoản 2 Điều 322 thì có thể bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
Một trong những điều kiện để người phạm tội được hưởng án treo là bị áp dụng mức phạt tù không quá 03 năm. Như vậy, nếu người phạm tội tổ chức đánh bạc thuộc khoản 1 Điều 322 và bị Toà án áp dụng mức hình phạt không quá 03 năm tù thì có thể được xem xét để cho hưởng án treo nếu đáp ứng các điều kiện khác theo quy định của pháp luật về điều kiện được hưởng án treo.
Như vậy, tội tổ chức đánh bạc có thể được hưởng án treo.
Các điều kiện để người phạm tội tổ chức đánh bạc được hưởng án treo
Theo quy định tại Điều 2 của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022) thì người phạm tội tổ chức đánh bạc có thể được Toà án xem xét cho hưởng án treo nếu đáp ứng tất cả các điều kiện sau đây:
1/ Bị xử phạt tù không quá 3 năm
2/ Ngoài lần phạm tội này, người phạm tội đều chấp hành đúng chính sách pháp luật của Nhà nước và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân ở nơi cư trú và nơi làm việc.
- Nếu người phạm tội trước đây đã bị kết án nhưng đã được xoá án tích, bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật nhưng đã hết thời hạn được xem là chưa bị xử phạt hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật, phạm tội tổ chức đánh bạc thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc có vai trò không đáng kể trong vụ án thì có thể được xem xét cho hưởng án treo.
- Nếu người phạm tội tổ chức đánh bạc mà Toà án đã sử dụng tình tiết “đã bị xử phạt vi phạm hành chính” hoặc “đã bị kết án” để định tội theo điểm đ, Điều 322 Bộ luật Hình sự thì cũng có thể được xem xét cho hưởng án treo.
3/ Người phạm tội tổ chức đánh bạc có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó phải có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp người phạm tội tổ chức đánh bạc có tình tiết tăng nặng thì số lượng tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng từ 02 tình tiết trở lên.
4/ Người phạm tội tổ chức đánh bạc có nơi thường trú hoặc tạm trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định có thời hạn tối thiểu là 01 năm.
5/ Toà án xét thấy người phạm tội tổ chức đánh bạc có khả năng tự cải tạo và việc cho người đó được hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không làm mất an ninh, trật tự ở địa phương.
heo Điều 1 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP quy định về khái niệm án treo cụ thể như sau:
Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 3 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù.
Dựa vào quy định trên có thể thấy được rằng, án treo không phải là một hình phạt mà là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được áp dụng cho người bị kết án phạt tù không quá 3 năm.
- Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về án treo cụ thể như sau:
1. Khi xử phạt tù không quá 3 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 1 năm đến 5 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.
2. Trong thời gian thử thách, tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.
3. Tòa án có thể quyết định áp dụng đối với người được hưởng án treo hình phạt bổ sung nếu trong điều luật áp dụng có quy định hình phạt này.
4. Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục, tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.
5. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 2 lần trở lên, tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án
Trân trọng.
LS TRẦN MINH HÙNG |