1.
Các tranh chấp về thừa kế phổ biến tại Tòa án
Các tranh chấp dân sự xảy ra trong
đời sống thực tiễn hết sức đa dạng trong đó tranh chấp về thừa kế nói chung,
tranh chấp về thừa kế theo di chúc nói riêng xảy ra ngày một nhiều. Trước đây,
do cuộc sống vật chất còn đơn giản, di sản thừa kế mà người chết để lại chỉ đơn
thuần là các vật phẩm tiêu dùng, cao hơn nữa là nhà cửa, đất đai. Các danh
tranh chấp đó là: (1) Tranh chấp giữa người thừa kế theo luật với người thừa kế
theo di chúc; (2) Tranh chấp giữa người khác với người thừa kế theo di chúc;
(3) Tranh chấp giữa những người thừa kế theo di chúc với nhau; (4) Tranh chấp
giữa những người thừa kế theo luật với nhau vì việc phân chia di sản không đồng
đều; (5) Tranh chấp về thừa kế vì những người thừa kế cho rằng có người thừa kế
không được quyền hướng di sản; (6) Tranh chấp thừa kế do xác định không chính
xác về di sản thừa kế.
Tuy nhiên, ở đây, Luật sư Gia Đình
đưa ra một số tranh chấp thường xảy ra trong thực tiễn cuộc sống hàng ngày:
Thứ nhất, tranh chấp về hiệu lực của
di chúc do di chúc lập không đúng thủ tục mà pháp luật đã quy định.
Bản án số 02/DSST ngày 10/10/2015
của TAND huyện S đã xét xử việc chia thừa kế giữa nguyên đơn là ông N.H.T, sinh
năm 1945 trú tại thôn L, xã T, huyện S, tỉnh Y. Sauk hi kết hôn, vợ chồng ông
về sống tại thôn thôn L, xã T, huyện S. Nguồn gốc nhà đất là của bố mẹ bà T cho
vợ chồng ông. Năm 1980, ông bà có làm một căn nhà cấp 4 , đến năm 1995 vợ chồng
ông lại xây tiếp nhà hai tầng nằm trên diện tích đất 736m2. Năm 1983, vợ chồng
ông đón anh M (là con riêng của ông về ở). Năm 2006, vợ chồng ông nhận chị Nh
làm con nuôi.
Khối tài sản của vợ chồng ông gồm
736m2 đất thổ cư, 112,55m2 nhà hai tầng, 42092m2 nhà cấp bốn, 32,3m2 bếp,
chuồng lợn, 12.6m2 công trình phụ, một giếng nước, 39,52m2 sân gạch, 146,52m2
tường rào và tường hoa, 25 loại tài sản khác cùng với 26.317.000 đồng tiền mặt.
Chị Nh xuất trình một bản di chúc
lập ngày 01/8/2014 với nội dung bà T định đoạt toàn bộ nhà đất cho chị Nh.
Ông T yêu cầu chia thừa kế theo pháp
luật vì ông cho rằng di chúc mà chị Nh xuất trình không có hiệu lực pháp luật.
Tòa sơ thẩm xét thấy di chúc mà chị
Nh xuất trình là do chị Nh trực tiếp viết và có hai người và có hai người là
ông Tr và ông Đ ký làm chứng. Tại lời khai ngày 14/9/2015 (bút lục số 15), ông
Tr xác nhận di chúc của bà T là do gia đình chị Nh đưa cho ông ký làm chứng sau
khi bà T đã chết và nay ông xác định chữ ký của ông tại bản di chúc là không có
giá trị. Tòa sơ thẩm không chấp nhận di chúc do chị Nh xuất trình nên di sản
của bà T được chia thừa kế theo pháp luật.
Qua vụ tranh chấp trên, luật sư thấy
rằng bản di chúc mà chị Nha xuất trình trước Tòa án là di chúc tự lập nhưng
trái với thủ tục mà pháp luật đã quy định đối với loại di chúc này (di chúc tự
lập phải do chính người để lại di sản viết). Ngoài ra, di chúc định đoạt toàn
bộ nhà đất cho chị Nh là đã định đoạt cả tài sản của người khác (tài sản của
ông T) nên nội dung của di chúc cũng không đúng pháp luật. Vì thế, Tòa sơ thẩm
không chấp nhận di chúc trên là hoàn toàn chính xác.
