TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA KAR, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 36/2023/DS-ST NGÀY 05/07/2023 VỀ KIỆN ĐÒI GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 05 tháng 7 năm 2023, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Ea Kar xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 296/2022/TLST-DS ngày 09 tháng 11 năm 2022 về “Kiện đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2023/QĐXX-DS ngày 09 tháng 5 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 27/2023/QĐST-DS ngày 09 tháng 6 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Phan Đình B.
Nơi cư trú: Thôn X, xã Y, huyện H, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
- Bị đơn: Bà Doãn Thị S.
Nơi cư trú: Thôn X, xã Y, huyện H, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.
- Người có quyền lợi nghiã vụ liên quan: + Bà Nguyễn Thị T.
Nơi cư trú: Thôn X, xã Y, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
Người đại diện ủy quyền của bà Thao: Ông Phan Đình B; có mặt. (Văn bản ủy quyền ngày 16/02/2023).
+ Bà Phan Thị Y.
Nơi cư trú: Buôn E, xã C, huyện H, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt. (có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Phan Đình B trình bày:
Năm 2015, ông B đi làm ăn xa, sợ bị thất lạc nên vợ ông B (bà Nguyễn Thị T) có gửi cho em gái của ông B là bà Phan Thị Y giữ hộ 01 (một) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 560936, đối với thửa đất số 84, tờ bản đồ số 01 diện tích 8.964m2, tại thôn 13, xã Ea Ô, huyện Ea Kar, do Ủy ban nhân dân huyện Ea Kar cấp ngày 07/12/2007 mang tên ông Phan Đình B, bà Nguyễn Thị T.
Năm 2016, bà Y có vay của bà Doãn Thị S số tiền 200.000.000 đồng, đồng thời tự ý đưa cho bà S Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 560936 tạm giữ để làm tin mà không được sự đồng ý của ông B, bà T. Đến năm 2019, có việc cần đến giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên ông B, bà T đến nhà bà Y lấy lại, thì lúc này bà Y mới nói có vay tiền của bà S và đã đưa giấy chứng quyền sử đất cho bà S tạm giữ. Ông B, bà T cùng với bà Y đã nhiều lần đến nhà bà S yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sử đất nhưng bà S chỉ hứa nhưng không chịu trả.
Nay ông B khởi kiện yêu cầu bà S phải trả lại cho ông B 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 560936.
- Tại biên bản lấy lời khai ngày 03/3/2023, bị đơn bà Doãn Thị S trình bày:
Vào ngày 01/5/2016, vợ chồng bà Y có vay của bà S số tiền 200.000.000 đồng, thỏa thuận theo lãi suất ngân hàng. Vợ chồng bà Y có thế chấp cho bà S 01 (một) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 560936 cấp ngày 07/12/2007 mang tên ông Phan Đình B. Bà S có hỏi bà Y là ông B có đồng ý thế chấp không, bà Y nói lại rằng ông B có biết và đồng ý cho bà Y cầm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để thế chấp cho bà S. Do tin tưởng nên bà S không có liên hệ với ông B để xác minh lại nội dung bà Y đã nói. Việc thỏa thuận thế chấp quyền sử dụng đất giữa bà Y và bà S chỉ nói miệng, có ghi trong giấy vay, nhưng không lập hợp đồng riêng và không đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định. Sau đó, bà S có gặp ông B nhiều lần nói bà Y trả nợ để lấy lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng ông B không thực hiện.
Bà S không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông B về việc trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 560936 nêu trên. Khi nào bà Y trả nợ cho bà S thì bà Sinh trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông B.
