Hình thức tồn tại của quyết định tạm ngừng phiên tòa
Khoản 2 Điều 259 BLTTDS năm 2015 quy định: “Việc tạm ngừng phiên tòa phải được ghi vào biên bản phiên tòa”. Tuy nhiên, BLTTDS năm 2015 không quy định rõ ràng việc tạm ngừng phiên tòa có phải lập thành quyết định riêng hay không. Chính vì vậy, thực tế giải quyết cho thấy có Tòa án ban hành quyết định tạm ngừng phiên tòa riêng nhưng cũng có Tòa án không ban hành quyết định tạm ngừng phiên tòa mà chỉ ghi nhận trong biên bản phiên tòa.
Ví dụ 1: Ông H và bà M là vợ chồng hợp pháp và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường B, quận C, thành phố P từ ngày 13/8/1999. Trong thời gian chung sống, ông H và bà M phát sinh nhiều mâu thuẫn và đã sống ly thân từ năm 2012. Ngày 02/10/2019, ông H đề nghị Tòa án nhân dân (TAND) quận B giải quyết được ly hôn với bà M. Tại phiên tòa ngày 28/8/2020, ông H và bà M cùng đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tạm ngừng phiên tòa để họ tự hòa giải về việc ly hôn và nuôi con. Hội đồng xét xử đã chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn và ban hành Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 01/2020/QĐST-HNGĐ ngày 28/8/2020 quyết định tạm ngừng phiên tòa.
Ví dụ 2: Vào ngày 18/8/2018, bà T đi bán vé số bằng xe đạp đang lưu thông trên đường thì bất ngờ bị xe mô tô do A điều khiển đi cùng chiều tông thẳng vào phía sau xe làm bà T ngã bất tỉnh phải đi cấp cứu, tai nạn làm bà T gãy xẹp đốt sống và chấn động não. Theo kết luận giám định của Trung tâm pháp y tỉnh Đ thì tỉ lệ tổn thương cơ thể của bà T tại thời điểm giám định là 30%. Mặc dù, hai bên đã thương lượng nhưng không có kết quả. Nay nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải bồi thường cho bà T chi phí thuốc men chữa trị thương tật số tiền 80 triệu đồng đã có danh sách kèm theo ngày 15/01/2019.
Tại phiên tòa sơ thẩm, HĐXX sơ thẩm tạm ngừng phiên tòa nhưng không ban hành quyết định tạm ngừng phiên tòa. Do đó, khi xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm, HĐXX phúc thẩm nhận định: “Hội đồng xét xử không ban hành quyết định tạm ngừng phiên tòa là vi phạm khoản 2 Điều 259 BLTTDS”.
Ở ví dụ 1, khi tạm ngừng phiên tòa, HĐXX sơ thẩm đã ban hành Quyết định số 01/2020/QĐST-HNGĐ ngày 28/8/2020 quyết định tạm ngừng phiên tòa. Trong khi đó, ở ví dụ 2, HĐXX sơ thẩm khi tạm ngừng phiên tòa sơ thẩm đã không ra một quyết định riêng. Chính vì lẽ đó, Tòa án cấp phúc thẩm mới cho rằng, HĐXX sơ thẩm đã vi phạm khoản 2 Điều 259 BLTTDS năm 2015.
Tuy nhiên, như nêu trên, khoản 2 Điều 259 BLTTDS năm 2015 không quy định cụ thể việc tạm ngừng phiên tòa phải ban hành bằng một quyết định riêng biệt, mà chỉ quy định việc tạm ngừng phiên tòa phải được ghi vào biên bản phiên tòa. Giả sử trong ví dụ 2 HĐXX sơ thẩm đã ghi nhận việc tạm ngừng phiên tòa vào biên bản phiên tòa nhưng không ban hành một quyết định riêng thì cũng không bị coi là vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 259 BLTTDS năm 2015 như HĐXX phúc thẩm đã nhận định. Theo tác giả, cần sửa đổi, bổ sung BLTTDS năm 2015 theo hướng:
Một là, việc tạm ngừng phiên tòa phải được ghi nhận trong bản án bên cạnh ghi trong biên bản phiên tòa. Việc ghi nhận trong bản án sẽ thuận tiện cho việc kháng cáo của đương sự, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát.
