Sử dụng bitcoin để thanh toán có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Cho tôi hỏi, sử dụng bitcoin để thanh toán có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? Sử dụng bitcoin để thanh toán nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì bị phạt bao nhiêu tiền? Nhờ anh chị giải đáp.
Sử dụng bitcoin để thanh toán có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Căn cứ quy định Điều 206 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi khoản 48 Điều 1 Luật Sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định về tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng như sau:
Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây gây thiệt hại cho người khác về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
.....
h) Phát hành, cung ứng, sử dụng phương tiện thanh toán không hợp pháp; làm giả chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán; sử dụng chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán giả;
i) Kinh doanh vàng trái phép hoặc kinh doanh ngoại hối trái phép;
k) Tiến hành hoạt động ngân hàng khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng.
2. Phạm tội gây thiệt hại về tài sản từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
3. Phạm tội gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.
4. Phạm tội gây thiệt hại về tài sản 3.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Căn cứ quy định khoản 6, khoản 7 Điều 4 Nghị định 101/2012/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 1 Điều 1 Nghị định 80/2016/NĐ-CP quy định như sau:
Giải thích từ ngữ
Trong Nghị định này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
....
6. Phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt sử dụng trong giao dịch thanh toán (sau đây gọi là phương tiện thanh toán), bao gồm: Séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng và các phương tiện thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
7. Phương tiện thanh toán không hợp pháp là các phương tiện thanh toán không thuộc quy định tại khoản 6 Điều này.
.....
Như vậy, việc sử dụng bitcoin để làm phương tiện thanh toán là không phù hợp theo quy định của pháp luật do bitcoin không phải là phương tiện thanh toán hợp pháp.
Do đó người nào có hành vi sử dụng bitcoin để thanh toán mà gây thiệt hại cho người khác về tài sản từ 100.000.000 đồng trở lên thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng.
Hình phạt đối với tội này là phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 20 năm tuỳ vào mức độ tội phạm.
Bên cạnh đó người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Sử dụng bitcoin để thanh toán có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? (Hình từ Internet)
Trường hợp sử dụng bitcoin để thanh toán nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì bị phạt bao nhiêu tiền?
Căn cứ quy định Điều 26 Nghị định 88/2019/NĐ-CP được sửa đổi bởi khoản 15 Điều 1 Nghị định 143/2021/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm quy định về hoạt động thanh toán như sau:
Vi phạm quy định về hoạt động thanh toán
.....
6. Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Mở tài khoản thanh toán cho khách hàng, cho phép khách hàng sử dụng tài khoản thanh toán không đúng quy định của pháp luật trong quá trình cung ứng dịch vụ thanh toán;
b) Thuê, cho thuê, mượn, cho mượn tài khoản thanh toán, mua, bán thông tin tài khoản thanh toán với số lượng từ 10 tài khoản thanh toán trở lên mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
c) Làm giả phương tiện thanh toán, lưu giữ, lưu hành, chuyển nhượng, sử dụng phương tiện thanh toán giả mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
d) Phát hành, cung ứng, sử dụng các phương tiện thanh toán không hợp pháp mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
đ) Hoạt động không đúng nội dung chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước về việc cung ứng dịch vụ thanh toán không qua tài khoản thanh toán của khách hàng.
....
9. Hình thức xử phạt bổ sung:
Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 1, điểm b khoản 5 và điểm c, d khoản 6 Điều này.
10. Biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc nộp vào ngân sách nhà nước số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 1, khoản 4, khoản 5, khoản 6, khoản 7 và khoản 8 Điều này;
b) Không cho mở rộng phạm vi, quy mô và địa bàn hoạt động trong thời gian chưa khắc phục xong vi phạm đối với hành vi vi phạm quy định tại các điểm a, c, d khoản 6, điểm c khoản 7 và điểm a khoản 8 Điều này;
c) Đề nghị cấp có thẩm quyền thu hồi văn bản chấp thuận hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán không qua tài khoản thanh toán của khách hàng đối với hành vi vi phạm tại điểm đ khoản 6 Điều này.
Như vậy, trường hợp sử dụng bitcoin để thanh toán nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì có thể bị xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
Lưu ý: Mức phạt tiền quy định trên đây là mức phạt tiền áp dụng đối với cá nhân; mức phạt tiền đối với tổ chức có cùng một hành vi vi phạm hành chính bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
Bên cạnh đó người vi phạm còn bị tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm, buộc nộp vào ngân sách nhà nước số lợi bất hợp pháp và không cho mở rộng phạm vi, quy mô và địa bàn hoạt động trong thời gian chưa khắc phục xong.
Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi sử dụng bitcoin để thanh toán là bao lâu?
Căn cứ quy định khoản 1 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 được sửa đổi bởi điểm a khoản 4 Điều 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi 2020 quy định về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính như sau:
Thời hiệu xử lý vi phạm hành chính
1. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được quy định như sau:
a) Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm, trừ các trường hợp sau đây:
Vi phạm hành chính về kế toán; hóa đơn; phí, lệ phí; kinh doanh bảo hiểm; quản lý giá; chứng khoán; sở hữu trí tuệ; xây dựng; thủy sản; lâm nghiệp; điều tra, quy hoạch, thăm dò, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên nước; hoạt động dầu khí và hoạt động khoáng sản khác; bảo vệ môi trường; năng lượng nguyên tử; quản lý, phát triển nhà và công sở; đất đai; đê điều; báo chí; xuất bản; sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh hàng hóa; sản xuất, buôn bán hàng cấm, hàng giả; quản lý lao động ngoài nước thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 02 năm.
Vi phạm hành chính về thuế thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về quản lý thuế;
...
Như vậy, thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi sử dụng bitcoin để thanh toán là 01 năm.

LS TRẦN MINH HÙNG, LS GIỎI,
UY TÍN THƯỜNG XUYÊN ĐƯỢC TRUYỀN HÌNH HTV, TRUYỀN HÌNH QUỐC HỘI VIỆT NAM, TRUYỀN
HÌNH CÔNG AN ANTV, VTV, TÂY NINH, BÌNH DƯƠNG, CẦN THƠ, ĐỒNG NAI, VOV, VOH, VTC,
SCTV, VOH, BÁO CHÍ TRÊN CẢ NƯỚC PHỎNG VẤN, TƯ VẤN...
