Sập bẫy “siêu lừa”,
một Việt kiều nguy cơ mất trắng tiền tỷ Về nước sau 18 năm định cư ở Mỹ, ông
Dũng đã bị một nhóm đối tượng lừa đảo chuyên nghiệp, có bài bản đưa vào tròng
rồi chiếm đoạt hàng tỷ đồng. Điều đáng nói, sự việc kéo dài hơn 5 năm nay nhưng
vẫn chưa được giải quyết thỏa đáng dù ông Dũng đã gửi đơn cầu cứu khắp nơi. Bán
đất “ảo” vẫn kiếm tiền tỷ! Trong lá đơn cầu cứu gửi đến các cơ quan chức năng,
ông Nguyễn Thanh Dũng (45 tuổi, Việt kiều Mỹ, hiện đang trú tại quận Thủ Đức,
TP.HCM) trình bày. Ngày 27/4/2010 tại Văn phòng Luật sư Bùi Văn Mạc (quận 5),
giữa tôi và bà Lương Thị Kim Loan (50 tuổi, ngụ phường Phú Thọ Hòa, quận Tân
Phú, là người đại diện cho bà Huỳnh Thị Kim Hương, ngụ quận quận 8 nhưng không
có giấy tờ hợp lệ) có ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho tôi.
Bà Loan đồng ý chuyển nhượng cho tôi lô đất tại nền số 30 Lô C1 (diện tích
119,5m2) tọa lạc tại khu tái định cư của dự án đầu tư xây dựng Khu dân cư Bến
Lức trên địa bàn phường 7 (quận 8) và xã An Phú Tây (huyện Bình Chánh) với giá
gần 2 tỷ đồng. Ông Dũng cho biết, ngay sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng thì
ông Dũng đã đặt cọc cho bà Loan số tiền 1 tỷ đồng. Hơn 900 triệu đồng còn lại
sẽ thanh toán cho bà Loan sau 1 tháng. Theo ông Dũng, hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa ông và bà Loan có sự chứng kiến của ông Bùi Văn Mạc –
Trưởng Văn phòng Luật sư Bùi Văn Mạc. Hợp đồng này sau đó được in làm 3 bản
(ông Dũng giữ 1 bản, bà Loan giữ 1 bản và Luật sư Mạc giữ 1 bản) để làm bằng
chứng. Tuy nhiên, sau khi nhận số tiền 1 tỷ của ông Dũng, bà Loan đã không làm
các thủ tục sang nhượng đất như cam kết. Cùng thời điểm này, ông Dũng phát
hiện, mảnh đất mà bà Loan đứng ra bán cho ông thực chất là của một người khác.
“Sau khi phát hiện vụ việc, tôi đã nhiều lần liên hệ bà Loan, yêu cầu trả lại 1
tỷ đồng nhưng bà Loan luôn tránh mặt. Bà Loan đã lợi dụng lòng tin và biết tôi
là Việt kiều mới về nước, không am hiểu hết pháp luật Việt Nam nên đã lập kế
hoạch lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản” – Ông Dũng khẳng định. Cũng theo ông Dũng,
sau khi “lật tẩy” được chiêu trò lừa đảo, ông đã tìm gặp bà Loan nhiều lần yêu
cầu trả lại 1 tỷ đồng đã đặt cọc trước đó nhưng bà Loan vẫn “cù nhầy” không
trả. “Chỉ một lần duy nhất, bà Loan cho người đem trả tôi 50 triệu đồng nhưng
lại để trên bàn rồi lén quay phim. Tôi thấy có điều gì đó bất thường nên kiên
quyết không nhận tiền, sau đó thì những người bà Loan cử xuống đã giật lại cọc
tiền bỏ về. Điều này bà Loan cũng đã thừa nhận với tôi” – Ông Dũng khẳng định.
Để giải quyết dứt điểm vụ việc này, ông Dũng đã ủy quyền cho ông Văn Ngọc Đức
(ngụ thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai, người quen cũ của ông Dũng) để làm các
thủ tục khởi kiện bà Loan ra tòa. Ông Dũng cho rằng, trong thời gian nhận ủy
quyền và tiếp cận làm việc giữa ông Văn Ngọc Đức với bà Loan, bà Loan thông báo
đã chuyển trước cho ông Đức 380 triệu đồng để “khắc phục” trước hậu quả đã gây
ra cho ông Dũng. “Số tiền này tôi không hề nhận được, tôi chỉ ủy quyền cho ông
Đức làm các thủ tục khởi kiện và theo vụ việc đến khi giải quyết xong chứ không
ủy quyền đi lấy tiền của bà Loan. Việc bà Loan nói đưa tiền cho Đức là chuyện
của bà Loan, nếu bà Loan đưa tiền cho ông Đức thật thì bà Loan cứ kiện ông Đức”
– Ông Dũng nhấn mạnh. Đến ngày 17/4/2013, ông Dũng đã làm đơn tố cáo bà Loan và
những người có liên quan đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP.HCM để tố cáo
hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Gian nan đi tìm công lý Sau khi gửi đơn
tố cáo bà Lương Thị Kim Loan và những người liên quan đến cơ quan CSĐT Công an
TP.HCM. Ông Dũng nhận được thông báo của cơ quan CSĐT Công an TP.HCM cho rằng,
việc ông Dũng đặt cọc, hợp đồng mua đất với bà Loan là do ông Dũng không kiểm
tra kỹ trước khi đặt cọc, đồng thời hợp đồng mua bán đất không được Văn phòng
công chứng chứng thực nên không được pháp luật bảo vệ và bà Loan đã khắc phục
một phần hậu quả cho ông Dũng. Bà Loan không bỏ trốn nên đây là tranh chấp hợp
đồng mua bán không có sự việc tội phạm hình sự xảy nên cơ quan CSĐT không ra
quyết định khởi tố hình sự vụ việc trên. Không đồng tình với kết luận của cơ
quan CSĐT Công an TP.HCM, ông Dũng tiếp tục đơn gửi đến Viện KSND TP.HCM đề
nghị được xem xét lại vụ việc của mình. Ông Dũng khẳng định, những gì bà Loan
“dàn dựng” là có chủ đích, có kịch bản để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của ông.