- Tại bản tự khai ngày 23/02/2023 và đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Phan Thị Y trình bày:
Bà Y là em gái của ông B. Trước thời điểm ngày 01/5/2016, bà Y có vay của bà S số tiền 200.000.000 đồng. Vì làm ăn thua lỗ, vỡ nợ nên bà Y không có khả năng trả nợ cho bà S và những người khác. Trong khi đó, bà Y có mượn của ông Phan Đình B 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để vay tiền nhưng chưa vay thì bể nợ nên bà S nói với bà Y có gì cầm không. Do thời điểm đó túng quẫn hoang mang nên bà Y đã đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông B cho bà S và viết giấy nợ. Từ đó đến nay vì khó khăn nên không trả được nợ cho bà S. Hiện nay giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông B là bà S đang giữ.
Nay ông B khởi kiện yêu cầu bà S phải trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bà S phải có nghĩa vụ trả cho ông B. Còn việc bà Y nợ bà S số tiền 200.000.000 đồng thì bà Y sẽ trả cho bà S sau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Kar phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự và ý kiến về việc giải quyết vụ án:
+ Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng và đầy đủ trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn không thực hiện quyền, nghĩa vụ tham gia tố tụng, nên đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
+ Về nội dụng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Đình B. Buộc bà Doãn Thị S phải trả lại cho ông Phan Đình B bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 506936, đối với thửa đất số 84, tờ bản đồ số 1, do Ủy ban nhân dân huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 07/12/2007, đứng tên hộ ông Phan Đình B, bà Nguyễn Thị T.
Về án phí: Bị đơn bà Doãn Thị S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên đây là quan hệ pháp luật tranh chấp về “Kiện đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự và tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Ea Kar theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về tố tụng: Bị đơn, bà Doãn Thị S mặc dù đã được Tòa án triệu tập nhiều lần tham gia tố tụng giải quyết vụ án, nhưng bà S vắng mặt không có lý do. Vì vậy, căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng bị đơn.
[3] Về yêu cầu của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy: Ông B, bà T là chủ sử dụng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 560936, đối với thửa đất số 84, tờ bản đồ số 01 diện tích 8.964,0m2, tại thôn 13, xã Ea Ô, huyện Ea Kar, do Ủy ban nhân dân huyện Ea Kar cấp ngày 07/12/2007, đứng tên hộ ông Phan Đình B, bà Nguyễn Thị T. Năm 2015, bà T gửi cho bà Y giữ hộ. Năm 2016, bà Y vay bà S số tiền 200.000.000 đồng, đồng thời tự ý đưa cho bà Sinh giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên để làm tin. Việc này ông B, bà T không biết và không được sự đồng ý của ông B, bà T.
Bà S cũng hoàn toàn thừa nhận hiện nay đang giữ 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 560936 của ông B, bà T. Lý do là bà Y vay bà S số tiền 200.000.000 đồng và thế chấp cho bà S giấy chứng nhận trên; bà Y nói với bà S là ông B đồng ý. Bà S cũng thừa nhận “Do tin tưởng nên tôi không liên hệ với ông B để xác minh lại nội dung bà Y đã nói. Việc thỏa thuận thế chấp quyền sử dụng đất giữa tôi và bà Y chỉ nói miệng, có ghi trong giấy vay, nhưng không lập hợp đồng riêng và không đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định”. Vì vậy, việc bà S giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông B, bà T là trái pháp luật.
Bà S cho rằng do bà Y thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông B, bà T để vay số tiền 200.000.000 đồng, nên chỉ đồng ý trả lại cho ông B, bà T khi nào bà Y trả nợ cho bà S. Ý kiến này của bà S là không phù hợp và không có căn cứ để chấp nhận. Bởi lẽ, việc vay mượn tiền là giao dịch giữa bà Y và bà S, không liên quan đến ông B, bà T, nên bà S có quyền khởi kiện yêu cầu bà Y thực hiện nghĩa vụ trả nợ bằng một vụ án khác. Còn việc bà Y giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông B, bà T cho bà S giữ nhưng ông B, bà T không biết và cũng không được sự đồng ý của ông B, bà T; đồng thời không lập hợp đồng thế chấp và đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định, nên đây là giao dịch trái pháp luật. Do đó, việc bà S giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông B, bà T là trái pháp luật, cản trở việc thực hiện quyền của người sử dụng đất của ông B, bà T.
