1.
Tranh chấp hợp đồng thương mại
Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
do một bên không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
Tóm tắt câu hỏi:
X là một công ty chuyên kinh doanh
trang thiết bị văn phòng ở một tỉnh miền núi yêu cầu Y là công ty kinh doanh
cùng mặt hàng giao cho X 100 bộ bàn ghế văn phòng có kiểu dáng như X đã từng
mua của Y theo những hợp đồng trước đã ký kết và thực hiện xong vào 1 ngày xác
định qua 1 bức thư mà trong đó không nói đến giá cả, chất lượng, điểm giao hàng
và phương thức thanh toán. Y không trả lời và không giao hàng. X đòi khởi kiện
và dẫn chứng: trong hợp đồng trước đã có nói tới điều khoản ” Y sẵn sàng cung
cấp những mặt hàng được ghi trong hợp đồng này vào bất cứ thời điểm nào khi
nhận được yêu cầu cụ thể của X với điều kiện X phải trả thêm cho mỗi đơn vị
hàng hóa 0,1% giá cả của đơn vị hàng hóa đó trong lần giao hàng theo hợp đồng
này”, Y lập luận hợp đồng nói trên đã chấm dứt vào thời điểm giao hàng lần cuối
cùng theo hợp đồng đó và hợp đồng này chỉ lập ra trong các lần mua bán đó. Y
cùng cho rằng điều khoản mà X dẫn chiếu rất mập mờ không thể hiện ý chí cụ thể
các điểm chính của việc mua bán như giá cả, chất lượng, phương thức thanh
toán…X cho rằng mình đã trả thêm 0,1% nên có quyền đòi hỏi như vậy. tranh chấp
nói trên được khởi kiện ra tòa, vậy ai sẽ là người thắng kiện, trách nhiệm của
bên vi phạm sẽ như thế nào?
Luật sư tư vấn:
Theo quy định tại Điều 24 Luật
Thương mại 2005 về Hình thức hợp đồng mua bán hàng hoá
1. Hợp đồng mua bán hàng hoá được
thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.
2. Đối với các loại hợp đồng mua bán
hàng hoá mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo
các quy định đó.
Theo quy định này thì hình thức hợp
đồng mua bán hàng hóa có thể là: bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi
cụ thể. Vậy việc X gửi cho Y 1 bức thư yêu cầu về việc giao hàng hóa thì coi như
hành vi đề nghị giao kết hợp đồng.
Y không trả lời lại đề nghị giao kết
hợp đồng của X. Điều 404 Khoản 2 “Bộ luật dân sự 2015” : “Hợp đồng dân sự cũng
xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im
lặng, nếu có thoả thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết”.
Tuy nhiên, cũng không thể chỉ dựa
vào sự im lặng để kết luận về việc hợp đồng có được giao kết không. Mà xét
trong thực tiễn vụ việc này giữa Công ty X và Công ty Y đã từng kí kết và thực
hiện hoạt động mua bán bàn ghế văn phòng nhiều lần trước
”Công ty X yêu cầu Y là công ty kinh
doanh cùng mặt hàng giao cho X 100 bộ bàn ghế văn phòng có kiểu dáng như X đã
từng mua của Y theo những hợp đồng trước đã ký kết và thực hiện xong vào 1 ngày
xác định qua 1 bức thư mà trong đó không nói đến giá cả, chất lượng, điểm giao
hàng và phương thức thanh toán”.
Hơn nữa trong hợp đồng trước đã có
nói tới điều khoản “ Y sẵn sàng cung cấp những mặt hàng được ghi trong hợp đồng
này vào bất cứ thời điểm nào khi nhận được yêu cầu cụ thể của X với điều kiện X
phải trả thêm cho mỗi đơn vị hàng hóa 0,1% giá cả của đơn vị hàng hóa đó trong
lần giao hàng theo hợp đồng này“
Như vậy,có thể thấy rằng trong yêu
cầumà công ty X gửi cho công ty Y có các nội dung về mặt hàng, số lượng hàng
hóa. Nhưng không nói đến vấn đề giá cả, chất lượng, địa điểm và phương thức
giao hàng. Tuy nhiên giữa hai bên đã có thói quen trong hoạt động thương mại
được thiết lập.
Trừ trường hợp có thoả thuận khác,
các bên được coi là mặc nhiên áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại đã
được thiết lập giữa các bên đó mà các bên đã biết hoặc phải biết nhưng không
được trái với quy định của pháp luật. ( Điều 12 Luật Thương mại)
Như vậy, trong yêu cầu mà X đưa ra
thì những vấn đề về giá cả, chất lượng, địa điểm và phương thức giao hàng có
thể coi là được thực hiện theo thói quen thương mại giữa hai bên và sự im lặng
của Y làm cho X sẽ hiểu là hàng vẫn sẽ được giao như những hợp đồng trước đó.