Trong giấy báo tin gần đây nhất mà ông Dũng nhận được từ Viện KSND TP.HCM có
nội dung: Việc cơ quan CSĐT Công an TP.HCM cho rằng quan hệ mua bán đất nền
bằng giấy tay giữa ông Dũng và bà Lương Thị Kim Loan là quan hệ giao dịch dân
sự và không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan CSĐT Công an TP.HCM là
không đúng, đề nghị xác minh làm rõ hành vi của bà Loan để xử lý theo pháp
luật. Viện KSND TP.HCM cũng chuyển đơn tố cáo cùng các tài liệu liên quan mà
ông Dũng nộp đến cơ quan CSĐT Công an TP.HCM thụ lý, giải quyết. Về việc cơ
quan CSĐT Công an TP.HCM cho rằng, bà Loan đã khắc phục 1 phần hậu quả cho ông
Dũng và xém đó như “căn cứ” để không khởi tố vụ án hình sự, ông Dũng khẳng
định: “Việc bà Loan cho rằng đã hoàn trả tiền cho tôi là không đúng, bởi vì tôi
không có ký nhận bất cứ số tiền nào từ bà Loan giao trả. Việc tôi ủy quyền cho
ông Văn Ngọc Đức để tham gia vụ kiện chứ tôi không ủy quyền cho ông Đức nhận
tiền của bất cứ ai. Việc ông Đức có nhận tiền của bà Loan hay không tôi hoàn
toàn không biết”. “Vụ việc của tôi kéo dài mấy năm nay nhưng vẫn chưa xử lý dứt
điểm, dù tôi đã đưa ra đầy đủ bằng chứng, chứng minh việc lừa đảo của bà Loan
và những người liên quan. Mong cơ quan có thẩm quyền sớm vào cuộc trả lại công
bằng cho một Việt kiều mới về nước như tôi” – Ông Dũng mong mỏi.
1. Nếu đúng lô đất này không phải của
bà Loan nhưng Bà Loan lại không cho bên đặt cọc biết, biết mua biết đồng thời
có hành vi “lừa dối” bên nhận chuyển nhượng là đất của bà Loan để nhận tiền đặt
cọc, làm hợp đồng mua bán chuyển nhượng rồi sau khi nhận được tiền thì không
giao đất hoặc không làm các thủ tục sang nhượng như cam kết và ông Dũng sau đó
lại không liên hệ được với bà Loan theo tôi là có cơ sở bà Loan có hành vi “lừa
đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điều 139 bộ luật hình sự. Tại điều
139 Bộ luật hình sự quy định như sau:
1.
Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt
tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu
đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt
hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản,
chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba
năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng
danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi
triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm
triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm
triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5.
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười
triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm
đến năm năm.
Việc cơ quan cảnh sát điều tra Công
an TP.HCM cho rằng đây là việc dân sự theo tôi là chưa phù hợp và chưa bảo đảm
quyền lợi cho ông Dũng. Bởi bà Loan đã có hành vi gian đối đối với bên nhận
chuyển nhượng khi chuyển nhượng không đất không phải của mình, không sang tên
cho ông Dũng. Hơn nữa việc ông chỉ ủy quyền cho ông Đức đi khởi kiện giải quyết
vụ việc chứ không ủy quyền nhận tiền nên việc bà Loan giao tiền cho ông Đức mà
nói trả lại tiền cho ông Dũng là không có cơ sở. Kể cả có việc bà Loan trả lại
tiền cho ông Dũng thì đây cũng chỉ là một trong những tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự cho bà Loan chứ không phải là yếu tố để được miễn trách nhiệm
hình sự cho bà Loan.
2. Đối với hành vi của ông Đức khi ông Dũng chỉ ủy quyền để
đi làm thủ tục khởi kiện nhưng lại nhận tiền của bà Loan (nếu có thật ông Đức
nhận tiền) sau đó vẫn không trả lại cho ông Dũng, rồi ông Dũng gửi 500.000.000
đồng sửa khách sạn nhưng ông Đức có hành vi làm chứng từ giả để lừa dối ông
Dũng là sửa khách sạn 500.000.000 đồng, trong khi thực tế sửa chỉ có
400.000.000 đồng sau khi thực hiện những hành vi này thì ông Dũng không liên lạc
được với ông Đức nữa. Hành vi này của ông Đức cần được điều tra, xem xét, giải
quyết nếu có đủ căn cứ ông Đức có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
theo quy định tại điều 140 Bộ luật hình sự thì cần phải khởi tố vụ án, khởi tố
bị can nhằm bảo đảm quyền lợi cho ông Dũng và bảo đảm sự nghiêm minh của pháp
luật. Tại điều 140 Bộ luật hình sự quy định như sau:
1.
Người nào có một trong những hành vi sau đây:
Chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm
mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã
bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt
tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam
giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc
nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn
gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc
nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài
sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng
danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi
triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
đ) Tái phạm nguy hiểm;
e) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm :
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm
triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm
triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5.
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười
triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần
hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.
|