1. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị xử lý như thế
nào?
Thế nào là lừa đảo
chiếm đoạt tài sản?
Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản là hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chủ sở hữu, người quản lý tài sản tin
tưởng và giao tài sản nhằm mục đích chiếm đoạt.
Để lừa được chủ sở hữu
hoặc người quản lý tài sản, người thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản
có thể sử dụng nhiều cách khác nhau như: bằng lời nói dối, giả mạo giấy tờ, giả
danh người có chức vụ, quyền hạn, giả danh cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội…
Tùy thuộc vào giá trị
tài sản bị chiếm đoạt mà người lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể bị phạt xử lý
hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Nhà nước.
Mức phạt hành chính
cho hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Đối với hành vi lừa
đảo chiếm đoạt tài sản của người khác lần đầu và chưa đến mức chịu trách nhiệm
hình sự (tài sản bị lừa đảo có trị giá dưới 02 triệu, không phải phương tiện
kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, không gây ảnh hưởng xấu đến an
ninh, trật tự, an toàn xã hội) thì bị phạt hành chính.
Theo khoản 1 Điều 15
Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định, phạt tiền từ 01 - 02 triệu đồngđối với hành
vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác.
Như vậy, người thực
hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới mức chịu trách nhiệm hình sự có
thể bị phạt hành chính đến 02 triệu đồng.
Truy cứu trách nhiệm
hình sự về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm
2017.
Theo đó, người nào
bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 02 đến dưới
50 triệu đồng hoặc dưới 02 triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến
03 năm:
- Đã bị xử phạt vi
phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
- Đã bị kết án về tội
này hoặc về một trong các tội: cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản,
cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, trộm cắp
tài sản, lạm dụng uy tín nhằm chiếm đoạt tài sản, sử dụng mạng máy tính, mạng
viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, chưa được
xóa án tích mà còn vi phạm;
- Gây ảnh hưởng xấu
đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
- Tài sản là phương
tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
Phạt tù từ 02 năm đến
07 năm khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Phạm tội có tổ chức;
- Có tính chất chuyên
nghiệp;
- Chiếm đoạt tài sản
trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng;
- Tái phạm nguy hiểm;
- Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
- Dùng thủ đoạn xảo
quyệt;
Phạt tù từ 07 năm đến
15 năm khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp:
- Chiếm đoạt tài sản
trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng;
- Lợi dụng thiên tai,
dịch bệnh.
Nặng nhất, người phạm
tội có thể bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân khi lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trị giá 500 triệu đồng trở lên hoặc lợi dụng hoàn cảnh chiến
tranh, tình trạng khẩn cấp để lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Bên cạnh đó, người
phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 10 - 100 triệu
đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01
năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Lưu ý: Căn cứ theo
Điều 12 Bộ luật Hình sự, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì không phải
chịu trách nhiệm hình sự về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, người
dưới 16 tuổi vẫn có thể bị xử phạt hành chính với hành vi lừa đảo chiểm đoạt
tài sản.
Nếu xảy ra thiệt hại,
người lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn phải đền bù cho người bị lừa đảo theo quy
định tại Điều 586 Bộ luật Dân sự 2015. Cụ thế như sau:
- Người chưa đủ 15
tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt
hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây
thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu.
- Người từ đủ 15 tuổi
đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình;
nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu
bằng tài sản của mình.
Như vậy, người phạm
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03
năm, phạt tù đến 20 năm hoặc tù chung thân. Đồng thời, có thể bị phạt tiền đến
100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định đến 05 năm hoặc tịch thu toàn bộ tài sản.
2. Phân tích việc cấu thành tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản?
Nội dung đề nghị tư
vấn: Em muốn hỏi trường hợp như sau: Mẹ e có làm ăn với ông Q trong suốt thời
gian dài, nhưng do buôn bán không được nên đã thiếu ông Q 20 cây bột ( 20
triệu) lúc đầu vẫn cho thiếu vì vẫn còn làm ăn nhưng khi mẹ e mua ít lại thì
ông Q không chịu bán và đòi mẹ em trả hơn phân nữa số tiền đã nợ nhưng do hoàn
cảnh khó khăn mẹ em xin trả dần là mỗi tháng trả 400 ngàn mà ông Q không chịu
nói mẹ e là chiếm đoạt tài sản, vậy mẹ em có phải như ông Q nói không, nếu
không mẹ em có thể thưa lại ông Q về tội vu khống được không??? em xin hết mong
tổ tư vấn luật giúp em.
Chân thành cảm ơn.
