4. Các quy định trong lĩnh vực pháp luật tiền tệ và ngân hàng:
Căn cứ khoản 2 điều 17 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010 quy định: Tiền giấy, tiền kim loại do Ngân hàng Nhà nước phát hành là phương tiện thanh toán hợp pháp trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Căn cứ khoản 6, 7 điều 4 Nghị định 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về việc thanh toán không dùng tiền mặt (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 80/2016/NĐ-CP) quy định:
“6. Phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt sử dụng trong giao dịch thanh toán (sau đây gọi là phương tiện thanh toán), bao gồm: Séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng và các phương tiện thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
7. Phương tiện thanh toán không hợp pháp là các phương tiện thanh toán không thuộc quy định tại khoản 6 Điều này.”
- Căn cứ khoản 6 điều 6 Nghị định 101/2012/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 80/2016/NĐ-CP) quy định về các hành vi bị cấm:
“6. Phát hành, cung ứng và sử dụng các phương tiện thanh toán không hợp pháp.”
- Công văn số 5747/NHNN-PC của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 21/7/2017 gửi Văn phòng Chính phủ đã khẳng định:
“Tiền ảo nói chung và Bitcoin, Litecoin nói riêng không phải là tiền tệ và không phải là phương tiện thanh toán hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam. Việc phát hành, cung ứng và sử dụng tiền ảo nói chung và Bitcoin, Litecoin nói riêng (phương tiện thanh toán không hợp pháp) làm tiền tệ hoặc phương tiện thanh toán là hành vi bị cấm. Chế tài xử lý hành vi này đã được quy định tại Nghị định 96/2014/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng và Bộ luật Hình sự 2015 (đã sửa đổi, bổ sung).”
Như vậy, tại Việt Nam, Bitcoin không phải là tài sản và chưa có quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động phát hành, mua bán, trao đổi tiền ảo, tài sản ảo, cũng chưa quy định đơn vị chính thức quản lý việc phát hành và giao dịch các đồng tiền ảo, tài sản ảo.
Thứ hai: pháp luật nghiêm cấm Bitcoin không được định giá, không được quy đổi nên không định giá được, không quy đổi được nên không định lượng, do vậy không có căn cứ xét xử các bị cáo khoản 4, điều 170 BLHS, SĐ, BS 2017.
Hiện nay, vẫn chưa thể xác định, định lượng cụ thể của số tiền các bị cáo chiếm đoạt. Đồng tiền Bitcoin không được xem là tài sản nên không thể tiến hành định giá, quy đổi, định lượng giá trị được. Bởi tội cướp tài sản thì phải định lượng để định khung, để định lượng thì phải định giá, mà vụ án này đến thời điểm này không thể định giá hợp pháp được. Không thể quy đổi từ các đồng tiền ảo TRX, BTC, BTT, ETH với đồng tiền ảo USDT để quy đổi giữa đồng USDT với VNĐ trên trang wed
coingecko.com vào lúc 13h ngày 17/5/2020 (thời điểm Tài thực hiện giao dịch chuyển tiền) các đồng tiền ảo có giá trị 1.593.622,36USDT tương đương 37.140.962.620vnđ là không có căn cứ.
Bên cạnh đó, Không có căn cứ hoặc bất kỳ văn bản định giá nào của cơ quan chức năng có thẩm quyền thể hiện số tiền các bị cáo chiếm đoạt được định giá là hơn 37 tỷ đồng. Cụ thể:
- Công văn số 159/CSHS-P6 ngày 01/10/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Bộ Công an về đề nghị cung cấp thông tin về tiền ảo, bút lục 843.
Tóm tắt công văn số 159/CSHS-P6: sau khi chiếm đoạt tiền ảo của anh Lê Đức Nguyên, Hồ Ngọc Tài cùng đồng bọn đã bán các đồng tiền ảo gồm TRX, BTT, BTC, ETH trên sàn Binance để lấy tiền Việt Nam đồng chia nhau. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Bộ Công an đề nghị Bộ Tài chính cung cấp thông tin về tiền ảo: Hiện nay, việc định giá, quy đổi tiền ảo ra tiền Việt Nam đồng được thực hiện dựa trên căn cứ nào, thực hiện ra sao. Tại Việt Nam, cơ quan, tổ chức nào có thể định giá, quy đổi các loại tiền ảo này.
