1.
Tẩu tán tài sản nhằm trốn nghĩa vụ trả nợ
Nội dung tư vấn như sau: Xin chào
anh/chị luật sư! Hiện tại em có thắc mắc như này mong anh chị giải đáp giúp em
ạ!- Ngày 30 tháng 6 năm 2014, ông A (Quốc tịch Hàn Quốc) vay của ông B (Hàn
Quốc) số tiền là 200 triệu won và giao hẹn trả nợ nhưng đến 27 tháng 5 năm 2015
vẫn chưa trả nên ông B đã trình báo cảnh sát bên Hàn Quốc. Sau đấy vào tháng 10
năm 2016, ông A bị bắt điều tra kết án và bị phạt 20 tháng tù vào tháng 7 năm
2017.- Cùng dịp tháng 10 năm 2016 khi ông A đang bị bắt giữ thì đã cố tình
chuyển 1 khách sạn X của mình tại Hà Nội, Việt Nam sang chủ sở hữu mới là em
trai, hiện tại khách sạn này vẫn đang hoạt động bình thường.Do đấy, cần phải
tịch thu lại khách sạn để trả tiền cho nạn nhân là ông B số tiền gốc 200 triệu
won, tiền lãi tính đến thời điểm hiện tại và các chi phí tố tụng luật sư.- Vậy
anh/ chị luật sư cho em hỏi: Dù hiện tại khách sạn X này đã được chuyển nhượng
sang chủ sở hữu khác nhưng rõ ràng là hành vi không chấp hành cáo buộc cưỡng
chế. Vậy thì có cách nào để có thể cáo buộc hình sự đối với ông A để đòi ông A
bán khách sạn trả tiền cho ông B được không ạ?(Tất cả tài sản của ông A tại Hàn
Quốc hiện đã bán và chuyển nhượng trả nợ nhiều chỗ khác nên ông A hiện không
còn tài sản ở Hàn Quốc ạ)Đây là trường hợp thực tế và bên em muốn tìm hiểu các
anh chị luật sư có thể giải quyết trường hợp này như thế nào và bên mình có làm
không ạ?Em xin cảm ơn và rất mong sớm nhận được giải đáp từ anh chị!Chúc anh
chị 1 ngày làm việc vui vẻ ạ!
Luật sư Gia Đình trả lời:
Cảm ơn bạn
đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Văn Phòng Luật Sư Gia Đình, trường hợp của
bạn chúng tôi tư vấn như sau:
Theo như thông tin bạn cung cấp thì
ông A đã vay tiền của ông B.Khi ông A đang bị bắt giữ thì đã cố tình chuyển 1
khách sạn X của mình sang cho em trai. Có thể thấy rằng hành vi của ông A là
hành vi tẩu tán tài sản.
Pháp luật quy định :”Việc chuyển
quyền sở hữu đối với bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở
hữu”.
Điều 121 BLDS 2015 quy định:” Khi
các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch
dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che
giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định
của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.
2. Trường hợp xác lập giao dịch dân
sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô
hiệu”.
Hành vi tẩu tán tài sản chính là
việc xác lập các giao dịch các giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ
ba. Nếu chứng minh được là hành vi tẩu tán tài sản thì hành vi đó sẽ bị vô hiệu
theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế để chứng minh một hành vi
có phải là hành vi tẩu tán tài sản hay không là rất khó.
Trong trường hợp này, nếu bên bạn
chứng minh được việc xác lập hợp đồng chuyển nhượng khách sạn giữa ông A và em
trai ông A là nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ là hành vi tẩu tán tài sản thì
ông B có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch này là vô hiệu. Bên cạnh đó,
ông B vẫn có quyền yêu cầu Tòa án thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời
liên quan đến việc cấm chuyển dịch tài sản để ngăn chặn những hành vi chuyển
dịch tài sản này từ phía chủ sở hữu nếu thấy có yếu tố tẩu tán tài sản.