Luật sư Gia Đình trả
lời:
Điều 174 Bộ luật hình
sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như
sau:
“1. Người nào bằng thủ
đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến
dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường
hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06
tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi
phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội
này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172,
173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu
đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
…”
Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản được hiểu là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu, người quản
lý tài sản tin nhầm giao tài sản cho người phạm tội để chiếm đoạt tài sản đó.
Theo thông tin bạn
cung cấp thì hành vi của mẹ bạn không cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
mà chỉ là quan hệ mua bán dân sự. Do vậy, ông Q nói mẹ bạn chiếm đoạt tài sản
là không có căn cứ.
Điều 156 Bộ luật hình
sự 2015 quy định về tội vu khống như sau:
“1. Người nào thực
hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03
tháng đến 01 năm:
a) Bịa đặt hoặc loan
truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm,
danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;
b) Bịa đặt người khác
phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
…”
Hành vi vu khống là
hành vi bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh
dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt
là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
Hành vi của ông Q chỉ
đơn thuần là nói mẹ bạn phạm tội, không tố cáo và chưa gây thiệt hại gì nên
chưa có căn cứ cấu thành tội vu khống.
3. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có được
hưởng án treo?
Hỏi: Bạn tôi bi Viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện truy tố về tội lừa đảo theo Điều 139 khoản 2 điểm
e. Bạn tôi đã khắc phục hậu quả, là lao động chính đang nuôi 02 con nhỏ dưới 6
tuổi chưa có tiền án tiền sự, gia đình có ông nội và bố đẻ có công với cách
mạng. Hành vi này mức án thế nào, có được hưởng án treo không?
Trả lời có tính chất tham
khảo
Chào bạn!
Khoản 2 Điều 139 Bộ
luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) có quy định về Tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản như sau:
“2. Phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên
nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo
quyệt;
e) Chiếm đoạt tài sản
có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm
trọng.”
Bên cạnh đó, Điều 60
Bộ luật Hình sự năm 1999 có quy định về Án treo cụ thể như sau:
“1. Khi xử phạt tù
không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm
nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho
hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.
…
5. Đối với người được
hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Toà án quyết định
buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của
bản án mới theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật Hình sự.”
Như vậy, trong trường
hợp nói trên, bạn của bạn bị Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện truy tố về tội
lừa đảo theo Điều 139 khoản 2 điểm e “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi
triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng” và tùy thuộc vào các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự, hoặc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà
bạn của bạn có thể bị Tòa án nhân dân tuyên phạt hình phạt tù với mức hình phạt
từ 2 đến 7 năm tù.
Mặt khác, nếu hành vi
phạm tội nói trên của bạn của bạn bị Tòa án xử phạt tù nhưng không quá ba năm.
Bạn của bạn có nhân thân tốt, các tình tiết mà bạn kể trên của bạn của bạn được
Tòa án xác định là các tình tiết giảm nhẹ và nếu Tòa án xét thấy không cần phải
bắt bạn của bạn phải chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án có thể cho bạn của bạn
hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.
4. Dùng giấy tờ giả lừa đảo, phạm tội gì?
Khi xử lý, các cơ quan
tố tụng thiếu thống nhất về tội danh của người vi phạm: Có ý kiến cho rằng chỉ
có thể xử lý hình sự người vi phạm về một tội là lừa đảo chiếm đoạt tài sản
hoặc làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Ngược lại, cũng có ý kiến
cho rằng phải xử lý về cả hai tội… Theo Điều 139 BLHS, tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản là người phạm tội đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của
người khác. Thủ đoạn gian dối được coi là dùng công cụ, phương tiện thực hiện
tội phạm của người phạm tội. Tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội sử
dụng công cụ, phương tiện khác nhau để lừa được người khác. Nếu phương tiện,
công cụ mà người phạm tội sử dụng cấu thành một tội phạm cụ thể thì người phạm
tội phải chịu trách nhiệm hình sự về hai tội. Trường hợp làm giả giấy tờ và nếu
hành vi này cấu thành tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức thì người phạm
tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
và tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức. Trường hợp này cũng giống trường
hợp sử dụng súng quân dụng để giết người thì người phạm tội phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội giết người và tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng. Về
lý luận, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội cấu thành vật chất nhưng không
vì thế mà cho rằng người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản thì không cấu
thành tội này. Cũng như đối với các tội phạm cấu thành vật chất khác được thực
hiện do cố ý, hậu quả chưa xảy ra là ngoài ý muốn của người phạm tội. Nếu cho
rằng đối với tội cấu thành vật chất, hậu quả chưa xảy ra thì chưa cấu thành tội
phạm, có lẽ BLHS cũng không cần quy định trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm
tội chưa đạt nữa. Nếu người phạm tội mới chuẩn bị giấy tờ giả (công cụ, phương
tiện phạm tội) chưa giao dịch với người bị hại thì trường hợp lừa đảo chiếm
đoạt tài sản này mới ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Người phạm tội chỉ bị truy
cứu trách nhiệm hình sự nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 hoặc khoản 4
Điều 139 BLHS (tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng).
Nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 139 BLHS thì không
bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu người phạm tội đã chuẩn bị giấy tờ giả
(công cụ, phương tiện phạm tội) đã giao dịch với người bị hại nhưng người bị
hại phát hiện, không giao tài sản thì trường hợp này là phạm tội chưa đạt.
Người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự không phân biệt thuộc khoản
nào của Điều 139 BLHS. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, tòa sẽ áp dụng thêm
Điều 18 BLHS (phạm tội chưa đạt). Trở lại vụ việc báo nêu, H. mới đến văn phòng
công chứng để công chứng giấy tờ giả thì bị phát hiện; H. chưa đưa giấy tờ giả
cho ông N. nên với tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức, trường hợp của H.
là phạm tội chưa đạt (chưa công chứng được). Còn với tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, hành vi của H. ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội. H. có ý định chiếm đoạt 200
triệu đồng, thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 139 BLHS (tội phạm rất
nghiêm trọng) nên H. bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
5. Tố cáo lừa đảo tiền xin việc được không?
Thưa luật sư! Luật sư
tư vấn giúp tôi trường hợp cụ thể như sau : tôi tên T, sinh năm 1985 tôi và
chồng quê Quảng Ngãi được mẹ xây nhà để lập nghiệp ở Đà Nẵng. Tôi và N quen
nhau khi học cùng lớp liên thông đại học kế toán tại Đà Nẵng. N nói đang làm ở
công an thành phố. Tôi ngỏ lời muốn nhờ N xin việc, lúc đầu chỉ có ý định xin
chỗ nào làm giờ hành chính để có thời gian chăm con nhưng cứ như đang bị cuốn
vào vòng xoáy. N nói xin vào Cục quản trị T26, không cần tiền (tôi nghĩ N thật
thà nên tôi nghĩ mình nên biết điều và bảo: mình nên bỏ bì thư để bồi dưỡng họ
uống nước thì bỏ bao nhiêu, N bảo tùy T nên tôi đã bỏ bì 5 triệu. N bảo phải có
chứng chỉ tin và anh văn mới có quyết định. Tôi đã cố gắng đăng ký và thi vì N
nói bằng giả không được vì có máy soi. Khi tôi thi thì N sinh con, trong thời
gian ấy tôi cũng nhắn tin hối thì N nói sắp có quyết định, và N nói đưa thêm 5
triệu để chiêu đãi họ ăn nhậu. Rồi tôi vẫn thấy lâu nên hối thì N bảo do N ở cữ
không đi được nên tốc độ hơi lâu. Rồi khi N hết ở cữ đã điện thoại gặp tôi thì
tôi hỏi bỏ thêm để họ làm nhanh vậy nên đưa thêm bao nhiêu, N bảo tùy nên tôi
đã đưa 3 triệu vì trong ví không đem theo nhiều.
Rồi hôm sau N điện
thoại nói bỏ thêm 2 triệu vì 3 triệu hơi ít và tôi đồng ý. Cứ hẹn với tôi là
sắp có quyết định nên em chờ. Sau đó N điện thoại gặp tôi và nói chú sếp ở cơ
quan điện thoại nói tìm cho chú 1 người vì cấp trên đưa 1 chỉ tiêu vào cơ quan
nhưng chưa có, nói tôi có muốn không? Làm trong công an thì có tương lai hơn
với giá 100 triệu đưa trước 50 triệu còn 50 triệu thì khi làm tháng lương đầu
thì đưa nốt. Và N đã thuyết phục được chồng tôi, nói rằng nếu không được sẽ trả
lại tiền. Và tôi đã ra ngân hàng rút 50 triệu đưa cho N tại ngân hàng. Sau đó N
điện thoại bảo có vị trí ở quận cẩm lệ gần nhà đầu tháng 2/2016 làm , nếu muốn
nhanh thì phải đóng thêm 20 triệu cho chắc chắn. Thế là vợ chồng em chạy khắp
nơi cũng mượn được 20 triệu để đưa. Nhưng trong lúc chờ nhập khẩu thì tôi phát
hiện N cũng đang chạy việc cho 1 đứa em con cô nhưng vẫn chưa được, lúc ấy tôi
thấy lo nhưng nghĩ nếu không được thì lấy tiền lại. Do trục trặc nhập khẩu nên
tôi quyết định ngưng không làm và N nói qua tết tây sẽ lấy tiền về, và hẹn ngày
đưa.
