Trả lời:
Mỗi cá nhân và tổ chức, cơ quan... đều có những tài sản riêng, thuộc quyền sở hữu của họ, trong đó họ có các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản đó. Đối với quyền định đoạt về tài sản được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 với các nội dung như việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu và tiêu hủy tài sản.
1. Thế nào là quyền định đoạt tài sản?
Tại điều 192, Bộ luật Dân sự năm 2015:
"Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản."
Xét dưới góc độ pháp lý thì quyền định đoạt là quyền quan trọng nhất của chủ sở hữu đối với tài sản. Quyền định đoạt được định nghĩa theo hai khía cạnh:
- Định đoạt số phận thực tế của tài sản: Tức là dùng các hành vi tác động đến tài sản khiến cho chúng không còn tồn tại trên thực tế. Ví dụ Chủ sở hữu tiêu dùng hết các tài sản có tính tiêu hao như: ăn uống các đồ lương thực, thực phẩm; dùng hết các đồ mỹ phẩm, dược phẩm... Hoặc chủ sở hữu có thể tiêu hủy tài sản khiến chúng biến mất như đốt tài sản, chặt phá chúng khiến cho tài sản không thể sử dụng được theo đúng tính năng, công dụng của mình;
- Định đoạt số phận pháp lý của tài sản thông qua hai hình thức: chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho chủ thể khác bằng việc xác lập các hợp đồng như bán, tặng cho, trao đổi tài sản cho người khác. Đây là những hợp đồng mà chuyển giao đồng thời cả ba quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt cho người khác một cách vĩnh viễn; Theo quy định tại Điều 238 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
"Khi chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu của mình cho người khác thông qua hợp đồng mua bán, trao đổi, tặng cho, cho vay hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác theo quy định của pháp luật hoặc thông qua việc để thừa kế quyền sở hữu đối với tài sản của người đó chấm dứt kể từ thời điểm phát sinh quyền sở hữu của người được chuyển giao."
Từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản cũng là một hình thức định đoạt số phận pháp lý của tài sản. Tại Điều 239 Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định:
"Chủ sở hữu có thể tự chấm dứt quyền sở hữu đối với tài sản của mình bằng cách tuyên bố công khai hoặc thực hiện hành vi chứng tỏ việc từ bỏ quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản đó.
Đối với tài sản mà việc từ bỏ tài sản đó có thể gây hại đến trật tự, an toàn xã hội, ô nhiễm môi trường thì việc từ bỏ quyền sở hữu tuân theo quy định của pháp luật.
Từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản cũng là một loại giao dịch dân sự - hành vi pháp lý đơn phương. Do vậy, việc từ bỏ quyền sở hữu tài sản chỉ có giá trị khi đáp ứng được các điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Điều 117 Bộ luật dân sự năm 2015: Điều kiện về chủ thể, mục đích, nội dung, ý chí, hình thức. Nếu một người bị bệnh tâm thần tuyên bố từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với chiếc xe máy thì việc từ bỏ đó cũng không có giá trị. Hoặc chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản khi tài sản đó là nguồn gây ô nhiễm, độc hại cho môi trường, xã hội thì cũng không được phép...
2. Điều kiện định đoạt theo quy định
Pháp luật quy định cho cá nhân là chủ sở hữu hoặc không phải chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản, tuy nhiên cần phải đáp ứng các điều kiện nhất định về năng lực hành vi và các trình tự, thủ tục do pháp luật quy định:
- Về năng lực hành vi: Việc định đoạt tài sản phải do người có năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật
- Trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật về định đoạt: Trong trường hợp pháp luật có quy định về tình tự, thủ tục định đoạt thì cần phải tuân theo trình tự, thủ tục đó.
Theo đó mà các Chủ thể có quyền định đoạt bằng hành vi và làm chủ về ý chí của mình thực hiện việc chuyển giao quyền sở hữu, từ bỏ sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản, tùy thuộc vào nhu cầu, mong muốn của chủ thể. Có thể thấy quyền định đoạt được thực hiện ở hai góc độ khác nhau:
Thứ nhất, đối với định đoạt dưới góc độ thực tế của tài sản, các chủ thể có thể sử dụng các cách như tác động trực tiếp lên tài sản bằng cách tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản theo quy định. Tiêu dùng là việc chủ thể đưa tài sản vào sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu trong cuộc sống của các chủ thể. Tiêu hủy tài sản là việc chủ thể bằng một hành vi cụ thể làm cho tài sản không còn tồn tại theo các cách khác nhau để tài sản đó biến mất vĩnh viễn.
Thứ hai, Việc định đoạt dưới góc độ pháp lý của tài sản, định đoạt dưới góc độ pháp lý được hiểu đó là việc chủ thể chuyển giao quyền sở hữu tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác theo quy định, hay việc từ bỏ tài sản làm phát sinh chủ thể có quyền mới đối với tài sản đó. Đối với định đoạt dưới góc độ pháp lý là căn cứ làm chấm dứt quyền sở hữu của chủ thể đối với tài sản. Chủ thể thực hiện quyền thông qua các giao dịch dân sự phù hợp cụ thể như thừa kế, tặng cho, bán tài sản,... theo quy định của pháp luật.