ĐOÀN
LUẬT SƯ TP.HCM
VĂN
PHÒNG LUẬT SƯ GIA ĐÌNH
ĐT: 028.38779958
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập – Tự
Do – Hạnh Phúc
Văn phòng luật sư Gia Đình là một hãng luật được quyền
cung cấp dịch vụ pháp lý là luật sư tư vấn pháp luật thường xuyên trên Đài
Truyền hình HTV7, HTV9, Đài truyền hình Vĩnh Long, Đài truyền hình Việt Nam
(VTV), Đài truyền hình cáp VTC, Truyền hình Cần Thơ, Đài VOV Giao Thông,
SCTV, Truyền hình Công an ANTV, Truyền hình Quốc hội Việt Nam, Đài phát thanh
Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo công an nhân dân, Báo Công an nhân dân,
Thanh Niên, Báo pháp luật… và nhiều hãng báo chí khác... là luật sư được Trường
Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định Cấp
Quốc Gia, học thuật với trường Đại học Cảnh sát nhân dân. Là Luật
sư bào chữa, tư vấn, bảo vệ cho nhiều vụ án trên mọi lĩnh vực…
|
QUAN ĐIỂM CỦA
LS TRẦN MINH HÙNG – LS VPLS GIA ĐÌNH BÀO CHỮA CHO BỊ CÁO TRẦN NGỌC HOÀNG TRONG
VỤ ÁN “CƯỚP TÀI SẢN”.
Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo Trần
Ngọc Hoàng về tội danh Cướp tài sản theo quy định tại điểm a Khoản 4 Điều 168
Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 với tình tiết “Chiếm đoạt tài sản
trị giá 500.000.000 đồng trở lên” là không có cơ sở, trái với quy định pháp
luật. Bởi các lẽ sau:
Thứ nhất: Bitcoin không phải là tài sản
1. Theo quy định pháp luật dân sự, Bitcoin không được
xem là tài sản, cụ thể như sau:
Căn cứ điều 105 BLDS 2015:
“1. Tài sản
là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản
bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản
hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”
Vật là một bộ phận của thế giới vật chất tồn tại dưới
dạng rắn, lỏng, khí và con người có thể chiếm hữu, kiểm soát được. Do đó, các
đồng tiền mã hóa (tiền ảo) không phải là vật.
Căn cứ khoản 2 điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước 2010:
“Đồng tiền
của quốc gia khác hoặc đồng tiền chung châu Âu và đồng tiền chung khác được sử
dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực (sau đây gọi là ngoại tệ); …”
Theo quy định này, các đồng tiền mã hóa (tiền ảo)
không phải là tiền tệ do không được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành và
không phải là ngoại tệ do không phải là đồng tiền chính thức của bất cứ quốc
gia nào.
Căn cứ khoản 1 điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày
22/02/2012 sửa đổi bổ sung Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của
Chính phủ về giao dịch bảo đảm:
Giấy tờ có
giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ
tiền gửi, séc, chứng chỉ quỹ, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật,
trị giá được thành tiền và được phép giao dịch.
Nên các đồng tiền mã hóa (tiền ảo) không phải là giấy
tờ có giá.
Căn cứ điều 115 BLDS 2015:
“Quyền tài
sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng
quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.”
Do đó các đồng tiền mã hóa (tiền ảo) không phải là
quyền tài sản.
Tiền ảo không thuộc 1 trong 4 loại nêu trên nên tiền
ảo không được coi là tài sản. Như vậy theo quy định pháp luật dân sự, các đồng
tiền mã hóa/ tiền ảo như Tron, Bitcoin, Bittoren.. không phải là tài sản.
2. Các cơ
quan Nhà nước cũng có các Công văn trả lời về việc Bitcoin có được xem là tài
sản hay không, cụ thể như sau:
- Công văn số
60/CSHS ngày 18/6/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Bộ Công an về đề
nghị phối hợp cung cấp thông tin, bút lục 837.
Tóm tắt
công văn số 60/CSHS: Để phục
vụ yêu cầu điều tra xác minh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đề nghị Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam cho biết, Tiền điện tử TRX(Tron), BTT(bittorent), BTC
(Bitcoin), ETH (Ethereum) có được Nhà nước công nhận là tài sản theo quy định
tại điều 105 BLDS 2015 hay không. Nếu được coi là tài sản thì được định giá như
thế nào. Cơ quan nào có thẩm quyền định giá và quy đổi.
- Công văn số
5027/NHNN-TT ngày 09/7/2020 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc
phối hợp cung cấp thông tin phục vụ công tác điều tra, bút lục 838.
Tóm tắt
công văn số 5027/NHNN-TT: Trên cơ
sở Công văn số 11633/VPCP-KTTH ngày 29/11/2018 của Văn phòng Chính phủ về báo
cáo về việc rà soát, đánh giá toàn diện thực trạng pháp luật, thực tiễn về tài
sản ảo, tiền ảo, Bộ Tài chính được giao nhiệm vụ “xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật về tài sản ảo, tiền ảo”. Do đó Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đề nghị Cơ
quan Cảnh sát điều tra – Bộ Công án tham khảo ý kiến của Bộ Tài chính đối với
vấn Đề quản lý, quy định việc kinh doanh, giao dịch tài sản mã hóa, tiền mã
hóa/ tiền ảo.
- Trong văn bản gửi các cơ quan báo chí ngày
28/10/2017, Ngân hàng Nhà nước đã khẳng định căn cứ vào quy định pháp lý hiện
hành (Nghị định số 80/2016/NĐ-CP sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của
Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt), Bitcoin và các loại tiền ảo tương
tự khác không phải là phương tiện thanh toán hợp pháp tại Việt Nam.
3. Một số ghi nhận chính thức về mặt chính sách, pháp
luật liên quan đến tiền ảo:
Thông cáo báo chí về bitcoin và các loại tiền ảo tương
tự khác ngày 27/02/2014 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:
·
Khẳng định Bitcoin là một dạng tiền kỹ thuật số (tiền ảo),
không được phát hành bởi chính phủ hay một tổ chức tài chính, mà được tạo ra và
vận hành dựa trên hệ thống các máy tính kết nối mạng internet ngang hàng.