Nhưng không ngờ đến
ngày hẹn N trốn và tắt máy. Trường hợp của tôi không có giấy nợ thì có tố cáo
được không hay phải làm sao xin luật sư tư vấn cho tôi?
Luật sư Gia Đinh trả
lời:
Theo thông tin bạn
cung cấp thì N nhận tiền xin việc từ bạn, nhưng sau khi nhận tiền thì N không
giúp được, đến ngày hẹn trả N không trả, trốn và tắt máy. Với hành vi này của
N, tùy thuộc vào các tình tiết trên thực tế mà có thể cấu thành tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản hay một tội danh khác, hành vi của bạn chưa đúng chuẩn mực
và hành vi của N cũng sai. Cụ thể chúng tôi đưa ra một số nhận định sau để bạn
có thể tham khảo:
Tội đưa hối lộ?
Tội đưa hối lộ được
quy định tại Điều 364 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017:
Điều 364. Tội đưa hối
lộ
1. Người nào trực tiếp
hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc
người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức vụ,
quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người
đưa hối lộ...
Như vậy, từ quy định
trên có thể hiểu đưa hối lộ là hành vi dùng tiền, tài sản, lợi ích vật chất
khác hoặc lợi ích phi vật chất trực tiếp hoặc qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa
cho người có chức vụ, quyền hạn, hoặc người khác hoặc tổ chức khác để người có
chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của
người đưa hối lộ.
Các yếu tố cấu thành
tội đưa hối lộ bao gồm:
Thứ nhất, khách thể :
các dấu hiệu thuộc khách thể của tội đưa hối lộ là xâm phạm sự hoạt động đúng
đắn của các cơ quan, tổ chức.
Thứ hai, mặt khách quan:
các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội đưa hối lộ: là hành vi đưa bất kỳ lợi
ích nào cho người có chức vụ quyền hạn. Hành vi ở đây được thể hiện dưới hình
thức: đã đưa hoặc sẽ đưa trực tiếp hoặc qua trung gian. Việc quy định hành vi
hối lộ bao gồm cả hành vi "đưa" hoặc “sẽ đưa” có thể sẽ gây khó khăn
cho quá trình điều tra, truy tố tội phạm liên quan đến xác định chứng cứ và
thời điểm hoàn thành tội phạm này.
Thứ ba, mặt chủ quan:
tội phạm thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp.
– Trường hợp người đưa
hối lộ đưa nhầm cho người không có chức vụ quyền hạn thì vẫn cấu thành tội đưa
hối lộ, trường hợp người nhận biết đưa nhầm mình là người có chức vụ quyền hạn
mà vẫn nhận của hối lộ thì người nhận sẽ bị xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản.
– Tội đưa hối lộ có
động cơ vụ lợi. Mục đích là để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm
một việc vì lợi ích hoặ theo yêu cầu của người đưa hối lộ. Tuy nhiên, động cơ
không phải là dấu hiệu cấu thành bắt buộc của loại tội phạm này.
Thứ tư, chủ thể: Chủ
thể của tội phạm này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.
Tình tiết tăng nặng:
+ Có tổ chức;
+ Dùng thủ đoạn xảo
quyệt;
+ Dùng tài sản của Nhà
nước để đưa hối lộ;
+ Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn;
+ Phạm tội 02 lần trở
lên;
+ Của hối lộ là tiền,
tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng trở lên.
+/ chủ thể: Các dấu
hiệu về chủ thể của tội đưa hối lộ Bất kỳ ai có năng lực trách nhiệm chịu trách
nhiệm hình sự và đến một độ tuổi theo quy định của Bộ luật hình sự thì đều có
thể trở thành chủ thể của tội phạm này.
Tội nhận hối lộ?
- Tội nhận hối lộ được
quy định tại Điều 354 Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi 2017:
Điều 354. Tội nhận hối
lộ
1. Người nào lợi dụng
chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi
ích nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để
làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ,..
Từ quy định trên, tội
nhận hối lộ được hiểu là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng
chức vụ, quyền hạn của mình, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận
bất kì lợi ích nào do Bộ luật hình sự quy định dưới bất kì hình thức nào cho
mình hoặc cho người, tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích
hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.