Vậy Y lập luận hợp đồng nói trên đã
chấm dứt vào thời điểm giao hàng lần cuối cùng theo hợp đồng đó và hợp đồng này
chỉ lập ra trong các lần mua bán đó. Y cũng cho rằng điều khoản mà X dẫn chiếu
rất mập mờ không thể hiện ý chí cụ thể các điểm chính của việc mua bán như giá
cả, chất lượng, phương thức thanh toán.
Với những căn cứ nêu trên thì có thể
thấy rằng lập luận của Y sẽ là không hợp lý, không có căn cứ pháp luật và không
được chấp nhận khi giải quyết tranh chấp.
Khi các bên đưa tranh chấp nêu trên
ra Tòa án thì Tòa án sẽ căn cứ vào quy định của Luật Thương mại 2005 mà đưa ra
bản án buộc bên vi phạm hợp đồng – bên Y thực hiện các nghĩa vụ sau:
Thứ nhất, Bên vi phạm sẽ phải chịu
một trong các loại chế tài trong thương mại (Điều 292 Luật Thương Mại )
– Buộc thực hiện đúng hợp đồng.
-Tạm ngừng thực hiện hợp đồng.
– Đình chỉ thực hiện hợp đồng.
– Huỷ bỏ hợp đồng.
– Các biện pháp khác do các bên thoả
thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế
mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc
tế.
Thứ hai, bên vi phạm có thể bị phạt
vi phạm hợp đồng nếu có căn cứ tại Điều 300 Luật Thương Mại “Phạt vi phạm là
việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp
đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy
định tại Điều 294 của Luật này”.
Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ
hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong
hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ
trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này.
Thứ ba, bên vi phạm sẽ phải bồi
thường thiệt hại cho bên kia nếu có căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại.
1. Bồi thường thiệt hại là việc bên
vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị
vi phạm.
2. Giá trị bồi thường thiệt hại bao
gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi
phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu
không có hành vi vi phạm.
Điều 303. Căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại
Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm
quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh
khi có đủ các yếu tố sau đây:
1. Có hành vi vi phạm hợp đồng;
2. Có thiệt hại thực tế;
2.
Giải quyết tranh chấp tín dụng
1. TÍN DỤNG VÀ TRANH CHẤP TÍN DỤNG
1.1. Hợp đồng tín dụng
Khoản 14, Điều 4 về "Giải thích
từ ngữ", Luật các Tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2010 quy định "Cấp tín
dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền thao nguyên
tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao
thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác". Các
nghiệp vụ cấp tín dụng khác như tái chiết khấu, ứng trước, mua có bảo lưu quyền
truy đòi (trừ các khoản mua có kỳ hạn) công cụ chuyển phát hành thẻ tín dụng,
nhượng và giấy tờ có giá khác. Dưới đây gọi là tín dụng và hợp đồng tín dụng
thay vì cấp tín dụng và hợp đồng cấp tín dụng không chính xác theo quy định của
pháp luật hiện hành (vì trước đây gọi sai riêng hợp đồng cho vay là hợp đồng
tín dụng, nên đã buộc phải gọi hợp đồng tín dụng nói chung là hợp đồng cấp tín
dụng).
Đối với các TCTD, hợp đồng bảo lãnh
ngân hàng được điều chỉnh theo quy định riêng của pháp luật ngân hàng đối với
bảo lãnh ngân hàng, đồng thời theo quy định chung tại điều 335 về "Bảo
lãnh", Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015. Các quan hệ tín dụng khác ngoài hợp
đồng cho vay và bảo lãnh ngân hàng như chiết khấu, cho thuê tài chính, bao
thanh toán thì không được quy định trong BLDS năm 2015, mà chủ yếu được hướng
dẫn bằng các văn bản dưới luật. Trường hợp TCTD cấp tín dụng không đúng với quy
định của luật thì có thể bị vô hiệu theo quy định tại Điều 124 về "Giao
dịch dân sự vô hiệu do giả tạo", BLDS năm 2015. Chẳng hạn như việc cấp tín
dụng cho vay dưới hình thức đặt cọc hàng trăm, thậm chí hàng nghìn tỷ đồng để
mua, thuê nhà như đã xảy ra trong vụ án tại Ngân hàng Xây dựng.