- Công văn số 13949/BTC-UBCK ngày 12/11/2020 của Bộ Tài chính về việc cung cấp thông tin về tiền ảo theo yêu cầu của Cơ quan Cảnh sát điều tra, bút lục 844.
Tóm tắt công văn số 13949/BTC-UBCK: Bộ Tài chính cung cấp thông tin về tiền ảo theo yêu cầu của Cơ quan Cảnh sát điều tra như sau, Việt Nam chưa có quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động phát hành, mua bán, trao đổi, định giá, quy đổi tiền ảo, tài sản ảo ra tiền Việt Nam đồng, đồng thời chưa quy định đơn vị chính thức nào quản lý việc phát hành và giao dịch các đồng tiền ảo, tài sản ảo).
- Công văn số 536/A05-P6 ngày 29/01/2021 của Cục An ninh mạng và PCTP sử dụng công nghệ cao – Bộ Công an về việc phối hợp trao đổi thông tin, tài liệu phục vụ công tác điều tra, bút lục 846.
Tóm tắt công văn số 536/A05-P6: Cục An ninh mạng và PCTP sử dụng công nghệ cao – Bộ Công an trao đổi kết quả như sau: Các quốc gia trên thế giới có nhiều quy định khác nhau về tiền ảo, chưa có sự thống nhất. Hiện tại, chưa có cơ quan, đơn vị, tổ chức quốc tế nào có chức năng, thẩm quyền định giá, quy đổi các loại tiền ảo (bao gồm bitcoin và các loại tiền kỹ thuật số khác). Việc định giá, quy đổi các loại tiền ảo phụ thuộc vào thỏa thuận giữa các cá nhân, tổ chức thực hiện giao dịch. Tại Việt Nam chưa có hành lang pháp lý quy định giá các loại tiền ảo.
Định giá tài sản:
- Yêu cầu định giá tài sản số 201/YC – CSHS-P6 ngày 19/4/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Bộ Công an, bút lục 3472.
Tóm tắt yêu cầu định giá tài sản số 201/YC-CSHS-P6: yêu cầu định giá số tiền mã hóa (tiền ảo) bao gồm: 105.639.624 TRX; 0,15 BTC; 19.333.059 BTT.
- Công văn số 2785/HĐĐGTS-QLG ngày 09/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự cấp thành phố về yêu cầu định giá tài sản số 201/YC – CSHS-P6 ngày 19/4/2022, bút lục 3473.
Tóm tắt công văn số 2785/HĐĐGTS-QLG:
Các đồng tiền mã hóa/ tiền ảo là một dạng tiền kỹ thuật số, không được phát hành bởi chính phủ hay một tổ chức tài chính, mà được tạo ra và vận hành dựa trên hệ thống các máy tính kết nối mạng internet ngang hàng.
Hội đồng định giá cấp thành phố từ chối thành lập Hội đồng định giá đối với yêu cầu định giá tài sản số 201/YC – CSHS-P6 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Bộ Công an do yêu cầu định giá là các đồng tiền mã hóa/ tiền ảo không phải là tài sản.
Như vậy, vì đồng tiền ảo không phải là tài sản, KHÔNG QUY ĐỔI ĐƯỢC nên không thể tiến hành định giá được. Do đó, không có căn cứ để xác định số tiền bị chiếm đoạt là từ 500.000.000 đồng trở lên theo quy định tại Khoản 4 Điều 170 Bộ luật Hình sự để truy tố các bị cáo khoản 4 là không có căn cứ. Căn cứ nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo thì nếu xử lý các bị cáo thì chỉ có thể xử lý theo khoản 2, điều 170 BLHS với định khung có tổ chức, không thể căn cứ khoản 4 vì không thể định lượng được, không định giá được nên không có căn cứ truy tố các bị cáo vào khoản 4.
Thứ ba: Không đủ căn cứ xác định hành vi mua bán, chuyển Bitcoin qua Sàn Binance, cụ thể không có chứng cứ Tài chuyển 33 bitcoin qua sàn này cho Hoàng.