Các yếu tố cấu thành
tội nhận hối lộ
Thứ nhất, mặt khách
quan: Mặt khách quan của tội nhận hối lộ có các dấu hiệu sau đây:
Về hành vi: Có hành vi
lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Được hiểu là sử dụng chức vụ, quyền hạn như một
phương tiện để thực hiện tội phạm. Có hành vi đã nhận hoặc sẽ nhận (nghĩa là
tuy nhận nhưng có việc hứa hẹn, thỏa thuận trước việc nhận), tiền, tài sản hoặc
lợi ích vật chất, phi vật chất khác dưới bất kì hình thức nào (như tiền, vàng,
xe gắn máy, quà biếu…). Việc nhận tiền, tài sản… có thể được thực hiện trực
tiếp giữa người nhận hối lộ và người đưa hối lộ nhưng cũng có thể qua trung
gian (như qua người môi giới, qua bưu điện…). Việc nhận tiền, tài sản hoặc các
lợi ích đó có thể là cho chính người đó nhưng cũng có thể cho người khác hoặc
tổ chức khác.
Lưu ý: Các hành vi nêu
trên phải gắn liền với nhau và với điều kiện là:
– Để làm một việc
(hành động) vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ (ví dụ: Cán bộ
phòng quản lí đô thị nhận hối lộ rồi tiến hành cấp giấy phép xây dựng nhanh
hơn…).
– Hoặc để không làm
một việc (không hành động) vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ
(ví dụ: Cán bộ hải quan nhận hối lộ rồi bỏ qua không lập thủ tục xử phạt người
vi phạm hành chính về hải quan…).
– Đối với trường hợp
người có chức vụ, quyền hạn chủ động đòi hối lộ, thì tội phạm được coi là hoàn
thành tính từ thời điểm người phạm tội tỏ rõ thái độ đòi hối lộ và người đưa
hối lộ chấp nhận sự đòi hỏi đó. Trường hợp một trong hai bên tỏ thái độ hoặc
đưa ra đề nghị đưa hối lộ nhưng một trong hai bên không chấp nhận (từ chối) thì
không cấu thành tội nhận hối lộ vì hai bên vẫn chưa có sự thỏa thuận xong về
việc đưa và nhận hối lộ.
Thứ hai, chủ thể: chủ
thể của tội phạm này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.
Thứ ba, khách thể:
Hành vi phạm tội xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức khinh tế của nhà nước hoặc
tổ chức, doanh nghiệp ngoài nhà nước.
Thứ tư, mặt chủ quan:
Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý và với động cơ vụ lợi.
Tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản được cấu thành như thế nào?
Tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi 2017:
Điều 174. Tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ
đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến
dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường
hợp sau đây...
Các yếu tố cấu thành
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm:
Thứ nhất, mặt khách
quan: của tội này có các dấu hiệu sau:
Về hành vi: Có hành vi
dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản
- Dùng thủ đoạn gian
dối là đưa ra thông tin giả (không đúng sự thật) nhưng làm cho người khác tin
đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể
bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời nói, bằng chữ viết (viết thư), bằng hành
động … (ví dụ: kẻ phạm tội nói là mượn xe đi chợ nhưng sau khi lấy được xe đem
bán lấy tiền tiêu xài không trả xe cho chủ sở hữu) và bằng nhiều hình thức khác
như giả vờ vay, mượn, thuê để chiếm đoạt tài sản.
- Chiếm đoạt tài sản,
được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác
thành của mình. Đặc điểm của việc chiếm đoạt này là nó gắn liền và có mối quan
hệ nhân quả với hành vi dùng thủ đoạn gian dối.
Như vậy, có thể phân
biệt với những trường hợp dùng thủ đoạn gian dối khác, chẳng hạn dùng thủ đoạn
cân, đong, đo đếm gian dối nhằm ăn gian, bớt của khách hàng hoặc để bán hàng
giả để thu lợi bất chính thì không cấu thành tội này mà cấu thành tội lừa dối
khách hàng hoặc tội buôn bán hàng giả.
Thứ hai, khách thể:
Hành vi nêu trên xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác.
Thứ ba, mặt chủ quan:
Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý.
Thứ tư, chủ thể: chủ
thể của tội phạm này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.
Vì vậy, do bạn chưa
nói rõ cụ thể hành vi và mục đích của các bên, nên bạn có thể dựa trên các yếu
tố cấu thành của các tội phạm trên đây, từ đó đưa ra cách giải quyết cho mình.

Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV,
THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội
ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ
cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng
tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề
nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật
sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân,
tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó
khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù
hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có
tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và
chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống
của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của
luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công
bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.
Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn
phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh
nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều
năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình
uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam
(VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư
vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao
Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc
Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp
luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên
cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho
nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với
trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật
cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho
nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin,
người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank,
Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ
Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái...
và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính,
doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích
cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư
chúng tôi.
Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý
cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.
Trân trọng cảm ơn!.
|