Bổ sung Điều 256a về tội Sử dụng trái phép chất ma túy, theo đó người sử dụng trái phép chất ma túy bị xử lý hình sự trong 04 bốn trường hợp, đó là:

a) Đang trong thời hạn cai nghiện ma túy hoặc điều trị nghiện các chất ma túy bằng thuốc thay thế theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy;

b) Đang trong thời hạn quản lý sau cai nghiện ma túy theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy;

c) Đang trong thời hạn 02 năm kể từ ngày hết thời hạn quản lý sau cai nghiện ma túy và trong thời hạn quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy;

d) Đang trong thời hạn 02 năm kể từ khi tự ý chấm dứt cai nghiện ma túy tự nguyện hoặc điều trị nghiện các chất ma túy bằng thuốc thay thế theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy.

 Kiểm sát mở niêm phong tang vật một vụ án ma tuý. Ảnh Cao Thiên CA Sơn La

Về mức hình phạt, khoản 1 có mức hình phạt từ 02 năm đến 03 năm tù, khung tăng nặng tại khoản 2 có mức hình phạt từ 03 năm đến 05 năm tù trong trường hợp tái phạm.

Nâng mức hình phạt ở khoản 1 đối với một số tội:

+ Thứ nhất là, nâng mức hình phạt khởi điểm ở khoản 1 từ 02 năm đến 07 năm tù lên thành từ 03 năm đến 07 năm tù đối với các tội:Tội sản xuất trái phép chất ma túy quy định tại Điều 248;Tội vận chuyển trái phép chất ma túy quy định tại Điều 250; Tội mua bán trái phép chất ma túy quy định tại Điều 251;Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy quy định tạiĐiều 255.

+ Thứ hai, nâng mức hình phạt thấp nhất ở khoản 1 từ 01 năm lên thành 03 nămđối với Tội tàng trữ trái phép chất ma túy tại Điều 249, theo đó người nào tàng trữ trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 03 năm đến 05 năm tù, thay vì từ 01 năm đến 05 năm như trước.

- Bổ sung trường hợpđã bị kết án về Tội sử dụng trái phép chất ma túy theo Điều 256a nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi phạm vào cấu thành cơ bản quy định tại khoản 1 của các Tội tàng trữ trái phép chất ma túy tại Điều 249,Tội vận chuyển trái phép chất ma túy tại Điều 250, Tội chiếm đoạt chất ma túy tại Điều 252 của Bộ luật.

- Bổ sung thêm chất ma túy Ketamine, Fentanyl ở các điểm có liệt kê các chất ma túy gồm: Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, Ketamine, Fentanyl, MDMA hoặc XLR-11tại các Điều 248, 248, 250, 251, 252.

- Bỏ hình phạt tử hình đối với Tội vận chuyển trái phép chất ma túy tại Điều 250, theo đó mức hình phạt cao nhất của tội phạm tại khoản 4 là tù chung thân, thay vì tù chung thân hoặc tử hình như hiện hành.

- Bỏ hình phạt tử hình ở khoản 4, bổ sung thêm khoản 5 quy định mức hình phạt tử hình đối với các Tội sản xuất trái phép chất ma túy tại Điều 248 và Tội mua bán trái phép chất ma túy tại Điều 251. Theo đó, ở khoản 4 của các tội phạm chỉ quy định mức hình phạtlà 20 năm hoặc tù chung thân, khoản 5 quy định mức hình phạt chung thân hoặc tử hình.

- Quy định cụ thể mức tối đa khối lượng chất ma túy ở các điểm a, b, c, d khoản 4 đối với Tội sản xuất trái phép chất ma túy tại Điều 248 và các điểm a, b, c, d, đ, e, g khoản 4 đối với Tọi mua bán trái phép chất ma túy tại Điều 251. Cụ thể:

Khoản 4 Điều 248: a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 05 kilôgam đến dưới 30 kilôgam;b) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, Ketamine, Fentanyl, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 100 gam đến dưới 03 kilôgam;c) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 300 gam đến dưới 09 kilôgam;d) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 750 mililít đến dưới 22 lít.

Khoản 4 Điều 251:a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 05 kilôgam đến dưới 30 kilôgam;b) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, Ketamine, Fentanyl, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 100 gam đến dưới 03 kilôgam;c) Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định có khối lượng từ 75 kilôgam đến dưới 150 kilôgam;d) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 600 kilôgam đến dưới 1.200 kilôgam;đ) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 150 kilôgam đến dưới 300 kilôgam;e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 300 gam đến dưới 09 kilôgam;g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 750 mililít đến dưới 22 lít.

 Các cơ quan chức năng bắt giữ một đối tượng vận chuyển trái phép ma tuý.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025, được áp dụng để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với người thực hiện hành vi phạm tội từ 0 giờ 00 phút ngày 1 tháng 7 năm 2025. Các quy định có lợi cho người phạm tội được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 1 tháng 7 năm 2025 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện hoặc đang bị điều tra, truy tố, xét xử. Các quy định không có lợi cho người phạm tội thì không áp dụng đối với nhừng hành vi xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 1 tháng 7 năm 2025 mà sau thời điểm đó mới phát hiện hoặc đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích.