Cơ quan cảnh sát điều tra đã gửi công văn sang quần đảo Cayman để xác định về tính pháp lý cũng như các tài liệu chứng cứ liên quan đến Sàn Binance nhưng không nhận được bất kỳ văn bản, công văn phúc đáp nào. Do đó, không đủ căn cứ để có thể xác định hành vi mua bán Bitcoin qua Sàn Binance. Cụ thể:
- Công văn số 4344/CSHS-P6 ngày 10/11/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra-Bộ Công an về đề nghị hỗ trợ phối hợp điều tra vụ án, bút lục 845.
Tóm tắt công văn số 4344/CSHS-P6: Cơ quan Cảnh sát điều tra – Bộ Công an đề nghị Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (A05) hỗ trợ, phối hợp điều tra vụ án như sau: Các đồng tiền ảo như: TRX (Tron), BTT (Bittorent), BTC (Bitcoin), ETH (Ethereum) được định giá như thế nào. Cơ quan, đơn vị, tổ chức quốc tế nào có chức năng, thẩm quyền định giá, quy đổi các loại tiền này. Tỷ giá quy đổi đồng đô la Mỹ (USD) như thế nào vào lúc 13h ngày 17/5/2020. Cơ quan, tổ chức quốc tế nào là đơn vị chủ quản sàn
Binance.com, có trụ sở ở quốc gia nào. Trên sàn
Binance.com còn tồn tại ví điện tử có địa chỉ TVHk4mdQ9UbtKoR163JgAưKbHDu4kvPtnP hay không. Nếu còn tồn tại thì việc xác định lịch sử giao dịch, thông tin giao dịch của ví điện tử địa chỉ nêu trên được thực hiện như thế nào. Có việc ví điện tử đó đã bị xóa hoặc bị vô hiệu hóa tạm thời thì có phục hồi được không.
Sàn
Binance.com thuộc tập đoàn Binance có trụ sở chính tại: Govermors Square #3-21223 Lime Tree Bay GEORGE TOWN, GRAND CAYMAN, KY1-1203, quần đảo Cayman.
- Yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự số 1745/UTTPHS-P6 ngày 15/4/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an về việc yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự, bút lục 824, ủy thác cho Cơ quan có thẩm quyền tương trợ tư pháp hình sự của Quần đảo Cayman thuộc Vương quốc Anh thu thập tài liệu chứng cứ về tài khoản mở trên sàn
Binance.com (được đăng ký qua địa chỉ email: hongoctai1989@gmail.com; mật khẩu: HoDuongBaoChau2014).
- Bản kết luận điều tra vụ án hình sự đề nghị truy tố (bổ sung) số 41/CSHS-P6 ngày 20/9/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an, bút lục 3198.
(Đối với yêu cầu làm rõ bị can Hồ Ngọc Tài sau khi gây án đã xóa hay chỉ tạm khóa tài khoản của Tài mở trên sàn Binance. Tài khoản này có thể phục hồi được không để đăng nhập, trích xuất dữ liệu và xác định số tiền ảo còn trong tài khoản.
=> Tài khoản của Hồ Ngọc Tài trên sàn Binance đã ngưng hoạt động từ ngày 15/6/2020. Để có căn cứ xác định tài khoản này đã bị xóa hay tạm khóa, ngày 15/4/2021, Cơ quan CSĐT Bộ Công an có Yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự số 1745/UTTPHS-P6/C02, ủy thác cho Cơ quan có thẩm quyền tương trợ tư pháp hình sự của Quần đảo Cayman thuộc Vương quốc Anh xác minh tài khoản của Hồ Ngọc Tài trên sàn Binance (được đăng ký qua địa chỉ email: hongoctai1989dn@gmail.com; mật khẩu: HoDuongBaoChau2014) đã bị xóa hay đang tạm khóa, đề nghị hỗ trợ phục hồi lại tài khoản (nếu tài khoản bị xóa) hoặc mở khóa kích hoạt lại tài khoản (nếu tài khoản bị khóa) để thu thập lịch sử giao dịch, xác định số tiền ảo còn lại trong tài khoản. Đến nay, Cơ quan CSĐT Bộ Công an chưa nhận được kết quả trả lời từ phía Cơ quan có thẩm quyền tương trợ tư pháp hình sự của Quần đảo Cayman thuộc Vương quốc Anh).