·
Khẳng định các giao dịch bằng Bitcoin có tính ẩn danh
cao nên Bitcoin có thể trở thành công cụ cho tội phạm như rửa tiền, buôn bán ma
túy, trốn thuế, giao dịch, thanh toán tài sản phi pháp.
·
Việc sử dụng Bitcoin (và các loại tiền ảo tương tự
khác) làm phương tiện thanh toán không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Các
tổ chức tín dụng không được phép sử dụng Bitcoin (và các loại tiền ảo tương tự
khác) như một loại tiền tệ hoặc phương tiện thanh toán khi cung ứng dịch vụ cho
khách hàng.
·
Việc sở hữu, mua bán, sử dụng bitcoin (và các loại tiền
ảo tương tự khác) như một loại tài sản tiềm ẩn rất nhiều rủi ro cho người dân
và không được pháp luật bảo vệ.
- Quyết định số 1255/QĐ-TTg ngày 21/8/2017 về phê
duyệt đề án hoàn thiện khung pháp lý để quản lý, xử lý đối với các loại tài sản
ảo, tiền điện tử, tiền ảo.
(Quyết định là cơ sở pháp lý quan trọng, đặt nền móng
cho việc nghiên cứu và ban hành các quy định pháp luật liên quan đến tiền ảo
trong tương lai tại Việt Nam).
Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 11/4/2018 về tăng cường quản
lý các hoạt động liên quan tới Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác.
(Trên cơ sở những cảnh báo nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực
của hoạt động liên quan đến tiền ảo, Chỉ thị đã yêu cầu các Bộ, ngành có liên
quan thực hiện việc quản lý các hoạt động liên quan đến tiền ảo nhằm hạn chế
những rủi ro, hệ lụy cho xã hội; kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành
vi vi phạm pháp luật).
- Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 13/4/2018 về các biện
pháp tăng cường kiểm soát các giao dịch, hoạt động liên quan đến tiền ảo.
(Chỉ thị đưa ra yêu cầu các đơn vị có liên quan (các
tổ chức tín dụng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; các đơn vị
tại trụ sở chính Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Ngân hàng Nhà nước chi nhánh các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) nghiêm túc thực hiện các biện pháp cụ
thể nhằm tăng cường kiểm soát, xử lý các giao dịch liên quan tới tiền ảo).
4. Các quy
định trong lĩnh vực pháp luật tiền tệ và ngân hàng:
Căn cứ khoản 2 điều 17 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam 2010 quy định: Tiền giấy, tiền kim
loại do Ngân hàng Nhà nước phát hành là phương tiện thanh toán hợp pháp trên
lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Căn cứ khoản 6, 7 điều 4 Nghị định 101/2012/NĐ-CP ngày
22/11/2012 của Chính phủ về việc thanh toán không dùng tiền mặt (được sửa đổi,
bổ sung bởi Nghị định 80/2016/NĐ-CP) quy định:
“6. Phương
tiện thanh toán không dùng tiền mặt sử dụng trong giao dịch thanh toán (sau đây
gọi là phương tiện thanh toán), bao gồm: Séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu,
ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng và các phương tiện thanh toán khác theo quy định
của Ngân hàng Nhà nước.
7. Phương
tiện thanh toán không hợp pháp là các phương tiện thanh toán không thuộc quy
định tại khoản 6 Điều này.”
- Căn cứ khoản 6 điều 6 Nghị định 101/2012/NĐ-CP (được
sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 80/2016/NĐ-CP) quy định về các hành vi bị cấm:
“6. Phát
hành, cung ứng và sử dụng các phương tiện thanh toán không hợp pháp.”
- Công văn số 5747/NHNN-PC của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam ngày 21/7/2017 gửi Văn phòng Chính phủ đã khẳng định:
“Tiền ảo
nói chung và Bitcoin, Litecoin nói riêng không phải là tiền tệ và không phải là
phương tiện thanh toán hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam. Việc phát
hành, cung ứng và sử dụng tiền ảo nói chung và Bitcoin, Litecoin nói riêng
(phương tiện thanh toán không hợp pháp) làm tiền tệ hoặc phương tiện thanh toán
là hành vi bị cấm. Chế tài xử lý hành vi này đã được quy định tại Nghị định
96/2014/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền
tệ và ngân hàng và Bộ luật Hình sự 2015 (đã sửa đổi, bổ sung).”
Như vậy, tại Việt Nam, Bitcoin không phải là tài sản
và chưa có quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động phát hành, mua bán, trao đổi
tiền ảo, tài sản ảo, cũng chưa quy định đơn vị chính thức quản lý việc phát
hành và giao dịch các đồng tiền ảo, tài sản ảo. Tại việt nam cũng cấm quy đổi,
định giá tiền ảo bitcoin.
Thứ hai: pháp luật nghiêm cấm Bitcoin không được định giá, không được
quy đổi nên không định giá được, không quy đổi được nên không định lượng, do
vậy không có căn cứ xét xử các bị cáo khoản 4, điều 170 BLHS, SĐ, BS 2017.
Hiện nay, vẫn chưa thể xác định, định lượng cụ thể của
số tiền các bị cáo chiếm đoạt. Đồng tiền Bitcoin không được xem là tài sản nên
không thể tiến hành định giá, quy đổi, định lượng giá trị được. Bởi tội cưỡng
đoạt tài sản thì phải định lượng để định khung, để định lượng thì phải định giá,
mà vụ án này đến thời điểm này không thể định giá hợp pháp được. Không thể quy
đổi từ các đồng tiền ảo TRX, BTC, BTT, ETH với đồng tiền ảo USDT để quy đổi giữa
đồng USDT với VNĐ trên trang wed coingecko.com vào lúc 13h ngày 17/5/2020 (thời
điểm Tài thực hiện giao dịch chuyển tiền) các đồng tiền ảo có giá trị
1.593.622,36USDT tương đương 37.140.962.620vnđ là không có căn cứ.
Bên cạnh đó, Không có căn cứ hoặc bất kỳ văn bản định
giá nào của cơ quan chức năng có thẩm quyền thể hiện số tiền các bị cáo chiếm đoạt
được định giá là hơn 37 tỷ đồng. Cụ thể:
- Công văn số
159/CSHS-P6 ngày 01/10/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Bộ Công an về
đề nghị cung cấp thông tin về tiền ảo, bút lục 843.