3. Có phải chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản của mình trong mọi trường hợp không?
Không phải trong mọi trường hợp chủ sở hữu đều có quyền định đoạt tài sản của mình. Để thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản thì đáp ứng một số điều kiện được quy định tại Điều 193 Bộ luật dân sự năm 2015:
Điều 193. Điều kiện thực hiện quyền định đoạt
Việc định đoạt tài sản phải do người có năng lực hành vi dân sự thực hiện không trái quy định của pháp luật.
Trường hợp pháp luật có quy định trình tự, thủ tục định đoạt tài sản thì phải tuân theo trình tự, thủ tục đó.
Điều luật trên quy định về điều kiện của việc thực hiện quyền định đoạt, đó là điều kiện về chủ thể (phải do người có năng lực hành vi dân sự thực hiện), nội dung định đoạt (không trái quy định của pháp luật), về trình tự, thủ tục (phải tuân theo đúng trình tự, thủ tục nếu pháp luật có quy định).
- Về chủ thể: Việc định đoạt tài sản phải do người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thực hiện.
+ Trường hợp phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật: Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi.
+ Trường hợp chủ thể tự mình xác lập thực hiện giao dịch: Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.
+ Trường hợp phải do người đại diện, người giám hộ xác lập, thực hiện thay: Những giao dịch của người dưới 6 tuổi, người bị mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
- Về nội dung định đoạt: "Không trái quy định của pháp luật", theo điểm c khoản 1 Điều 117 của Bộ luật dân sự có quy định:
"Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội".
Các hành vi định đoạt đối với tài sản của chủ sở hữu cũng phải tuân thủ các điều kiện chung của giao dịch, tức là phải tuân theo Điều 117 Bộ luật dân sự.
- Về trình tự, thủ tục định đoạt: Phải tuân theo quy định của pháp luật. theo quy định tại khoản 2 Điều 117 Bộ luật dân sự thì đặt ra yêu cầu về hình thức của giao dịch dân sự. Những trình tự, thủ tục trong định đoạt tài sản mà pháp luật có quy định có quy định như: Hợp đồng phải ký trước công chứng viên, có dấu của công chứng, phải đăng ký tại ơ quan nhà nước có thẩm quyền và tiến hành thủ tục trước bạ sang tên... Nếu chủ sở hữu định đoạt đối với những tài sản là quyền sử dụng đất, nhà ở mà không tuân thủ những trình tự, thủ tục luật thì việc định đoạt đó không có giá trị.
Ví dụ: Tại khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 quy định về quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất:
"3. Việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất được thực hiện như sau:
a) Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này;
b) Hợp đồng cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất mà một bên hoặc các bên tham gia giao dịch là tổ chức hoạt động kinh doanh bất động sản được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của các bên;
c) Văn bản về thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật về dân sự;
d) Việc công chứng thực hiện tại các tổ chức hành nghề công chứng, việc chứng thực thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã."
4. Chủ thể có quyền định đoạt tài sản:
Pháp luật hiện hành, mà cụ thể là Bộ luật dân sự năm 2015 quy định cho chủ thể sở hữu và người không phải là chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản
Thứ nhất: Bộ luật dân sự năm 2015 quy định cho chủ sở hữu có quyền bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật. Như vậy, pháp luật đã trao quyền rất lớn cho chủ sở hữu khi thực hiện quyền định đoạt tài sản.
Thứ hai: Quyền định đoạt của người không phải là chủ sở hữu
Người không phải là chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản sẽ có những hạn chế và trong những trường hợp nhất định.
" Người không phải là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài sản theo ủy quyền của chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật.
Người được chủ sở hữu ủy quyền định đoạt tài sản phải thực hiện việc định đoạt phù hợp với ý chí, lợi ích của chủ sở hữu" (Điều 198 Bộ luật dân sự năm 2015).
Những hạn chế của quyền định đoạt tài sản (Điều 196 Bộ luật dân sự năm 2015)
- Quyền định đoạt chỉ bị hạn chế trong trường hợp do pháp luật quy định
- Khi tài sản đem bán là di tích lịch sử, văn hóa thì nhà nước có quyền ưu tiên mua.
Trong trường hợp pháp nhân, cá nhân, chủ thể khác có quyền ưu tiên mua đối với tài sản nhất định theo quy định của pháp luật thì khi bán tài sản, chủ sở hữu phải dành quyền ưu tiên mua cho các chủ thể đó.
Ví dụ: Chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên công ty TNHH hai thành viên có những hạn chế sau:
" Trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 45 của Luật này, thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có quyền chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình cho người khác theo quy định sau đây:
1. Phải chào bán phần vốn đó cho các thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty với cùng điều kiện;
2. Chỉ được chuyển quyền cho người không phải là thành viên nếu các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc không mua hết trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày chào bán" (Điều 44 Luật Doanh nghiệp 2020).