Hai là, việc tạm ngừng phiên tòa cũng phải lập thành quyết định riêng. Khi xây dựng quy định về quyết định tạm ngừng phiên tòa có thể tham khảo quy định về quyết định hoãn phiên tòa tại khoản 2 Điều 233 BLTTDS năm 2015. Bởi vì, việc lập thành một quyết định riêng với các nội dung cụ thể sẽ hạn chế được tình trạng không minh bạch trong tạm ngừng phiên tòa làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Ngoài ra, việc ghi nhận bằng một quyết định cụ thể cũng thuận tiện cho việc thông báo đến người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát. Đồng thời, cũng tương thích với quy định về biểu mẫu quyết định tạm ngừng phiên tòa được ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao ban hành một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự.
2. Nghĩa vụ thông báo sau khi có quyết định tạm ngừng phiên tòa
Theo khoản 2 Điều 259 BLTTDS năm 2015 thì “HĐXX phải thông báo bằng văn bản cho những người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian tiếp tục phiên tòa”.
Có quan điểm cho rằng, “những người tham gia tố tụng” trong trường hợp này được hiểu là những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa, theo cách hiểu này, HĐXX chỉ phải thông báo bằng văn bản cho những người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian tiếp tục phiên tòa mà không phải gửi cho những người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa.
Tuy nhiên, theo tác giả, “người tham gia tố tụng” tại khoản 2 Điều 259 BLTTDS năm 2015 là chỉ nhóm chủ thể gồm: Đương sự; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; người làm chứng; người giám định; người phiên dịch; người đại diện của đương sự. Sở dĩ, cần phải xác định như vậy vì trong BLTTDS năm 2015, khái niệm “người tham gia tố tụng” được sử dụng nhiều lần để chỉ nhóm người này, thậm chí, BLTTDS năm 2015 cũng dành một chương để quy định về người tham gia tố tụng. Khoản 4 Điều 233 BLTTDS năm 2015 cũng quy định: “Trường hợp sau khi hoãn phiên tòa mà Tòa án không thể mở lại phiên tòa đúng thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa ghi trong quyết định hoãn phiên tòa thì Tòa án phải thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người tham gia tố tụng về thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa”. Theo tác giả, trong cả hai trường hợp tạm ngừng phiên tòa và hoãn phiên tòa, “người tham gia tố tụng” đều được hiểu là nhóm các chủ thể nêu trên. Cách hiểu như vậy phù hợp với khái niệm “người tham gia tố tụng” trong BLTTDS và đảm bảo quyền được tham gia phiên tòa của người tham gia tố tụng. Trong một số trường hợp, có thể tại ngày tiến hành phiên tòa (bị tạm ngừng) người tham gia tố tụng vì một lý do nào đó không thể có mặt, tuy nhiên, tại ngày mở lại phiên tòa (sau khi tạm ngừng) họ có thể tham gia, do đó, nếu HĐXX không thông báo đến những người tham gia tố tụng này là không đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của họ và có thể gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.
3. Giải quyết vụ án sau khi căn cứ tạm ngừng phiên tòa đã được khắc phục
Pháp luật tố tụng dân sự hiện hành không quy định cụ thể khi căn cứ tạm ngừng phiên tòa không còn, HĐXX tiếp tục phiên tòa ngay tại thời điểm tạm ngừng hay phải mở lại phiên tòa từ đầu.