Bản án dân sự sơ thẩm bị đương sự
kháng cáo và đã được TAND tỉnh xét xử lại theo trình tự phúc thẩm bằng bản án
số 56/DSPT ngày 20/3/2016. Tại bản án này, Hội đồng xét xử cũng không chấp nhận
di chúc của bà T lập ngày 01/8/2014 do chị Nh xuất trình. Di sản của bà T được
chia thừa kế theo pháp luật.
Thứ hai, tranh chấp về hiệu lực của
di chúc do người làm chứng di chúc không đủ điều kiện theo quy định của pháp
luật
Bản án số 03/DSST ngày 20/11/2016
của TAND Quận T đã xử chia thừa kế giữa nguyên đơn là bà Ng với bị đơn là anh L
(sinh năm 1976).
Tóm tắt nội dung vụ án như sau: Sau
khi ly hôn với vợ là bà Ch, ông T đã bán ngôi nhà ở phố B, mua căn nhà ở mặt
đường C và sống chung cùng chị Ng, đến ngày 22/4/2007 đăng ký kết hôn và tiếp
tục sống chung nhưng không có con chung, giấy tờ mua bán nhà nói trên là viết
tay và đứng tên ông T. Ngày 20/12/2015, ông T chết do bị ung thư gan. Trước khi
chết 4 tiếng, ông T có bảo chị Ng viết hộ di chúc do ông đọc. Sauk hi viết xong
di chúc, chị Ng có đưa bút cho ông T ký vào bản di chúc đó. Di chúc có chữ ký
của ông M (là người làm chứng). Trong di chúc, ông T định đoạt cho bà Ng và anh
L (là con riêng của ông T) mỗi người ½ căn nhà ở mặt đường C. Sau khi ông T
chết, bà Ng yêu cầu chia thừa kế khối di sản mà ông T để lại. Tòa sơ thẩm đã
chấp nhận di chúc miệng của ông C và cho bà Ng cùng anh L hưởng theo di chúc
ngôi nhà ở mặt đường C. Phần di sản còn lại của ông T được chia theo pháp luật.
Anh L và anh S (là con riêng của ông
T) kháng cáo vì cho rằng bà Ng không được hưởng theo di chúc vì đó là bản di
chúc không có hiệu lực pháp luật.
Vụ án trên đã được TAND thành phố K
xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Tại bản án số 110/DSPT ngày 26/5/2016, Hội
đồng xét xử nhận định: Di chúc miệng do ông T lập được chị Ng viết hộ chỉ có
một người làm chứng là ông M (chị Ng có ký trong di chúc nhưng không có tư cách
là người làm chứng di chúc vì chị là người thừa kế của ông T). Trong khi Điều
630 và 632 BLDS năm 2015 quy định di chúc miệng phải có ít nhất là hai người
làm chứng. Vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận di chúc này nên đã sửa bản
án sơ thẩm. Di sản thừa kế mà ông T để lại được chia theo pháp luật.
Qua vụ án trên, luật sư nhận thấy
rằng, di chúc miệng của ông T cũng có hai chữ ký của hai người làm chứng là chữ
ký của ông M và chữ ký của bà Ng. Sai lầm của Tòa sơ thẩm là không xác định
được chị Ng là người không được làm chứng cho di chúc của ông T. Việc Hội đồng
xét xử sửa phần này của án sơ thẩm là hoàn toàn chính xác.
2.
Giải quyết tranh chấp thừa kế
Thừa kế là nội dung tranh chấp tương
đối phổ biến trong tranh chấp dân sự. Thông thường tranh chấp về thừa kế thường
liên quan đến nội dung tranh chấp về tài sản thừa kế và tranh chấp về thực hiện
nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại.
Để quá trình giải quyết tranh chấp
thừa kế được nhanh chóng, thuận lợi nhất, Văn phòng Luật Sư Gia Đình cung cấp
dịch vụ tư vấn giải quyết tranh chấp thừa kế bao gồm:
Dịch vụ giải quyết các tranh chấp về
thừa kế theo di chúc
• Tư vấn giải quyết tranh chấp liên
quan đế hình thức và nội dung của di chúc đã lập;
• Tư vấn giải quyết tranh chấp về
việc chỉ định người thừa kế, người bị truất quyền hưởng di sản;
• Tư vấn giải quyết tranh chấp cách
phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
• Tư vấn giải quyết tranh chấp về
cách phân chia di sản để tặng cho, thờ cúng;
• Tư vấn giải quyết tranh chấp về
giao nghĩa vụ cho những người thừa kế;
• Tư vấn giải quyết tranh chấp liên
quan đến vấn đề lập di chúc chung của vợ chồng;
• Tư vấn giải quyết tranh chấp liên
quan hiệu lực pháp luật của di chúc.