Hay dựa trên các quy định về ủy quyền định đoạt tài sản như tạo điều kiện thuận lợi cho chủ sở hữu khi định đoạt tài sản, Bộ luật dân sự năm 2015 đã quy định việc ủy quyền định đoạt và đối với việc ủy quyền cho người khác định đoạt tài sản và người được ủy quyền phải thực hiện việc định đoạt theo phương pháp, cách thức phù hợp với ý chí và lợi ích của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.
Và theo đó, các chủ thể vì lợi ích chung của xã hội và để đảm bảo ổn định giao lưu dân sự trong những trường hợp nhất định, Tại điều 196 Bộ luật dân sự năm 2015 còn quy định việc hạn chế quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Cụ thể đó là trường hợp tài sản bị kê biên, hoặc các trường hợp mà tài sản đã được đem đi làm vật bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ. Hay nếu các quan hệ đặt cọc, thế chấp chấm dứt, quyết định kê biên tài sản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền không còn hiệu lực, thì quyền định đoạt của chủ sở hữu được khôi phục và căn cứ dựa trên thực tế có những trường hợp tuy không phải là chủ sở hữu, và chủ sở hữu không ủy quyền, đối với việc định đoạt có thể không theo ý chí của chủ sở hữu nhưng theo quy định pháp luật những người đó vẫn có quyền.
5. Quyền định đoạt tài sản có bị hạn chế không?
Điều 196 Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định:
Điều 196. Hạn chế quyền định đoạt
1. Quyền định đoạt chỉ bị hạn chế trong trường hợp do luật quy định.
2. Khi tài sản đem bán là tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa thì nhà nước có quyền ưu tiên mua.
Trường hợp cá nhân, pháp nhân có quyền ưu tiên mua đối với tài sản nhất định theo quy định của pháp luật thì khi bán tài sản, chủ sở hữu phải dành quyền ưu tiên mua cho các chủ thể đó.
Điều này chỉ ra nguyên tắc định đoạt đối với tài sản, đó là chủ thể có toàn quyền định đoạt tài sản theo ý mình (như chọn người nhận chuyển giao quyền sở hữu, cách thức định đoạt...) và quyền này chỉ bị hạn chế trong trường hợp luật quy định. Để cụ thể hóa thì điều luật quy định hai trường hợp mà chủ thể phải dành ưu tiên mua cho những chủ thể này:
- Nhà nước có quyền ưu tiên mua khi tài sản định đoạt là di tích, lịch sử văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa;
- Các trường hợp khác mà chủ thể có quyền ưu tiên mua theo quy định của pháp luật như: Ví dụ khoản 3 Điều 218 Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định:
Trường hợp một chủ sở hữu chung theo phấn bán quyền sở hữu của mình thì chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua.
Trong thời hạn 03 tháng đố với tài sản chung là bất động sản, 01 tháng đối với tài sản chung là động sản, kể từ ngày các chủ sở hữu khác nhận được thông báo về việc bán và các điều kiện bán mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó được quyền bán cho người khác. Việc thông báo phải được thể hiện bằng văn bản và các điều kiện bán cho chủ sở hữu chung khác phải giống như điều kiện bán cho người không phải là chủ sở hữu chung.
Trường hợp bán phần quyền sở hữu mà có sự vi phạm về quyền ưu tiên thì trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày phát hiện có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua, chủ sở hữu chung theo phần trong số các chủ sở hữu chung có quyền yêu cầu Tòa án chuyển sang cho mình quyền và nghĩa vụ của người mua; bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại.
Tương tự, Điều 126 của Luật nhà ở năm 2014 cũng quy định về quyền ưu tiên của các đồng sở hữu chung khi bán thuộc sở hữu chung. Khoản 1 Điều 127 của Luật nhà ở năm 2014 cũng quy định về quyền ưu tiên mua của bên đang thuê nhà.
Từ những phân tích ở trên, dựa trên quy định của Điều 192 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu như sau:
Điều 192 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu như sau:
Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản.
Dựa trên quy định của Điều 192 nêu trên thi rõ ràng quyền định đoạt di sản của người thừa kế có những hạn chế nhất định so với chủ sở hữu tài sản:
- Hạn chế theo pháp luật: Khi di sản thừa kế đã được xác định của những người thừa kế thì người thừa kế vẫn phải thực hiện các nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo quy định tại Điều 615 Bộ luật dân sự năm 2015.
- Hạn chế theo di chúc: Nếu thừa kế theo di chúc thì người thừa kế còn phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản (không phải thực hiện nghĩa vụ về nhân thân) theo ý chí của người để lại di sản; dành di sản để thờ cúng (di chúc có điều kiện) theo quy định tại Điều 626 Bộ luật dân sự năm 2015.
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ GIA ĐÌNH
Đc 1: 402A Nguyễn Văn Luông, Phường 12, Quận 6, TP.HCM
Đc 2: 64 Võ Thị Sáu, Phường Tân Định, Quận 1,TP.HCM
Chi nhánh tại Biên Hòa: 5/1 Nguyễn Du, Quang Vinh,Biên Hoà, Đồng Nai.
Luật Sư Trần Minh Hùng-Trưởng văn phòng
Tel: 0972238006 (zalo-viber) 028.38779958
Email: vanphongluatsugiadinh@gmail.com
Web: http://www.luatsugiadinh.net.vn
|