Do vậy không có căn cứ Tài chuyển cho Hoàng 33 bitcoin, đây chỉ dựa vào lời khai của Tài, không có chứng cứ vật chất xem xét….Nếu sau này Quần đảo CayMan trả lời không có việc Tài khoản chuyển chuyển 33 bitcoin cho Hoàng thì liệu việc buộc Hoàng nhận 33 bitcoin từ TÀI có căn cứ không cơ quan tố tụng cần làm rõ.
- (Tại đơn xin khiếu nại, bút lục 3112), Hoàng trình bày Tài không chuyển 33 bitcoin cho Hoàng. 26,8 bitcoin Hoàng bán cho Tấn hoàn toàn không phải là bitcoin của Tài cho Hoàng.
Hoàng trình bày Tài có chuyển tiền vào tài khoản của Hoàng 02 lần, mỗi lần 100 triệu là để tặng cho Hoàng, không phải là để cho Thông, Phúc và Cường. Hoàng chuyển khoản trả nợ cho Cường vì Hoàng có mắc nợ Cường. Tài có tặng Thông 50 triệu là Tài đưa tiền mặt cho Hoàng để Hoàng đưa cho Thông, Tài không cho tiền Phúc.
- (Tại biên bản hỏi cung bị can ngày 10/5/2022, bút lục 3538), Hoàng khai Hoàng chỉ nhận được từ Tài là 300 triệu đồng và 25.000 Torque.
- (Tại biên bản ghi lời khai ngày 19/6/2020, bút lục 1538), Hoàng khai Tài nói với mọi người là chỉ lấy được có 100 bitcoin, so với dự định lấy 1000 bitcoin thì chỉ lấy được 1/10. Tài chia cho Hoàng 300 triệu đồng và Tài cho Hoàng một tài khoản Torque có 25.000 torque điện tử để hàng tháng lấy lãi.
Như vậy theo lời khai của Hoàng thì Hoàng nhờ Tấn bán 26,8 bitcoin, trong điện thoại Hoàng khi cơ quan chức năng thu giữ chỉ có 0,2 bitcoin. Như vậy, tổng số bitcoin Hoàng có chỉ 27 bitcoin, trong khi Tài khai chuyển cho Hoàng 33 bitcoin nhưng Tài không chứng minh được đã chuyển cho Hoàng 33 Bitcoin, Tài khai đã mất tài khoản trên sàn
binance.com nên không chứng minh được. Cơ quan tố tụng cũng không có chứng cứ chứng minh Tài chuyển cho Hoàng 33 bitcoin mà chỉ dựa lời khai Tài nên việc kết luận Tài chia cho Hoàng 33 bitcoin là không có căn cứ. Lời khai phải phù hợp với các chứng cứ khác nhưng đây chỉ là lời khai 1 phía Tài, không có chứng cứ vật chất khác.
Hơn nữa, Hoàng thừa nhận Tài có cho Hoàng 25.000 torque nên việc Hoàng thừa nhận Tài cho Hoàng 300 triệu và 25.000 Torque là có căn cứ chứ không có việc Tài chuyển Hoàng 33 bitcoin.
Hơn nữa theo lời khai Hoàng, Hoàng có nhờ Tấn mua bán bitcoin nhiều lần trước đó, trước cả ngày xảy ra vụ án, có sao kê tài khoản ngân hàng. Lúc Tấn chuyển khoản cho Hoàng, lúc Hoàng chuyển cho Tấn rất nhiều.
Tại phiên tòa sơ thẩm Tài khai không có chứng cứ chuyển 33 bitcon cho Tài.
Điều bất ngờ là tại Tòa VSK thay đổi cáo trạng, cụ thể VKS cho rằng Tài chuyển Hoàng 33 bitcon theo cáo trạng nhưng tại tòa VKS lại cho rằng Tài chuyển Hoàng 27 bitcon nhưng không trả hồ sơ điều tra bổ sung là không đúng pháp luật, không có căn cứ. Vì cũng không có căn cứ Tài chuyển Hoàng 27 bitcoin nên việc thay đổi là không có căn cứ.