Các tranh chấp về thừa kế theo pháp
luật
• Tư vấn giải quyết tranh chấp đối
với các trường hợp thừa kế theo pháp luật;
• Tư vấn giải quyết tranh chấp liên
quan đến xác định người thừa kế theo pháp luật;
• Tư vấn giải quyết tranh chấp liên
quan đến thừa kế thế vị;
• Tư vấn giải quyết tranh chấp về
quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ, Quan hệ
thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế;
• Tư vấn giải quyết tranh về việc
thừa kế trong trường hợp vợ, chồng chia tài sản chung, đang xin ly hôn, đã kết
hôn với người khác.
Thành phần hồ sơ chuẩn bị khởi kiện:
+ Đơn khởi kiện (theo mẫu)
+ Các giấy tờ về quan hệ giữa người
khởi kiện và người để lại tài sản: Giấy khai sinh, Chứng minh thư nhân dân,
giấy chứng nhận kết hôn, sổ hộ khẩu, giấy giao nhận nuôi con nuôi để xác định
diện và hàng thừa kế;
+ Di chúc;
+ Giấy chứng tử của người để lại di
sản thừa kế;
+ Bản kê khai di sản;
+ Các giấy tờ, tài liệu chứng minh
sở hữu của người để lại di sản và nguồn gốc di sản của người để lại di sản;
+ Các giấy tờ khác: Biên bản giải
quyết trong họ tộc, biên bản giải quyết tại UBND xã, phường, thị trấn ( nếu
có), tờ khai từ chối nhận di sản ( Nếu có).
Sau khi nhận được đơn khởi kiện, Tòa
án phải xem xét những tài liệu, chứng cứ cần thiết, nếu xét thấy thuộc thẩm
quyền của mình thì Tòa án sẽ thông báo cho đương sự biết để đương sự nộp tiền
tạm ứng án phí.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày
nhận được thông báo, đương sự phải nộp tiền tạm ứng án phí. Sau khi nộp tiền
tạm ứng án phí, đương sự nộp lại biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án.
Tòa án thụ lý việc dân sự hoặc vụ án dân sự kể từ khi nhận được biên lai này.
Trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án
phải mở phiên tòa; trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng.
Để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp
của những người thừa kế, Chúng tôi thực hiện tư vấn cho quý khách hàng một số
vấn đề liên quan đến phân chia di sản và khởi kiện phân chia di sản thừa kế theo
di chúc như sau:
- Tư vấn thời hiệu khởi kiện;
- Tư vấn trình tự, thủ tục khởi
kiện;
- Tư vấn soạn đơn khởi kiện và hồ sơ
khởi kiện;
- Tư vấn giải thích nội dung di
chúc;
- Tư vấn phân chia di sản thừa kế
theo di chúc;
- Tư vấn các vấn đề khác liên quan
đến thừa kế và khởi kiện thừa kế.
Quý khách hàng có bất cứ khó khăn
nào trong việc giải quyết tranh chấp thừa kế xin vui lòng lien hệ Văn Phòng
Luật Sư Gia Đình để được luật sư giải quyết nhanh chóng nhất!
3.
Thừa kế thế vị là gì
Theo quy định của Bộ luật dân sự
2015, Theo nguyên tắc chung trong luật thừa kế tài sản, người thừa kế là người
còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Tuy nhiên nếu người thừa kế chết trước thì
như thế nào?
Người thừa kế chết trước người để
lại di sản
Nhưng pháp luật thừa kế nước ta còn
quy định trường hợp khi con của người để lại di sản chết trước người để lại di
sản, thì cháu của người đó được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ cháu được
hưởng nếu còn sống. Nếu cháu cũng đã chết trước người để lại di sản, thì chắt
được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống. Những
trường hợp này gọi là thừa kế thế vị.