Từ những xem xét, đánh giá và nhận định trên, xét thấy yêu cầu của ông B là có căn cứ, phù hợp với Điều 3, Điều 117, Điều 279 và Điều 356 Bộ luật dân sự; khoản 16 Điều 3 Luật đất đai, nên cần chấp nhận. Buộc bà Doãn Thị S phải trả lại cho ông Phan Đình B bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 506936.
[3] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn bà Doãn Thị S phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Vì những lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147, điểm b, khoản 2 Điều 227; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Áp dụng Điều 3, Điều 117, Điều 279 và Điều 356 Bộ luật dân sự - Áp dụng khoản 16 Điều 3 Luật đất đai;
- Áp dụng Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban tường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.
Tuyên xử:
[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Đình B. Buộc bà Doãn Thị S phải trả lại cho ông Phan Đình B bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 506936, đối với thửa đất số 84, tờ bản đồ số 01 diện tích 8.964,0m2, tại thôn 13, xã Ea Ô, huyện Ea Kar, do Ủy ban nhân dân huyện Ea Kar cấp ngày 07/12/2007, đứng tên hộ ông Phan Đình B, bà Nguyễn Thị T.
[2] Về án phí: Bị đơn bà Doãn Thị S phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
[3] Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo luật định.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện....

HÌNH ẢNH LS
TRẦN MINH HÙNG - LS GIỎI VÀ GIÀU KINH NGHIỆM BÀO CHỮA NHIỀU VỤ ÁN LỚN NÊN ĐƯỢC
NHIỀU ĐÀI TRUYỀN HÌNH QUỐC GIA NHƯ HTV, VTV,VOV,VOH, TRUYỀN HÌNH CÔNG AN ANTV,
TRUYỀN HÌNH QUỐC HỘI VIỆT NAM, QUỐC PHÒNG, TÂY NINH, CẦN THƠ, BÌNH DƯƠNG, TRUYỀN
HÌNH VĨNH LONG, TƯ VẤN LUẬT TRÊN BÁO CHÍ CHÍNH THỐNG, NHIỀU TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỜI
PHỎNG VẤN, CHIA SẼ KINH NGHIỆM, TRAO ĐỔI PHÁP LÝ, GÓP Ý KIẾN PHÁP LÝ CHO NGƯỜI
DÂN, SINH VIÊN, CHO CÁC CHUYÊN GIA.
Chúng tôi là hãng luật
tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác
viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu
biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức
trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật
sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý
cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan
sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất
kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để
làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề
nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ
nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất
khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho
thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm
góp phần đem lại công bằng cho xã hội.
Luật sư Trần Minh Hùng là một trong những luật sư sáng lập văn
phòng luật, giàu kinh nghiệm về kiến thức và thực tiễn đã dành nhiều thắng lợi
vụ kiện và quan trọng luật sư Hùng luôn coi trọng chữ Tâm của nghề luật sư và
trách nhiệm đối với xã hội nên đã được nhiều hãng báo chí, truyền thông, Đài
truyền hình, Đài tiếng nói Việt nam phỏng vấn pháp luật, nhiều lĩnh vực quan trọng liên quan đến đời
sống. Luật sư Trần Minh Hùng là đối tác tư vấn pháp luật được nhiều hãng
truyền thông, báo chí trong nước tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm
trong lĩnh vực tư vấn trên VOV Giao Thông – Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền
hình cáp VTC, Đài truyền hình TP.HCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Truyền hình SCTV,