Tóm tắt
công văn số 159/CSHS-P6: sau khi
chiếm đoạt tiền ảo của anh Lê Đức Nguyên, Hồ Ngọc Tài cùng đồng bọn đã bán các
đồng tiền ảo gồm TRX, BTT, BTC, ETH trên sàn Binance để lấy tiền Việt Nam đồng
chia nhau. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Bộ Công an đề nghị Bộ Tài chính cung cấp
thông tin về tiền ảo: Hiện nay, việc định giá, quy đổi tiền ảo ra tiền Việt Nam
đồng được thực hiện dựa trên căn cứ nào, thực hiện ra sao. Tại Việt Nam, cơ
quan, tổ chức nào có thể định giá, quy đổi các loại tiền ảo này.
- Công văn số
13949/BTC-UBCK ngày 12/11/2020 của Bộ Tài chính về việc cung cấp thông tin
về tiền ảo theo yêu cầu của Cơ quan Cảnh sát điều tra, bút lục 844.
Tóm tắt
công văn số 13949/BTC-UBCK: Bộ Tài
chính cung cấp thông tin về tiền ảo theo yêu cầu của Cơ quan Cảnh sát điều tra
như sau, Việt Nam chưa có quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động phát hành, mua
bán, trao đổi, định giá, quy đổi tiền
ảo, tài sản ảo ra tiền Việt Nam đồng, đồng thời chưa quy định đơn vị chính thức
nào quản lý việc phát hành và giao dịch các đồng tiền ảo, tài sản ảo).
- Công văn số
536/A05-P6 ngày 29/01/2021 của Cục An ninh mạng và PCTP sử dụng công nghệ
cao – Bộ Công an về việc phối hợp trao đổi thông tin, tài liệu phục vụ công tác
điều tra, bút lục 846.
Tóm tắt
công văn số 536/A05-P6: Cục An
ninh mạng và PCTP sử dụng công nghệ cao – Bộ Công an trao đổi kết quả như sau:
Các quốc gia trên thế giới có nhiều quy định khác nhau về tiền ảo, chưa có sự
thống nhất. Hiện tại, chưa có cơ quan,
đơn vị, tổ chức quốc tế nào có chức năng, thẩm quyền định giá, quy đổi các loại
tiền ảo (bao gồm bitcoin và các loại tiền kỹ thuật số khác). Việc định giá, quy
đổi các loại tiền ảo phụ thuộc vào thỏa thuận giữa các cá nhân, tổ chức thực
hiện giao dịch. Tại Việt Nam chưa có hành lang pháp lý quy định giá các loại
tiền ảo.
Định giá
tài sản:
- Yêu cầu định
giá tài sản số 201/YC – CSHS-P6 ngày 19/4/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều
tra – Bộ Công an, bút lục 3472.
Tóm tắt yêu
cầu định giá tài sản số 201/YC-CSHS-P6: yêu cầu định giá số tiền mã hóa (tiền ảo) bao gồm: 105.639.624 TRX;
0,15 BTC; 19.333.059 BTT.
- Công văn số
2785/HĐĐGTS-QLG ngày 09/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố
tụng hình sự cấp thành phố về yêu cầu
định giá tài sản số 201/YC – CSHS-P6 ngày 19/4/2022, bút lục 3473.
Tóm tắt
công văn số 2785/HĐĐGTS-QLG:
Các đồng tiền mã hóa/ tiền ảo là một dạng tiền kỹ thuật
số, không được phát hành bởi chính phủ hay một tổ chức tài chính, mà được tạo
ra và vận hành dựa trên hệ thống các máy tính kết nối mạng internet ngang hàng.
Hội đồng
định giá cấp thành phố từ chối thành lập Hội đồng định giá đối với yêu cầu định
giá tài sản số 201/YC – CSHS-P6 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Bộ Công an do
yêu cầu định giá là các đồng tiền mã hóa/ tiền ảo không phải là tài sản.
Như vậy, vì đồng tiền ảo không phải là tài
sản, KHÔNG QUY ĐỔI ĐƯỢC nên không thể tiến hành định giá được. Do đó, không có
căn cứ để xác định số tiền bị chiếm đoạt là từ 500.000.000 đồng trở lên theo
quy định tại Khoản 4 Điều 170 Bộ luật Hình sự để truy tố các bị cáo khoản 4 là
không có căn cứ. Căn cứ nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo thì nếu xử lý các
bị cáo thì chỉ có thể xử lý theo khoản 2, điều 170 BLHS với định khung có tổ
chức, không thể căn cứ khoản 4 vì không thể định lượng được, không định giá
được nên không có căn cứ truy tố các bị cáo vào khoản 4.
Thứ ba:
Không đủ căn cứ xác định hành vi mua bán, chuyển Bitcoin qua Sàn Binance, cụ
thể không có chứng cứ Tài chuyển 33 bitcoin qua sàn này cho Hoàng.
Cơ quan cảnh sát điều tra đã gửi
công văn sang quần đảo Cayman để xác định về tính pháp lý cũng như các tài liệu
chứng cứ liên quan đến Sàn Binance nhưng không nhận được bất kỳ văn bản, công
văn phúc đáp nào. Do đó, không đủ căn cứ để có thể xác định hành vi mua bán
Bitcoin qua Sàn Binance. Cụ thể:
- Công văn số
4344/CSHS-P6 ngày 10/11/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra-Bộ Công an về đề
nghị hỗ trợ phối hợp điều tra vụ án, bút lục 845.
Tóm tắt
công văn số 4344/CSHS-P6: Cơ quan
Cảnh sát điều tra – Bộ Công an đề nghị Cục An ninh mạng và phòng, chống tội
phạm sử dụng công nghệ cao (A05) hỗ trợ, phối hợp điều tra vụ án như sau: Các
đồng tiền ảo như: TRX (Tron), BTT (Bittorent), BTC (Bitcoin), ETH (Ethereum)
được định giá như thế nào. Cơ quan, đơn vị, tổ chức quốc tế nào có chức năng,
thẩm quyền định giá, quy đổi các loại tiền này. Tỷ giá quy đổi đồng đô la Mỹ
(USD) như thế nào vào lúc 13h ngày 17/5/2020. Cơ quan, tổ chức quốc tế nào là
đơn vị chủ quản sàn Binance.com, có trụ sở ở quốc gia nào. Trên sàn Binance.com
còn tồn tại ví điện tử có địa chỉ TVHk4mdQ9UbtKoR163JgAưKbHDu4kvPtnP hay không.