Người thừa kế chết cùng người để lại
di sản
Ngoài ra, pháp luật còn quy định
trường hợp đặc biệt: cha, mẹ chết cùng thời điểm với ông hoặc bà thì cháu thay
thế v| trí của cha hoặc mẹ nhận di sản của ông, bà.
Vậy, thừa kế thế vị là việc các con
(cháu, chắt) được thay vào vị trí của bố hoặc mẹ (ông, bà) để hưởng di sản của
ông bà (hoặc cụ) trong trường hợp bố hoặc mẹ (ông hoặc bà) chết trước hoặc chết
cùng ông, bà (hoặc cụ). Những người thừa kế thế vị được hường phần di sản mà
bố, mẹ mình (hoặc ông bà) dáng lẽ được hưởng nếu còn sống, được chia đều di sản
vối những người thừa kế khác.
Cháu phải sống vào thời điểm ông, bà
chết là người thừa kế thế vị của ông, bà. Chắt cũng phải sống vào thời điểm cụ
chết là người thừa kế thế vị tài sản của cụ.
Quy định về thừa kế thế vị tại các
văn bản pháp luật
Thừa kế thế vị được quy định rất
nhiều tại các văn bản pháp luật: Bộ luật dân sự 2015, Luật hôn nhân và gia đình
2014…
Bộ luật dân sự 2015 (BLDS) và Luật
hôn nhân và gia đình 2014
Điều 653 BLDS quy định về quan hệ
thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ: Con nuôi và cha
nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy
định về Người thừa kế theo pháp luật và Thừa kế thế vị.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 68
Luật hôn nhân và gia đình 2014 (Luật HNGĐ) thì Giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ
nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con được quy định tại Luật hôn nhân
và gia đình, Luật nuôi con nuôi, BLDS và các luật khác có liên quan.
Nghĩa vụ của cha nuôi, mẹ nuôi và
con nuôi như sau
Theo quy định tại Điều 78 Luật hôn
nhân và gia đình 2014:
– Cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi có
quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ, con được quy định trong Luật này kể từ thời điểm
quan hệ nuôi con nuôi được xác lập theo quy định của Luật nuôi con nuôi.
– Trong trường hợp chấm dứt việc
nuôi con nuôi theo quyết định của Tòa án thì quyền, nghĩa vụ của cha nuôi, mẹ
nuôi với con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp
luật.
Căn cứ vào các quy định về Quyền,
nghĩa vụ của ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; Quyền, nghĩa vụ của cô, dì, chú,
cậu, bác ruột và cháu ruột; Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa ông bà nội, ông bà ngoại và
cháu và Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột tại
Luật HNGĐ thì con nuôi không có mối quan hệ về các quyền và nghĩa vụ liên quan
đến việc chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng nhau đối với những người thân thích
thuộc gia đình của bố, mẹ nuôi như bố mẹ của cha, mẹ nuôi, anh, chị, em ruột
của cha mẹ nuôi, chú, bác, cô, dì, cậu ruột của cha mẹ nuôi.
Hay có thể hiểu người con nuôi không
thể là cháu ruột của những người này, vì vậy người con nuôi không thể là người
thừa kế của những người trên. Tuy nhiên, người làm con nuôi người khác vẫn có
quan hệ với gia đình cha mẹ đẻ cho nên là người thừa kế theo quy định về Người
thừa kế theo pháp luật hoặc thừa kế thế vị của những người thân thích.
Quy định về thừa kế thế vị tại Luật
nuôi con nuôi 2010
Luật nuôi con nuôi 2010 quy định về
hệ quả của việc nuôi con nuôi tại Khoản 1 Điều 24 như sau: Kể từ ngày giao nhận
con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ
và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có
các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia
đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Luật
sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV,
SCTV1...
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi,
luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên
môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên
nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi
quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công
bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và
những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào
chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên
đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và
phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy
hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia
đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải
oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho
thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.
Luật sư Trần Minh
Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có
nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin
tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các
Kênh truyền hình uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền
hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV,
SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC,
Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên
Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời
sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân
dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật
TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL,
Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy
tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật
sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng
trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng
Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu
giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa
Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự,
kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại
niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công
lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh
nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN
LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A
Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn
Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần
Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại:
028-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần
Minh Hùng: 0972 238006
Email: luatsuthanhpho@gmail.com
http://www.luatsugiadinh.net. vn
http://www.luatsuthanhpho.com
|