1.2. Tranh chấp tín dụng
Tranh chấp tín dụng được hiểu là
tranh chấp về các hợp đồng tín dụng gồm hợp đồng cho vay, chiết khấu, cho thuê
tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các hợp đồng tín dụng khác.
Đối với hợp đồng cho vay, thì tranh
chấp có thể là nợ gốc, nợ lãi, lãi suất, về mọi vấn đề liên quan đến hợp đồng
cho vay như điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, hình thức bảo đảm, giá trị
tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và các nội dung khác. Tuy nhiên, trên thực
tế hợp đồng cho vay nói riêng, hợp đồng tín dụng nói chung, thường xảy ra các
tranh chấp giống nhau tập trung vào số nợ gốc, các loại lãi suất, phí và việc xử
lý tài sản bảo đảm.
Đối với các TCTD thì hợp đồng cho
vay được điều chỉnh theo các quy định riêng của pháp luật ngân hàng đối với hợp
đồng tín dụng, đồng thời theo quy định chung tại Điều 463 về “Hợp đồng vay tài
sản”, BLDS năm 2015.
Riêng đối với hợp đồng bảo lãnh ngân
hàng, khi các TCTD phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trả nợ thay, thì sẽ chuyển
sang ghi nợ cho bên được bảo lãnh, do đó trở thành nghĩa vụ như đối với một hợp
đồng cho vay. Khi đó lãi suất đối với nợ gốc trong hạn, lãi suất đối với nợ gốc
quá hạn, lãi suất đối với nợ lãi quá hạn và lãi suất đối với khoản nợ chậm thi
hành án sẽ được xử lý hoàn toàn giống với hợp đồng cho vay của các TCTD.
Trường hợp hợp đồng tín dụng vô hiệu
thì hậu quả pháp lý là không tính lãi cho vay hay phí bảo lãnh theo quy định
tại Điều 131 về “Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu”, BLDS năm 2015.
1.3. Tranh chấp bảo đảm tín dụng
Ngoài ra, quan hệ tín dụng thường
gắn với tài sản bảo đảm tín dụng, nên cũng thường xảy ra tranh chấp về việc bảo
quản, thu giữ và xử lý tài sản bảo đảm. Điều 292 về “Biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ”, BLDS năm 2015 quy định có 9 bên pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu
quyền sở hữu, bảo lãnh, tín chấp và cầm giữ tài sản. Việc bảo lãnh có thể là
bảo lãnh ngân hàng hoặc bảo lãnh của pháp nhân hay cá nhân khác.
Tuy nhiên trong quan hệ tín dụng thì
chỉ liên quan đến 5 biện pháp bảo đảm là cầm cố, thế chấp, ký quỹ, bảo lãnh và
tín chấp và cũng được gọi là các hợp đồng bảo đảm. Hợp đồng tín dụng không liên
quan trực tiếp đến 3 biện pháp ký cược, bảo lưu quyền sở hữu và cầm giữ tài
sản. Riêng biện pháp đặt cọc, có thể áp dụng trong quan hệ tín dụng tuy nhiên
gần như không xuất hiện trên thực tế.
Vì bảo lãnh ngân hàng là một biện
pháp bảo đảm nhưng đồng thời cũng là một hợp đồng tín dụng, nên có thể lại sử
dụng các biện pháp bảo đảm khác như ký quỹ, cầm cố, thế chấp để bảo đảm nghĩa
vụ trả nợ trong quan hệ giữa các bên.
1.4. Mối quan hệ giữa tín dụng và
bảo đảm
Trường hợp chỉ có tranh chấp về hợp
đồng bảo đảm, không có tranh chấp về tín dụng, thì vẫn phải khởi kiện giải
quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, chứ không khởi kiện độc lập hợp đồng bảo
đảm, vì tín dụng là hợp đồng chính, bảo đảm là hợp đồng phụ. Hay nói cách khác,
hợp đồng bảo đảm phụ thuộc vào hợp đồng tín dụng vì là một bộ phận của hợp đồng
tín dụng.
Dù tín dụng là hợp đồng chính, nhưng
nếu bị vô hiệu thì không dẫn đến việc vô hiệu hợp đồng bảo đảm là hợp đồng phụ
theo quy định tại khoản 2, Điều 407 về “Hợp đồng vô hiệu”, BLDS năm 2015.
2. CÁC PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP TÍN DỤNG
2.1. Phương thức giải quyết tranh
chấp
Cũng giống như các loại tranh chấp
hợp đồng khác, các tranh chấp tín dụng có thể là tranh chấp dân sự hoặc tranh
chấp kinh doanh, thương mại, đều có thể giải quyết bằng các phương thức thương
lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án theo quy định của pháp luật. Không có quy
định cụ thể của pháp luật về việc giải quyết tranh chấp bằng thương lượng.