Nếu còn tồn tại thì việc xác định lịch sử giao dịch, thông tin giao dịch của ví
điện tử địa chỉ nêu trên được thực hiện như thế nào. Có việc ví điện tử đó đã
bị xóa hoặc bị vô hiệu hóa tạm thời thì có phục hồi được không.
Sàn Binance.com thuộc tập đoàn Binance có trụ sở chính
tại: Govermors Square #3-21223 Lime Tree Bay GEORGE TOWN, GRAND CAYMAN,
KY1-1203, quần đảo Cayman.
- Yêu cầu tương
trợ tư pháp về hình sự số 1745/UTTPHS-P6 ngày 15/4/2021 của Cơ quan Cảnh
sát điều tra Bộ Công an về việc yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự, bút lục
824, ủy thác cho Cơ quan có thẩm quyền tương trợ tư pháp hình sự của Quần đảo
Cayman thuộc Vương quốc Anh thu thập tài liệu chứng cứ về tài khoản mở trên sàn
Binance.com (được đăng ký qua địa chỉ email: hongoctai1989@gmail.com; mật khẩu: HoDuongBaoChau2014).
- Bản kết luận
điều tra vụ án hình sự đề nghị truy tố (bổ sung) số 41/CSHS-P6 ngày
20/9/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an, bút lục 3198.
(Đối với yêu cầu làm rõ bị can Hồ Ngọc Tài sau khi gây
án đã xóa hay chỉ tạm khóa tài khoản của Tài mở trên sàn Binance. Tài khoản này
có thể phục hồi được không để đăng nhập, trích xuất dữ liệu và xác định số tiền
ảo còn trong tài khoản.
=> Tài khoản của Hồ Ngọc Tài trên sàn Binance đã
ngưng hoạt động từ ngày 15/6/2020. Để có căn cứ xác định tài khoản này đã bị
xóa hay tạm khóa, ngày 15/4/2021, Cơ quan CSĐT Bộ Công an có Yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự số
1745/UTTPHS-P6/C02, ủy thác cho Cơ quan có thẩm quyền tương trợ tư pháp
hình sự của Quần đảo Cayman thuộc Vương quốc Anh xác minh tài khoản của Hồ Ngọc
Tài trên sàn Binance (được đăng ký qua địa chỉ email: hongoctai1989dn@gmail.com; mật khẩu: HoDuongBaoChau2014) đã bị xóa hay đang tạm khóa, đề nghị hỗ
trợ phục hồi lại tài khoản (nếu tài khoản bị xóa) hoặc mở khóa kích hoạt lại
tài khoản (nếu tài khoản bị khóa) để thu thập lịch sử giao dịch, xác định số
tiền ảo còn lại trong tài khoản. Đến nay, Cơ quan CSĐT Bộ Công an chưa nhận
được kết quả trả lời từ phía Cơ quan có thẩm quyền tương trợ tư pháp hình sự
của Quần đảo Cayman thuộc Vương quốc Anh).
Do vậy không có căn cứ Tài chuyển cho Hoàng 33
bitcoin, đây chỉ dựa vào lời khai của Tài, không có chứng cứ vật chất xem xét….Nếu
sau này Quần đảo CayMan trả lời không có việc Tài khoản chuyển chuyển 33
bitcoin cho Hoàng thì liệu việc buộc Hoàng nhận 33 bitcoin từ TÀI có căn cứ
không cơ quan tố tụng cần làm rõ.
- (Tại đơn xin khiếu nại, bút lục 3112), Hoàng trình
bày Tài không chuyển 33 bitcoin cho
Hoàng. 26,8 bitcoin Hoàng bán cho Tấn
hoàn toàn không phải là bitcoin của Tài cho Hoàng.
Hoàng trình bày Tài có chuyển tiền vào tài khoản của
Hoàng 02 lần, mỗi lần 100 triệu là để tặng cho Hoàng, không phải là để cho
Thông, Phúc và Cường. Hoàng chuyển khoản trả nợ cho Cường vì Hoàng có mắc nợ
Cường. Tài có tặng Thông 50 triệu là Tài đưa tiền mặt cho Hoàng để Hoàng đưa
cho Thông, Tài không cho tiền Phúc.
- (Tại biên bản hỏi cung bị can ngày 10/5/2022, bút
lục 3538), Hoàng khai Hoàng chỉ nhận được từ Tài là 300 triệu đồng và 25.000
Torque.
- (Tại biên bản ghi lời khai ngày
19/6/2020, bút lục 1538), Hoàng khai Tài nói với mọi người là chỉ lấy được có 100 bitcoin, so với dự định lấy
1000 bitcoin thì chỉ lấy được 1/10. Tài chia cho Hoàng 300 triệu đồng và Tài
cho Hoàng một tài khoản Torque có 25.000 torque điện tử để hàng tháng lấy lãi.
Như
vậy theo lời khai của Hoàng thì Hoàng nhờ Tấn bán 26,8 bitcoin, trong điện
thoại Hoàng khi cơ quan chức năng thu giữ chỉ có 0,2 bitcoin. Như vậy, tổng số
bitcoin Hoàng có chỉ 27 bitcoin, trong khi Tài khai chuyển cho Hoàng 33 bitcoin
nhưng Tài không chứng minh được đã chuyển cho Hoàng 33 Bitcoin, Tài khai đã mất
tài khoản trên sàn binance.com nên không chứng minh được. Cơ quan tố tụng cũng
không có chứng cứ chứng minh Tài chuyển cho Hoàng 33 bitcoin mà chỉ dựa lời
khai Tài nên việc kết luận Tài chia cho Hoàng 33 bitcoin là không có căn cứ.
Lời khai phải phù hợp với các chứng cứ khác nhưng đây chỉ là lời khai 1 phía
Tài, không có chứng cứ vật chất khác.