THĐN, Truyền hình Quốc Hội VN, Truyền hình Công an ANTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Đài phát thanh kiên
giang, Đài Bình Dương... và các hãng báo chí trên cả nước, được các tổ chức, trường Đại học Luật TP.HCM mời
làm giám khảo các cuộc thi Phiên tòa giả định với Đại học cảnh sát, mời làm
chuyên gia ý kiến về các sự kiện……là đối tác tư vấn luật của các hãng truyền thông này và luôn mang
lại niềm tin cho khách hàng và ghi nhận sự đóng góp của chúng tôi cho xã
hội...là luật sư bào
chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng báo chí đưa tin, người dân
quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như Viettinbank, các vụ Giết
Người do mâu thuẫn hát karaoke tại Bình Chánh, Bào chữa chủ tịch Huyện Đông
Hòa, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành- Dầu Dây, Bào chữa bị cáo Huân không đeo khẩu
trang mùa Covit, Vụ Nữ sinh Tân Bình bị cắt tai, bảo vệ cho MC Trấn Thành, Bào
chữa, bảo vệ vụ "Bác sĩ khoa rút ống thở", Bảo vệ cho người cho thuê
nhà vụ Công ty Thế giới Di Động không trả tiền thuê nhà mùa dịch covid, Tư vấn
cho nghệ sĩ Thương Tín, bảo vệ vụ đổ xăng đốt 10 người tại TPHCM, các vụ Hiếp
dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, cưỡng đoạt, cướp, gây thương tích, tham ô, mua bán ma túy,
cố ý làm trái, bào chữa vụ án cựu Cảnh sát Buôn Lậu và các bị cáo kiên quan,
bào chữa vụ khai thác cát Cần giờ- Tiền Giang, bào chữa vụ chiếm đoạt tiền công
nghệ của nước Úc của bị can về công nghệ, bào chữa vụ Mua bán khẩu trang mùa
covid, bào chữa nhiều vụ án ma túy, bào chữa vụ lợi dụng chức vụ quyền hạn của
tổ chức tín dụng... .… và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất
đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách
hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt
mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi..…là hãng luật tư vấn luật cho nhiều công
ty Việt Nam và nước ngoài trên cả nước luôn mang lại niềm tin cho khách
hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt
mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Đối
tác tư vấn pháp luật của các tờ báo uy tín, đài truyền hình uy tín, nhiều khách
hàng, đối tác, doanh nghiệp như: Khoa
Luật đại học Mở TPHCM, Đại học luật TPHCM,
Công ty chế biến trái cây Yasaka (Nhật bản), Công ty Nam Chê (Hàn Quốc),
Công ty Cổ phần thương mại dịch vụ Bến Thành (Cổ phần nhà nước), Công ty TNHH Kỹ
Thuật Năng Lượng, Công ty Vina Buhmwoo (Hàn Quốc), Công ty ECO SYS Kim Trường
Phát (Hàn Quốc), Công ty cổ phần BĐS BiG Land, Công ty TNHH dược phẩm AAA,
Công ty TNHH Hanwa Kakoki Việt Nam (Nhật Bản), Công ty TNHH DV BV Ti Tan, Công
ty CP Chuỗi Nông sản Sài gòn, Công ty CP BĐS Happy Land S, Công ty CP SG Xây dựng
(cổ phần hóa nhà nước), Công ty CP Maduphar, Công ty Thủy sản Đắc Lộc (Phú
Yên), Công ty Thủy Sản Ocean Country, Công ty Blue Bay, Công ty Gallent
country, Công ty Hàn Quốc DEASUNG, Công ty Innoluk, Công ty TNHH FURUSHIMA VIỆT NAM, Công ty Kim Trường Phát (Hàn Quốc), Công ty VEDAN …và nhiều công ty khác.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư
Thành Phố)
Trụ sở: 402A
Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa,
Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải,
Tân Định, quận 1, TPHCM
Điện thoại:
028-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng:
0972 238006 (zalo, facebook, viber)
https://www.youtube.com/@LUATSUTUVANBAOCHUA/about
tiktok: www.tiktok.com/@luatsuminhhung
facebook: Trần Minh Hùng
Email: luatsuthanhpho@gmail.com
http://www.luatsugiadinh.net.vn
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.