Thứ nhất, xét khía cạnh bản chất của khái niệm tạm ngừng phiên tòa. Hiện nay, chưa có định nghĩa như thế nào là tạm ngừng phiên tòa. Theo Từ điển tiếng Việt, “tạm” là “chỉ trong một thời gian nào đó, khi có điều kiện thì sẽ có thay đổi”; “ngừng” là “không tiếp tục hoạt động, phát triển”. Theo đó, có thể hiểu tạm ngừng là không tiếp tục hoạt động, phát triển trong một thời gian nào đó khi có căn cứ và sẽ tiếp tục trở lại khi đủ điều kiện. Có quan điểm cho rằng: “Tạm ngừng phiên tòa có thể hiểu là phiên tòa không tiếp tục các hoạt động tố tụng trong thời gian ngắn khi có các căn cứ do pháp luật tố tụng dân sự quy định”.
Như vậy, tạm ngừng phiên tòa là trường hợp phiên tòa đang diễn ra và có căn cứ theo quy định của BLTTDS dẫn đến phiên tòa không thể tiếp tục ngay lúc đó, vì vậy, HĐXX phải dời phiên tòa sang xét xử sang một thời điểm khác khi các căn cứ tạm ngừng phiên tòa đã được khắc phục. Như vậy sẽ phù hợp với bản chất của khái niệm tạm ngừng phiên tòa nhất khi căn cứ tạm ngừng phiên tòa đã khắc phục được, HĐXX tiếp tục phiên tòa ngay từ thời điểm phiên tòa tạm ngừng.
Thứ hai, xét khía cạnh căn cứ tạm ngừng phiên tòa. Theo khoản 1 Điều 259 BLTTDS năm 2015, HĐXX có thể tạm ngừng phiên tòa vì nhiều lý do. Trong các căn cứ tạm ngừng phiên tòa này, có những căn cứ mà khi khắc phục được HĐXX có thể tiếp tục phiên tòa ngay tại thời điểm tạm ngừng phiên tòa, tuy nhiên, cũng có những căn cứ mà việc tiếp tục phiên tòa ở thời điểm tạm ngừng là không khả thi.
(1) Nhóm các căn cứ về tình trạng sức khỏe của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa (điểm a, điểm b khoản 1 Điều 259 BLTTDS năm 2015). Nghĩa là, khi phiên tòa đang diễn ra, vì lý do sức khỏe hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng không thể tiếp tục phiên tòa, dẫn đến HĐXX phải tạm ngừng phiên tòa. Sau khi tình trạng sức khỏe, sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan đã được khắc phục, tác giả cho rằng HĐXX có thể tiếp tục phiên tòa ngay từ thời điểm tạm ngừng. Bởi vì, trường hợp này, người tiến hành tố tụng đã tiến hành tố tụng ngay từ đầu, người tham gia tố tụng cũng đã tham gia tố tụng ngay từ đầu, biết rõ nội dung sự việc, hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, họ biết phiên tòa đang tạm ngừng ở giai đoạn nào, do đó, khi phiên tòa mở lại từ thời điểm tạm ngừng, họ có thể tiếp tục tiến hành, tham gia tố tụng phiên tòa ngay từ thời điểm tạm ngừng phiên tòa không cần phải bắt đầu lại.
(2) Nhóm các căn cứ về thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ tại phiên tòa (điểm c, điểm d khoản 1 Điều 259 BLTTDS năm 2015). Nhóm căn cứ này tác động trực tiếp đến các tình tiết, sự việc trong vụ án và có thể làm thay đổi cơ bản kết luận của HĐXX. Tác giả cho rằng, tùy thuộc vào chủ thể thu thập tài liệu, chứng cứ là ai, tùy thuộc vào mức độ tác động của tài liệu, chứng cứ đối với vụ án mà HĐXX cần xem xét có thể tiếp tục phiên tòa ngay từ thời điểm tạm ngừng hay bắt đầu lại phiên tòa.

LS TRẦN MINH HÙNG TRÊN TRUYỀN HÌNH QUỐC HỘI
|