Hơn nữa, Hoàng thừa nhận Tài có cho
Hoàng 25.000 torque nên việc Hoàng thừa nhận Tài cho Hoàng 300 triệu và 25.000
Torque là có căn cứ chứ không có việc Tài chuyển Hoàng 33 bitcoin.
Hơn nữa theo lời khai Hoàng, Hoàng có
nhờ Tấn mua bán bitcoin nhiều lần trước đó, trước cả ngày xảy ra vụ án, có sao
kê tài khoản ngân hàng. Lúc Tấn chuyển khoản cho Hoàng, lúc Hoàng chuyển cho
Tấn rất nhiều.
Tại phiên tòa sơ thẩm Tài khai không
có chứng cứ chuyển 33 bitcon cho Tài.
Điều bất ngờ là tại Tòa VSK thay đổi
cáo trạng, cụ thể VKS cho rằng Tài chuyển Hoàng 33 bitcon theo cáo trạng nhưng
tại tòa VKS lại cho rằng Tài chuyển Hoàng 27 bitcon nhưng không trả hồ sơ điều
tra bổ sung là không đúng pháp luật, không có căn cứ. Vì cũng không có căn cứ
Tài chuyển Hoàng 27 bitcoin nên việc thay đổi là không có căn cứ.
Thứ tư: Vụ án phải định giá nhưng lại không định giá
được
“Điều 215. Yêu cầu định giá tài sản
1. Khi cần xác định giá của
tài sản để giải quyết vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra
văn bản yêu cầu định giá tài sản.
2. Văn bản yêu cầu định giá
tài sản có các nội dung:
a) Tên cơ quan yêu cầu định
giá; họ tên người có thẩm quyền yêu cầu định giá;
b) Tên Hội đồng định giá tài
sản được yêu cầu;
c) Thông tin và đặc điểm của
tài sản cần định giá;
d) Tên tài liệu có liên quan
(nếu có);
đ) Nội dung yêu cầu định giá
tài sản;
e) Ngày, tháng, năm yêu cầu
định giá tài sản, thời hạn trả kết luận định giá tài sản.
3. Trong thời hạn 24 giờ kể
từ khi ra văn bản yêu cầu định giá tài sản, cơ quan yêu cầu định giá phải giao
hoặc gửi văn bản yêu cầu định giá tài sản, hồ sơ, đối tượng yêu cầu định giá
tài sản cho Hội đồng định giá tài sản được yêu cầu; gửi văn bản yêu cầu định
giá tài sản cho Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra…………….”
Căn cứ quy định trên trong tội cướp tài sản phải định giá nhưng
bản án sơ thẩm không cho định giá là không đúng pháp luật, không bảo đảm quyền
lợi cho bị cáo. Thực tế là các cơ quan tố tụng trong hình sự từ chối định giá.
Việc tòa án sơ thẩm cho rằng các bị cáo quy đổi tiền ảo ra tiền bitcoin, ra
đồng tiền USDT sau đó quy ra tiền VNĐ để xét xử các bị cáo là không đúng pháp
luật như đã phân tích về tiền ảo.
Không thể cho rằng bitcoin không phải tài sản nhưng các bị cáo quy
đổi tiền ảo ra tiền bitcoin, quy ra tiền USDT, rồi đổi thành tiền VNĐ nên cho
là các bị cáo cướp tài sản là không đúng. Vì pháp luật không cho phép quy đổi
Bitcoin
Thứ năm: Về việc kê biên tài sản:
- (Tại biên bản ghi lời khai ngày 01/12/2020, bút lục
2793, 2794), thể hiện Trương Ngọc Lệ khai Lệ và Hoàng có mua lô đất số B2.33,
lô 42 khu E2 Hòa Xuân, diện tích 103m2 đất dự án đã có sổ đứng tên
vợ chồng Lệ và Hoàng tại khu Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, Đà Nẵng với giá lúc mua là
2.520.000.000 đồng. Số tiền mua lô đất trên là từ Hoàng. Lệ có hỏi Hoàng tiền
đâu mà có như vậy thì Hoàng nói có được số tiền này là do làm ăn chung về
bitcoin với Tài và bán số bitcoin có được để lấy tiền mua đất. Sau khi cướp
tiền ảo từ Nguyên, Hoàng đã nhờ Tấn bán 26,8 bitcoin được số tiền là
5.647.405.500 đồng, Hoàng đã sử dụng số tiền trên để mua lô đất khu Hòa Xuân
như Lệ đã khai ở trên và dùng để trả nợ cho khoản vay của Hoàng khi thế chấp
nhà số 122/29 Trưng Nữ Vương, số tiền còn lại Hoàng rút ra sử dụng vào việc gì
thì Lệ không rõ.
Tuy nhiên trước khi ký tên vào biên bản bà Lệ trình
bày bà không biết Hoàng bán bitcoin hùn tiền mua đất với bà Lệ và không biết
Hoàng chơi bitcoin, chỉ biết Hoàng có làm ăn với Tài. Cho thấy
bản khai không khách quan, chưa bảo đảm đúng ý chỉ bà Lệ nên cuối bản khai bà
Lệ mới viết như vậy. Đề nghị không được quyền kê biên, phát mãi phần ½ tài sản
của bà Lệ trong quyền sử dụng đất trên vì đây là tài sản chung của vợ chồng.
Bà Lệ đã nộp các giấy vay tiền để mua thửa đất trên,
bên cho vay đã kiện bà Lệ ra tòa, kèm theo các giấy thụ lý của tòa án, quyết
định số 53/2023/QĐST ngày 31/7/2023 của TAND Quận hải Châu buộc bà Lệ phải trả
số tiền gốc 900 triệu gốc và lãi 100 triệu theo giấy vay tiền để mua lô đất
ngày 27/5/2020 (đã nộp tòa sơ thẩm),theo giấy vay tiền ngày 27/5/2020 bà Lệ mua
lô đất số B2.33, lô 42 khu E2 Hòa Xuân, diện tích 103m2 đất dự án đã
có sổ đứng tên vợ chồng Lệ và Hoàng tại khu Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, Đà Nẵng, nội
dung trong hợp đồng vay tiền có ghi rõ “giấy CNQSDĐ số BO 609262, thửa đất số
42, tờ bản đồ số: B2.33, lô 42 khu E2 KDC Nam Cầu, Cẩm lệ…”, Nội dung vay ghi
rõ mục đích vay là “để mua lô đất trên….”