Nếu như muốn cáo buộc hình sự đối
với ông A thì phải có bằng chứng chứng minh giao dịch chuyển nhượng khách sạn
giữa ông A và em trai là giao dịch giả tạo nhằm tẩu tán tài sản hoặc đây là hợp
đồng có nội dung trái pháp luật, nhằm mục đích tẩu tán tài sản, né tránh trách
nhiệm thi hành án. Cụ thể là nội dung của hợp đồng vi phạm vào điều cấm là “làm
ảnh hưởng đến quyền lợi của cá nhân, tổ chức khác” bên bạn có thể làm đơn yêu
cầu Tòa án tuyên giao dịch này vô hiệu.–Để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
ông A thì có thể truy cứu về tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản hay lừa đảo chiếm
đoạt tài sản hoặc không thi hành bản án theo quy định của BLHS. Tuy nhiên , xét
về mặt pháp lý, do việc chuyển giao này thông qua hình thức là “hợp đồng dân
sự” nên rất khó để ông B tố cáo ông A theo dạng có dấu hiệu phạm tội hình sự
như “lừa đảo” hay “lạm dụng tín nhiệm” …để chiếm đoạt tài sản. Còn nếu tố cáo
bạn phạm tội “không thi hành án” – theo qui định tại Bộ luật hình sự thì cũng
chưa được. Vì theo điều luật, để khởi tố vụ án thì phải có yếu tố “đã cưỡng chế
mà vẫn cố tình không thi hành án”. Trong khi ở đây cơ quan Thi hành án chưa có
căn cứ để thi hành án.
2.
Thủ tục ngăn chặn tẩu tán nhà đất do đang có tranh chấp
Hành vi tẩu tán nhà đất thường được
thể hiện dưới dạng nào?
Có thể hiểu hành vi tẩu tán tài sản
là việc chuyển dịch quyền về tài sản như tặng cho, thế chấp, chuyển nhượng,
trao đổi hoặc các giao dịch khác nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ mà thực tế
người này phải thực hiện theo quy định của pháp luật.
Hiện nay, pháp luật không có ghi
nhận cụ thể thế nào là hành vi tẩu tán nhà đất. Do đó, việc xác định thế nào là
hành vi tẩu tán tài sản là rất khó và còn vướng nhiều tranh cãi.
Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định
ngăn chặn
Căn cứ theo khoản 10 Điều 70 Bộ luật
Tố tụng Dân sự 2015, Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, chuyển dịch tài sản.
Theo Điều 112 Bộ luật Tố tụng Dân sự
2015 về thẩm quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm
thời thì:
• Trước khi mở phiên tòa, việc áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời do một Thẩm phán xem xét,
quyết định;
• Tại phiên tòa, việc áp dụng, thay
đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời do Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.
Việc đề nghị Tòa án áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời không loại trừ quyền khởi kiện của các bên. Trong trường
hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay chứng cứ, ngăn chặn hậu quả
nghiêm trọng có thể xảy ra thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa
án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đồng thời
với việc nộp đơn khởi kiện cho Tòa án đó.
Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời
Tòa án chỉ tự mình ra quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp quy định tại các khoản 1, 2,
3, 4 và 5 Điều 114 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015. Còn với các trường hợp khác,
đương sự phải yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án mới
xem xét chấp thuận.
Bước 1: Nộp đơn yêu cầu
Người yêu cầu Tòa án áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời phải làm đơn gửi đến Tòa án có thẩm quyền. Đơn yêu cầu
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải có các nội dung chính sau đây:
• Ngày, tháng, năm làm đơn;
• Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax,
địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời;
• Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax,
địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời;
• Tóm tắt nội dung tranh chấp hoặc hành
vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình;
• Lý do cần phải áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời;
• Biện pháp khẩn cấp tạm thời cần
được áp dụng và các yêu cầu cụ thể.
Ngoài ra, tùy theo yêu cầu áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời mà người yêu cầu phải cung cấp cho Tòa án chứng cứ
để chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó.
Bước 2: Xử lý và quyết định áp dụng
hoặc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Trường hợp Tòa án nhận đơn yêu cầu
trước khi mở phiên tòa thì trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận
đơn:
• Nếu người yêu cầu không phải thực
hiện biện pháp bảo đảm hoặc ngay sau khi người đó thực hiện xong biện pháp bảo
đảm thì Thẩm phán phải ra ngay quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
• Nếu không chấp nhận yêu cầu thì
Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu.
