Câu 1: Thưa anh/chị, thời gian gần đây
các vụ việc lừa đảo thông qua mã OTP đang ngày càng tinh vi với số lượng tăng
đáng kể. Xin cho em hỏi anh/chị đánh giá thế nào về sự việc trên?
Thời gian qua,
không ít người dân đã bị lừa đảo bởi tội phạm công nghệ cao thông qua nhiều thủ
đoạn tinh vi. Để ngăn chặn tình trạng này, lực lượng chức năng đã và đang đẩy mạnh
công tác đấu tranh. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là mỗi người dân cần phải
nâng cao tinh thần cảnh giác, thận trọng, tránh bị “sập bẫy” của kẻ xấu.
Lừa đảo công nghệ
cao là thủ đoạn lợi dụng công nghệ kỹ thuật cao để thực hiện hành vi lừa đảo. Tội
phạm sử dụng công nghệ cao thực hiện bằng hình thức cố ý sử dụng tri thức, kỹ
năng, công cụ, phương tiện công nghệ thông tin ở trình độ cao tác động trái pháp
luật đến thông tin số được lưu trữ, xử lý, truyền tải trong hệ thống máy tính,
xâm phạm đến trật tự an toàn thông tin, gây tổn hại lợi ích của Nhà nước, quyền
và các lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. Với phương thức lừa đảo trên,
tội phạm thực hiện hành vi lừa đảo nhanh chóng và khi bị phát hiện thì ít để lại
dấu vết. Điểm chung của hầu hết các vụ việc lừa đảo bằng công nghệ
cao là các đối tượng thu thập được thông tin cá nhân của nạn nhân như tên
tuổi, ngày sinh, số căn cước, thông tin tài khoản ngân hàng...
Các thông tin
này do nạn nhân sơ ý để lộ hoặc các đối tượng tự thu thập được. Sau khi lấy được
thông tin cá nhân, các đối tượng lừa đảo sẽ mạo danh cơ quan, tổ chức liên hệ với
chủ thể của thông tin đó đề nghị chuyển tiền. Mặt khác, các đối tượng có thể sử
dụng thông tin cá nhân của người khác để thực hiện các khoản vay với số tiền lớn
và người phải trả là người đã bị lộ thông tin cá nhân đó. Một thủ đoạn nữa là
tạo ra các đường link có chứa mã độc và gửi nó cho người khác. Khi người nhận
được đường link này ấn truy cập thì sẽ bị các đối tượng đọc được mã OTP trong
giao dịch qua tài khoản ngân hàng và qua đó chiếm đoạt tiền trong tài khoản.
Ngoài ra, các đối tượng còn làm giả trang web của cơ quan, tổ chức, làm giả các
sàn giao dịch điện tử cũng với mục đích chiếm đoạt tài sản.
Một hình thức
khác, đối tượng lừa đảo chuyển một khoản tiền nhỏ vào tài khoản của khách hàng,
sau đó mạo danh ngân hàng gọi điện thoại hoặc gửi tin nhắn (hiển thị thương hiệu
ngân hàng) cho khách hàng thông báo giao dịch chuyển tiền bị treo và yêu cầu
khách hàng truy cập vào đường link trong tin nhắn để tra soát giao dịch, xác nhận
thông tin, mở khóa lệnh chuyển tiền... Với thủ đoạn này, tội phạm lừa đảo khách
hàng cung cấp các thông tin bảo mật của dịch vụ ngân hàng điện tử như tên truy
cập, mật khẩu, OTP. Sau đó, chúng chiếm quyền kiểm soát tài khoản của khách
hàng. Ngoài ra, các đối tượng lừa đảo còn lập website mạo danh ngân hàng để tiếp
nhận và hỗ trợ giải đáp thắc mắc về sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, nhằm thu thập
thông tin cá nhân, lịch sử các giao dịch và tài khoản ngân hàng.
Câu 2: Thưa anh/chị, các đối tượng lửa đảo
qua mạng như trên có được kết vào tội danh lừa đảo và chiếm đoạt tài sản hay
không?
Dưới góc nhìn
pháp lý, hành vi lừa đảo qua mạng được coi là một hành vi dùng thủ đoạn gian dối
để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác. Cụ thể, đối tượng có thể dùng thủ
đoạn gian dối như: đưa ra thông tin giả. Từ đó, làm cho người khác tin đó là thật
và giao tài sản cho người phạm tội. Với trường hợp lừa đảo qua mạng, thủ đoạn
gian dối thường là những hành vi được đề cập ở trên để nhằm mục đích khiến người
bị lừa tin tưởng và giao tài sản cho người lừa đảo. Vì vậy, hành vi dùng thủ đoạn
gian dối để chiếm đoạt tài sản nói chung; và hành vi lừa đảo qua mạng nói riêng
có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Trên thực tế hiện
nay, việc điều tra, xử lý các vụ lừa đảo qua mạng hiện gặp rất nhiều khó khăn
do đối tượng hoạt động tinh vi, lợi dụng khoa học kỹ thuật để thực hiện hành vi
phạm tội, phần lớn máy chủ thực hiện lừa đảo đều đặt ở nước ngoài. Trong khi
đó, bị hại thường trình báo công an rất trễ. Ngoài ra, ở nhiều địa phương,
trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật của cán bộ, chiến sĩ còn hạn chế, chưa được
đào tạo chuyên sâu về chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ. Do đó, chúng ta
cũng cần có sự đầu tư về nhân lực cũng như trang thiết bị hiện đại để chủ động
triệt phá những vụ vi phạm ngay từ khi chúng mới manh nha.
Câu 3: Thưa anh/chị, xin cho em hỏi những
đối tượng thực hiện hành vi lửa đảo qua mạng sẽ bị xử lý thế nào? Hình phạt cao
nhất mà những đối tượng này phải chịu là gì?
Tội lừa đảo qua
mạng được quy về tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174
Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 như sau:
Khoản 1:
“Người nào bằng
thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến
dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường
hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06
tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt
vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án
về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171,
172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng
xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là
phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
Khoản 2:
Phạm tội lừa đảo
thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất
chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt
tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy
hiểm;
đ) Lợi dụng chức
vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn
xảo quyệt;
Khoản 3:
Phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt
tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Lợi dụng
thiên tai, dịch bệnh.
Khoản 4:
Phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau đây; thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung
thân:
a) Chiếm đoạt
tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Lợi dụng hoàn
cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Hình phạt bổ
sung:
Người phạm tội
còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng; cấm đảm nhiệm
chức vụ; cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch
thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Do đó, đối với
hành vi lợi dụng không gian mạng lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 với mức
hình phạt lên đến 20 năm tù. ..
LS TRẦN MINH HÙNG
|