để chứng minh cho yêu cầu của
mình là đúng pháp luật, cơ quan tố tụng kê biên toàn bộ đất bao gồm phần của bà
Lệ vay để chung với Hoàng mua lô đất là không đúng pháp luật, xâm phạm tới
quyền lợi bà Lệ.
Thứ sáu:
Về tình tiết giảm nhẹ.
Cáo
trạng cho rằng Hoàng không thành khẩn là không đúng, điều 60 BLTTHS quy định
không bắt buộc bị can khai chống mình, không bắt bị can nhận tội, bị can Hoàng
vẫn thừa nhận hành vi là có sai, thành khẩn nên cho Hoàng không thành khẩn,
không ăn năn để không cho hưởng tình tiết giảm nhẹ là không đúng, còn việc
chứng minh 300triệu, bitcoin…là việc của cơ quan tố tụng. Ngoài ra, Hoàng có
nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, lao động chính trong gia đình, có 3
con còn rất nhỏ, cha bệnh, cũng là những tình tiết cần xem xét khi lượng hình
chi bị cáo. Cáo trạng, kết luận điều tra kết
luận Hoàng với vai trò lôi kéo, chỉ huy, chỉ đạo đức lôi kéo Chung, Thành,
Thanh, Hùng là không có căn cứ, cho là bị cáo bỏ kẹo thuốc độc vào miệng
Nguyên, dí sung bắn, kim tiêm HIV là hoàn toàn không có căn cứ vì súng không có
vân tay Hoàng qua kết luận giám đình, Hoàng lái xe nên không thực hiện bỏ kẹo
vào miệng Nguyên, không thể dí súng vào Nguyên, không thể dí kim tiêm vào
Nguyên, vì Hoàng qua xe Lexus sau Tài, lái xe Lexus, bị cáo không thể làm thao
tác bắt buộc Hoàng chuyển tiền. Hoàng thừa nhận hành vi cướp là sai nhưng không
thừa nhận Tài chuyển 33 Bitcoin, nên không thể nói Hoàng không ăn năn hối cải
để không cho Hoàng hưởng tình tiết giảm nhẹ là không đúng. Bị cáo cũng muốn bán
25.000 Torque để khắc phục nhưng bị cáo bị giam, điện thoại bị giữ nên không
bán được, bị cáo đồng ý bán ½ là quyền sử dụng đất phần của mình trong tài sản
chung với bà Lệ thửa đất số B2.33 tại ĐN để khắc phục. Quyền sử dụng đất này
hiện này vẫn còn chưa bán nên thiệt hại vẫn còn khắc phục được.
Bản
án nhận định Hoàng hưởng tình tiết giảm nhẹ nhưng lại ghi “ở mức độ hạn chế”
trong luật hiện hành, bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự không có bất kỳ
quy định nào, khái niệm nào là “hưởng tình tiết giảm nhẹ ở mức độ hạn chế”
Theo
quy định tại điểm d, Khoản 2 Điều 60 quy định quyền Bị can, bị cáo có
quyền “Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai
chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;”
Nên
việc bị cáo khai sự thật như trên nên tòa sơ thẩm nhận định và cho bị cáo Hoàng
hưởng tình tiết giám nhẹ ở mức hạn chế là không đúng pháp luật.
Vai trò của Hoàng không phải người khởi
xướng, không phải cầm đầu nhưng lại xử chung thân là oan về định khung, oan về
mức án cho bị cáo.
Thứ bảy: Thu thập chứng cứ chưa hợp
pháp.
việc Copy các mã ký tự giao dịch mua bán
bitcoin của Hoàng dán lên trang Blockchain để truy ra lịch sử mua bán bitcoin
của Hoàng mà không được dịch thuật, hợp pháp hóa lãnh sự là việc thu thập chứng
cứ không đúng pháp luật theo bộ luật tố tụng hình sự nên không được xem xét
chứng cứ này để giải quyết vụ án.
Thứ tám: Ý thức chủ quan các bị cáo
là cướp bitcoin, không có ý thức cướp tiền vnđ.
Trong ý thức chủ quan của Hoàng và Tài và
1 số bị cáo nói chung không có ý thức cướp tiền vnđ, không có ý thức cướp tiền
ảo để quy đổi ra VNĐ mà chỉ có ý thức đi lấy lại khoản tiền ảo đã bị Nguyên
chiếm nên trong ý thức chủ quan không thỏa mãn cấu thành tội cướp tài sản, vì
các bị cáo ý thức cướp tiền ảo, không ý thức chủ quan cướp tiền VNĐ, mà bitcon
thì không phải là tài sản.
Thứ
chín: Việc buộc các bị cáo nộp tiền
khắc phục bằng tiền vnđ do hành vi cướp bitcon, rồi cơ quan tố tụng trả số tiền
này cho bị hại là không đúng pháp luật. Bitcoin chưa phải tiền, pháp luật vn
không công nhận là tài sản nên phải sung công quỹ, việc trả cho bị hại khi chưa
xét xử là vi phạm tố tụng nghiêm trọng, vi phạm pháp luật.
Thứ
10:
Mặc dù Bitcoin theo quy định là không
được quy đổi, không được định giá. Nhưng bản án sơ thẩm số:223/2023/HSST tại
trang 30 bản án sơ thẩm lại nhận định, kết luận mâu thuẫn, cụ thể “Hội đồng xét xử xét thấy: Pháp luật Việt Nam đến nay
chưa chấp nhận Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác là tiền tệ cũng như là
phương tiện thanh toán hợp pháp tại Việt Nam nên việc yêu cầu phải định giá đối
với BTC, TRX, BTT là không có cơ sở. Mặt
khác, kết luận định giá tài sản không phải là căn cứ duy nhất để kết tội, khi
có căn cứ xác định giá trị tài sản
chiếm đoạt và căn cứ này phù hợp với các chứng cứ khác trong vụ án thì vẫn xử
lý đối với các bị cáo theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, tội “Cướp tài sản”
là tội có cấu thành hình thức, mục đích
của các bị cáo trong vụ án này là chiếm đoạt tiền đồng thông qua việc chiếm giữ
Bitcoin (tiền điện tử, tiền ảo). Ngay từ đầu bị cáo Tài và đồng phạm mong
muốn chiếm đoạt khoảng 200.000.000.000 đồng của anh Lê Đức Nguyên bằng việc
khống chế, ép buộc anh Nguyên, người thân của anh Nguyên phải chuyển 1.000
Bitcoin. Thực tế các bị cáo đã khống chế, chuyển thành công 168 Bitcoin, rồi
quy đổi 86,91 Bitcoin được 18.880.000.000 đồng và đã chiếm đoạt 03 điện thoại
di động, 01 camera hành trình trị giá 45.115.000 đồng. Do đó, hành vi của các
bị cáo đã phạm tội “Cướp tài sản” theo điểm a khoản 4 điều 168 Bộ luật Hình sự,
nên không có căn cứ để chấp nhận các quan điểm bào chữa nêu trên của các luật
sư.