Thứ tư: Vụ án phải định giá nhưng lại không định giá được
“Điều 215. Yêu cầu định giá tài sản
1. Khi cần xác định giá của tài sản để giải quyết vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra văn bản yêu cầu định giá tài sản.
2. Văn bản yêu cầu định giá tài sản có các nội dung:
a) Tên cơ quan yêu cầu định giá; họ tên người có thẩm quyền yêu cầu định giá;
b) Tên Hội đồng định giá tài sản được yêu cầu;
c) Thông tin và đặc điểm của tài sản cần định giá;
d) Tên tài liệu có liên quan (nếu có);
đ) Nội dung yêu cầu định giá tài sản;
e) Ngày, tháng, năm yêu cầu định giá tài sản, thời hạn trả kết luận định giá tài sản.
3. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra văn bản yêu cầu định giá tài sản, cơ quan yêu cầu định giá phải giao hoặc gửi văn bản yêu cầu định giá tài sản, hồ sơ, đối tượng yêu cầu định giá tài sản cho Hội đồng định giá tài sản được yêu cầu; gửi văn bản yêu cầu định giá tài sản cho Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra…………….”
Căn cứ quy định trên trong tội cướp tài sản phải định giá nhưng bản án sơ thẩm không cho định giá là không đúng pháp luật, không bảo đảm quyền lợi cho bị cáo. Thực tế là các cơ quan tố tụng trong hình sự từ chối định giá. Việc tòa án sơ thẩm cho rằng các bị cáo quy đổi tiền ảo ra tiền bitcoin, ra đồng tiền USDT sau đó quy ra tiền VNĐ để xét xử các bị cáo là không đúng pháp luật như đã phân tích về tiền ảo.
Không thể cho rằng bitcoin không phải tài sản nhưng các bị cáo quy đổi tiền ảo ra tiền bitcoin, quy ra tiền USDT, rồi đổi thành tiền VNĐ nên cho là các bị cáo cướp tài sản là không đúng. Vì pháp luật không cho phép quy đổi Bitcoin
Thứ năm: Về việc kê biên tài sản:
- (Tại biên bản ghi lời khai ngày 01/12/2020, bút lục 2793, 2794), thể hiện Trương Ngọc Lệ khai Lệ và Hoàng có mua lô đất số B2.33, lô 42 khu E2 Hòa Xuân, diện tích 103m2 đất dự án đã có sổ đứng tên vợ chồng Lệ và Hoàng tại khu Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, Đà Nẵng với giá lúc mua là 2.520.000.000 đồng. Số tiền mua lô đất trên là từ Hoàng. Lệ có hỏi Hoàng tiền đâu mà có như vậy thì Hoàng nói có được số tiền này là do làm ăn chung về bitcoin với Tài và bán số bitcoin có được để lấy tiền mua đất. Sau khi cướp tiền ảo từ Nguyên, Hoàng đã nhờ Tấn bán 26,8 bitcoin được số tiền là 5.647.405.500 đồng, Hoàng đã sử dụng số tiền trên để mua lô đất khu Hòa Xuân như Lệ đã khai ở trên và dùng để trả nợ cho khoản vay của Hoàng khi thế chấp nhà số 122/29 Trưng Nữ Vương, số tiền còn lại Hoàng rút ra sử dụng vào việc gì thì Lệ không rõ.
Tuy nhiên trước khi ký tên vào biên bản bà Lệ trình bày bà không biết Hoàng bán bitcoin hùn tiền mua đất với bà Lệ và không biết Hoàng chơi bitcoin, chỉ biết Hoàng có làm ăn với Tài. Cho thấy bản khai chưa đúng ý chí, chưa bảo đảm đúng ý chỉ bà Lệ nên cuối bản khai bà Lệ mới viết như vậy. Đề nghị không được quyền kê biên, phát mãi phần ½ tài sản của bà Lệ trong quyền sử dụng đất trên vì đây là tài sản chung của vợ chồng.
Bà Lệ đã nộp các giấy vay tiền để mua thửa đất trên, bên cho vay đã kiện bà Lệ ra tòa, kèm theo các giấy thụ lý của tòa án để chứng minh cho yêu cầu của mình là đúng pháp luật, cơ quan tố tụng kê biên toàn bộ đất là không đúng pháp luật.