Việc giải quyết tranh chấp bằng hòa
giải được thực hiện theo quy định của Nghị định 22/2017/NĐ-CP ngày 24/02/2017
của Chính phủ về hòa giải thương mại
2.2. Giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài
Riêng với phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thì áp dụng đối với trường hợp các bên thỏa thuận
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đối với tranh chấp giữa các bên phát sinh
từ hoạt động thương mại hoặc ít nhất một bên có hoạt động thương mại và tranh
chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài theo quy định tại Điều 2 về “Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của
trọng tài”, Luật Trọng tài thương mại năm 2010.
Cho đến nay, chưa có quy định nào
bắt buộc phải giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài, mà chỉ là quy định các bên
có thể lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài như Luật thương mại năm
2005, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, Luật các Công cụ chuyển nhượng năm 2006, Luật
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Luật doanh nghiệp năm 2014, Luật Đầu
tư năm 2014, Bộ luật hàng hải năm 205, v.v...
Tranh chấp được giải quyết bằng
trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài có thể
được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp theo quy định tại khoản 1, Điều 5
về “Điều kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài”, Luật Trọng tài thương mại
năm 2010.
Kết hợp các điều kiện trên thì thực
chất chỉ có duy nhất một trường hợp giải quyết bằng trọng tài, đó là lý do các
bên thỏa thuận đối với tranh chấp trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương
mại. Như vậy tranh chấp hợp đồng cho vay tiêu dùng của các TCTD cũng được giải
quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận.
Các bên có thể chỉ thoả thuận giải
quyết tranh chấp bằng Trọng tài mà không cần phải ghi chính xác tên của Trung
tâm Trọng tài thương mại trên thực tế. Trường hợp các bên vừa có thoả thuận
giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài, vừa có thoả thuận giải quyết tranh chấp
bằng Toà án thì có quyền khởi kiện ra trước một trong hai bên Trọng tài hoặc
Toà án giải quyết theo quy định tại khoản 4, Điều 2 về “Xác định thẩm quyền
giải quyết tranh chấp giữa Trọng tài, Toà án theo quy định Luật Trọng tài
thương mại”, Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội đồng Thẩm phán,
TANDTC “Hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Trọng tài thương mại”.
Nếu hợp đồng tín dụng có tài sản bảo
đảm của bên thứ ba, thì chỉ giải quyết được bằng Trọng tài khi tất cả các bên
có thoả thuận giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài.
2.3. Giải quyết tranh chấp bằng Toà
án:
Tranh chấp tín dụng được giải quyết
tại Toà án thì thuộc quyền giải quyết của Toà nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh theo quy định tại điểm a và b, khoản 1, Điều 33 về “Thẩm
quyền của TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh”, Bộ luật tố tụng Dân
sự (BLTTDS) năm 2004, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011 và điểm a và b, khoản
1, Điều 35 về “Thẩm quyền của TAND cấp huyện”, BLTTDS năm 2015, trừ trường hợp
có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan
đại diện Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án, cơ quan có thẩm quyền của nước
ngoài.
Việc giải quyết tranh chấp bằng Toà
án không phụ thuộc vào việc thoả thuận của các bên. Luật quy định, Toà án nơi
bị đơn cư trú, làm việc, hoặc có trụ sở có thẩm quyền giải quyết, trừ trường
hợp các bên có quyền tự thoả thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Toá án nơi cư
trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn giải quyết tranh chấp theo quy
định tại điểm b, khoản 1, Điều 39 về “Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ”,
BLTTDS năm 2015.
Riêng đối với Toà kinh tế thì khác
với thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài là chỉ giải quyết tranh chấp
phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng
ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận, theo quy định tại khoản 1,
Điều 30 về “Những tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết
của Toà án”, BLTTDS năm 2015.
Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia
tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi
là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên
viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm,
kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm
và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý-
cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư
bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là
nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư
luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư
thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề,
chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh
hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật
sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp
được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem
lại công bằng cho xã hội.
Luật
sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư
Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền
thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật
trên các Kênh truyền hình uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM
(HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long,
Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam,
Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát
thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi
trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an
nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học
luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường
ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học
uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật
sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng
trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng
Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu
giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa
Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự,
kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại
niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công
lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi
cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước
rất lâu năm.
Trân trọng
cảm ơn!.
|