Pháp luật quy định cấm quy đổi, tòa án
thừa nhận nhưng chính tòa án đã quy đổi số tiền từ bitcoin ra tiền ảo, quy đổi
ra tiền USDT để quy ra tiền vnđ là không đúng, mâu thuẫn với chính nhận định
tòa án. Tòa án cho rằng không cần định giá nhưng lại nhận định có căn cứ xác
định giá trị tài sản là mâu thuẫn. Bởi vụ án này cho đến lúc này chưa có chứng
cứ hợp pháp nào chứng minh cho việc xác định giá trị tài sản số bitcoin các bị
cáo cướp quy ra vnđ.
Nhận định của tòa án tội cướp cấu thành
hình thức để đánh đồng cướp bitcoin là cướp tài sản là không đúng pháp luật.
Nếu cho rằng tội cướp tài sản cấu thành hình thức để lập luận cướp bất kỳ cái gì
cũng là cướp tài sản thì điều luật 168 không cần có từ “tài sản” mà chỉ cần có
tội “cướp”, đây rõ ràng điều luật ghi rõ “tội cướp tài sản” tức có 2 về đó là “cướp”
và cướp phải là “tài sản” mới cấu thành tội phạm, nếu như lập luận tòa sơ thẩm
thì cướp trăng, cướp không khí, cướp mây cũng là cướp tài sản là không đúng
pháp luật, không đúng với khoa học pháp lý của thế giới cũng như của VN, đây là
tiền lệ xấu cho tư pháp.
Từ tất cả các luận cứ trên cho thấy tiền
ảo không phải tài sản, không cho phép quy đổi, không định giá được nên không
thỏa mãn cấu thành tội cướp tài sản, không thể lập luận cướp bitcoin không nhất
thiết định giá, cướp cấu thành hình thức để kết tội các bị cáo là không đúng, không đủ căn cứ để kết luận bị cáo Trần Ngọc
Hoàng phạm tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm a Khoản 4 Điều 168 Bộ luật
Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 với tình tiết “Chiếm đoạt tài sản trị giá
500.000.000 đồng trở lên” là không có cơ sở, trái với quy định pháp luật, chưa
định đúng tội danh và định khung hình phạt chưa đúng pháp luật.
Trên đây là quan điểm của tôi.
Kính mong HĐXX xem xét chấp nhận.
Trân trọng.
LS TRẦN MINH HÙNG
TRƯỞNG VPLS GIA ĐÌNH
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.
Luật sư Trần Minh Hùng là một trong những luật sư sáng lập văn phòng luật, giàu kinh nghiệm về kiến thức và thực tiễn đã dành nhiều thắng lợi vụ kiện và quan trọng luật sư Hùng luôn coi trọng chữ Tâm của nghề luật sư và trách nhiệm đối với xã hội nên đã được nhiều hãng báo chí, truyền thông, Đài truyền hình, Đài tiếng nói Việt nam phỏng vấn nhiều lĩnh vực quan trọng liên quan đến đời sống. Luật sư Trần Minh Hùng được nhiều hãng truyền thông, báo chí trong nước tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn trên VOV Giao Thông – Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài truyền hình TP.HCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Truyền hình SCTV, THĐN, Truyền hình Quốc Hội VN, Truyền hình Công an ANTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Đài phát thanh kiên giang, Đài Bình Dương... và các hãng báo chí trên cả nước, được các tổ chức, trường Đại học Luật TP.HCM mời làm giám khảo các cuộc thi Phiên tòa giả định với Đại học cảnh sát, mời làm chuyên gia ý kiến về các sự kiện……là đối tác tư vấn luật của các hãng truyền thông này và luôn mang lại niềm tin cho khách hàng và ghi nhận sự đóng góp của chúng tôi cho xã hội...là luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như Viettinbank, các vụ Giết Người do mâu thuẫn hát karaoke tại Bình Chánh, Bào chữa chủ tịch Huyện Đông Hòa, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành- Dầu Dây, Bào chữa bị cáo Huân không đeo khẩu trang mùa Covit, Vụ Nữ sinh Tân Bình bị cắt tai, bảo vệ cho MC Trấn Thành, Bào chữa, bảo vệ vụ "Bác sĩ khoa rút ống thở", Bảo vệ cho người cho thuê nhà vụ Công ty Thế giới Di Động không trả tiền thuê nhà mùa dịch covid, Tư vấn cho nghệ sĩ Thương Tín, bảo vệ vụ đổ xăng đốt 10 người tại TPHCM, các vụ Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, cưỡng đoạt, cướp, gây thương tích, tham ô, mua bán ma túy, cố ý làm trái, bào chữa vụ án cựu Cảnh sát Buôn Lậu và các bị cáo kiên quan, bào chữa vụ khai thác cát Cần giờ- Tiền Giang, bào chữa vụ chiếm đoạt tiền công nghệ của nước Úc của bị can về công nghệ, bào chữa vụ Mua bán khẩu trang mùa covid, bào chữa nhiều vụ án ma túy, bào chữa vụ lợi dụng chức vụ quyền hạn của tổ chức tín dụng... .… và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi..…là hãng luật tư vấn luật cho nhiều công ty Việt Nam và nước ngoài trên cả nước luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
64 Võ Thị Sáu, Tân Định, quận 1, TPHCM
Điện thoại: 028-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
|