Thứ sáu: Về tình tiết giảm nhẹ.
Cáo trạng cho rằng Hoàng không thành khẩn là không đúng, điều 60 BLTTHS quy định không bắt buộc bị can khai chống mình, không bắt bị can nhận tội, bị can Hoàng vẫn thừa nhận hành vi là có sai, thành khẩn nên cho Hoàng không thành khẩn, không ăn năn để không cho hưởng tình tiết giảm nhẹ là không đúng, còn việc chứng minh 300triệu, bitcoin…là việc của cơ quan tố tụng. Ngoài ra, Hoàng có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, lao động chính trong gia đình, có 3 con còn rất nhỏ, cha bệnh, cũng là những tình tiết cần xem xét khi lượng hình chi bị cáo. Cáo trạng, kết luận điều tra kết luận Hoàng với vai trò lôi kéo, chỉ huy, chỉ đạo đức lôi kéo Chung, Thành, Thanh, Hùng là không có căn cứ, cho là bị cáo bỏ kẹo thuốc độc vào miệng Nguyên, dí sung bắn, kim tiêm HIV là hoàn toàn không có căn cứ vì súng không có vân tay Hoàng qua kết luận giám đình, Hoàng lái xe nên không thực hiện bỏ kẹo vào miệng Nguyên, không thể dí súng vào Nguyên, không thể dí kim tiêm vào Nguyên, vì Hoàng qua xe Lexus sau Tài, lái xe Lexus, bị cáo không thể làm thao tác bắt buộc Hoàng chuyển tiền. Hoàng thừa nhận hành vi cướp là sai nhưng không thừa nhận Tài chuyển 33 Bitcoin, nên không thể nói Hoàng không ăn năn hối cải để không cho Hoàng hưởng tình tiết giảm nhẹ là không đúng. Bị cáo cũng muốn bán 25.000 Torque để khắc phục nhưng bị cáo bị giam, điện thoại bị giữ nên không bán được, bị cáo đồng ý chuyển nhượng ½ là quyền sử dụng đất phần của mình trong tài sản chung với bà Lệ thửa đất số B2.33 tại ĐN để khắc phục. Quyền sử dụng đất này hiện này vẫn còn chưa bán nên thiệt hại vẫn còn khắc phục được.
Thứ bảy: Thu thập chứng cứ chưa hợp pháp.
việc Copy các mã ký tự giao dịch mua bán bitcoin của Hoàng dán lên trang Blockchain để truy ra lịch sử mua bán bitcoin của Hoàng mà không được dịch thuật, hợp pháp hóa lãnh sự là việc thu thập chứng cứ không đúng pháp luật theo bộ luật tố tụng hình sự nên không được xem xét chứng cứ này để giải quyết vụ án.
Thứ tám: Ý thức chủ quan các bị cáo là cướp bitcoin, không có ý thức cướp tiền vnđ.
Trong ý thức chủ quan của Hoàng và Tài và 1 số bị cáo nói chung không có ý thức cướp tiền vnđ, không có ý thức cướp tiền ảo để quy đổi ra VNĐ mà chỉ có ý thức đi lấy lại khoản tiền ảo đã bị Nguyên chiếm nên trong ý thức chủ quan không thỏa mãn cấu thành tội cướp tài sản, vì các bị cáo ý thức cướp tiền ảo, không ý thức chủ quan cướp tiền VNĐ, mà bitcon thì không phải là tài sản.
Từ tất cả các luận cứ trên cho thấy tiền ảo không phải tài sản, không cho phép quy đổi, không định giá được nên không thỏa mãn cấu thành tội cướp tài sản, không đủ căn cứ để kết luận bị cáo Trần Ngọc Hoàng phạm tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm a Khoản 4 Điều 168 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 với tình tiết “Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên” là không có cơ sở, trái với quy định pháp luật, chưa định đúng tội danh và định khung hình phạt chưa đúng pháp luật.
Trên đây là quan điểm của tôi.
Kính mong HĐXX xem xét chấp nhận.
Trân trọng.
LS TRẦN MINH HÙNG
LS TRẦN MINH HÙNG TRÊN TRUYỀN HÌNH TPHCM