Trường hợp Hội đồng xét xử nhận đơn
yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại phiên tòa thì:
• Hội đồng xét xử ra quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngay hoặc sau khi người yêu cầu đã thực hiện
xong biện pháp bảo đảm.
• Nếu không chấp nhận yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Hội đồng xét xử phải thông báo ngay tại
phòng xử án và ghi vào biên bản phiên tòa.
Riêng đối với trường hợp nhận được
đơn yêu cầu đồng thời với đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo thì:
• Trong thời hạn 48 giờ, kể từ thời
điểm nhận được đơn yêu cầu, Thẩm phán phải xem xét và ra quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời;
• Nếu không chấp nhận yêu cầu thì
Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết.
3.
Tư vấn sử dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Khái niệm biện pháp khẩn cấp tạm
thời
Trong quá trình giải quyết vụ án,
Toà án có thể ra quyết định áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cần thiết để tạm
thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài
sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây
thiệt hại không thể khắc phục được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc
thi hành án. Vì nếu không áp dung các biện pháp ấy có thể dẫn đến những khó
khăn, trở ngại cho việc giải quyết đúng đắn vụ án và quá trình thi hành án.
Những biện pháp khẩn cấp tạm thờ
được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự 2015 là những chế định quan trọng,
nó tác động trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Chính vì vậy mà
Bộ luật tố tụng dân sự 2015 dành hẳn một chương riêng để quy định về các biện
pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, lại chưa có điều luật cụ thể nào nêu lên
khái niệm về biện pháp khẩn cấp tạm thời. Chúng ta có thể hiểu đơn giản như
sau:
Biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện
pháp được Toà án áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm giải
quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng, bảo toàn tài sản tránh
gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án.
Đặc điểm của các biện pháp khẩn cấp
tạm thời
So với các biện pháp khác được Toà
án áp dụng trong quá trình giải quyết vụ viêc dân sự thì các biện pháp khẩn cấp
tạm thời có những điểm khác biệt cụ thể, đó là tính khẩn cấp và tính tạm thời.
Trong đó:
Tính khẩn cấp của các biện pháp khẩn
cấp tạm thời được thể hiện ở chỗ Toà án phái ra quyết định áo dụng ngay và
quyết định này được thi hành ngay sa khi Toà án đã quyết định áp dụng, nếu
không thì quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Tính tạm thời được thể hiện ở chỗ
việc áp dụng các biện pháp này sẽ không giải quyết được triệt để vấn đề mà các
đương sự đang gặp phải. Các biện pháp này được áp dụng để tạm thời giải quyết
yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập
chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại
không thể khắc phục được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành
án.
Ý nghĩa của việc áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời
Việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp
tạm thời với mục đích giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tình
trạng tài sản, bảo vệ bằng chứng hoặc bảo đảm việc thi hành án. Do đó, việc áp
dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ
kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp và nhu cầu cấp bách của đương sự, tạo
điều kiện cho đương sự sớm ổn định được cuộc sống.
Mặt khác, do những xung đột về lợi
ích nên có những vụ việc đương sự đã tẩu tán tài sản, hảy loại chứng cứ, gây
khó khăn cho đương sự trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ,
đồng thời tạo ra những khó khăn nhất định trong việc giải quyết vụ án của Toà
án. Vì thế, việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp này
đã góp phần ngăn chặn các hành vi sai trái, bảo vệ bằng chứng, giữ nguyên được
giá trị chứng minh của chứng cứ, giúp cho việc giải quyết vụ việc dân sự được
chính xác.
Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia
tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi
là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên
viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm,
kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm
và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý-
cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư
bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là
nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư
luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư
thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề,
chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh
hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật
sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp
được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem
lại công bằng cho xã hội.
Luật
sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư
Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền
thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật
trên các Kênh truyền hình uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM
(HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long,
Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam,
Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát
thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi
trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an
nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học
luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường
ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học
uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật
sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng
trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng
Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu
giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa
Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự,
kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại
niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công
lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi
cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước
rất lâu năm.
Trân trọng
cảm ơn!.
|