Hình phạt tử hình đã tuyên trước ngày 1 tháng 7 năm 2025 đối với người phạm tội về các tội quy định tại Điều 248 hoặc Điều 251 của Bộ luật Hình sự mà chưa thi hành án thì không thi hành và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân đối với các trường hợp sau:

+ Khối lượng, thể tích chất ma túy được xác định trong bản án để quyết định hình phạt bằng hoặc thấp hơn khối lượng, thể tích chất ma túy thấp nhất quy định tại khoản 5 Điều 248 hoặc khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự được sửa đổi, bổ sung tại khoản 18 Điều 1 của Luật này;

+ Khối lượng, thể tích chất ma túy được xác định trong bản án để quyết định hình phạt lớn hơn khối lượng, thể tích chất ma túy thấp nhất quy định tại khoản 5 Điều 248 hoặc khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự được sửa đổi, bổ sung tại khoản 18 Điều 1 của Luật này mà người phạm tội không phải là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy hoặc không có 02 tình tiết tăng nặng trở lên.

Thiếu tá Lường Văn Thum- VKSQS khu vực 23, Quân khu 2
Nguồn: https://baovephapluat.vn/cai-cach-tu-phap/dien-dan/mot-so-diem-moi-cac-toi-pham-ma-tuy-theo-luat-sua-doi-bo-sung-mot-so-dieu-cua-bo-luat-hinh-su-180962.html
Các tình tiết giảm nhẹ theo luật hình sự:

TANDTC đề xuất thêm 6 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. Tuy nhiên chưa có hướng dẫn quy định này.

Tại dự thảo Nghị quyết hướng dẫn tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trong Bộ luật Hình sự, TANDTC đề xuất thêm 6 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Cụ thể:


Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trong Bộ luật Hình sự

Các tình tiết sau đây có thể coi là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015:

 
 

(1) Thiệt hại do lỗi của người thứ ba;

(2) Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khoẻ của người bị hại, gây thiệt hại về tài sản;

(3) Phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột xuất như đi chống bão, lụt, cấp cứu;

(4) Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế được cấp có thẩm quyền xác nhận, nhưng vì lý do khách quan chưa kê khai đề nghị nên chưa có Huân, huy chương;

(5) Bị cáo có nhiều con còn nhỏ, vợ không có công ăn việc làm, gia đình khó khăn hoặc bị cáo được khen thưởng của Ủy ban nhân dân cấp xã, cấp huyện, Công ty, xí nghiệp tặng giấy khen;

(6) Bị cáo có bà ngoại là người được Nhà nước tặng danh hiệu Người mẹ Việt Nam anh hùng hoặc có cha, mẹ được tặng thưởng nhiều giấy khen, bằng khen trong quá trình học tập và công tác.

Ví dụ: Bị cáo là người cháu được bà ngoại là mẹ Việt Nam anh hùng nuôi dưỡng từ nhỏ, là người thân duy nhất còn lại hoặc trường hợp bị cáo có cha, mẹ được tặng thưởng nhiều giấy khen, bằng khen về những thành tích xuất sắc trong công tác... thì khi xét xử Toà án có thể coi đó là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, nhưng phải ghi rõ trong bản án.

2. Đề xuất nguyên tắc áp dụng tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự

Nguyên tắc áp dụng tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự theo dự thảo Nghị quyết hướng dẫn tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trong Bộ luật Hình sự bao gồm:

- Khi xác định mức hình phạt mà người phạm tội vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ, thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.

- Khi kết án bị cáo về một tội phạm cụ thể theo tình tiết tăng nặng định khung hình phạt (ở khoản nặng hơn) mặc dù họ cũng phạm tội trong trường hợp có tình tiết tăng nặng định khung ở khoản nhẹ hơn và tình tiết nhẹ hơn cũng được Bộ luật Hình sự quy định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, thì vẫn bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tương ứng quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015.

- Việc xác định thời điểm áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự một số trường hợp phải rõ ràng, bảo đảm tính công bằng.

Ví dụ 1: Thời điểm áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 là trước khi mở phiên tòa người phạm tội phải bồi thường hoặc tác động gia đình bồi thường thì mới áp dụng tình tiết giảm nhẹ này.

Ví dụ 2: Thời điểm để áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm p khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 thì trước khi phạm tội, người phạm tội đã là người khuyết tật nặng hoặc đặc biệt nặng.

- Khi áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” đối với trường hợp phạm tội từ 05 lần trở lên mà trong đó có lần phạm tội đã bị kết án, chưa được xóa án tích thì tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị áp dụng cả ba tình tiết là “phạm tội 02 lần trở lên”, “tái phạm” (hoặc “tái phạm nguy hiểm”) và “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”.

Ví dụ: Nguyễn Văn B đã bị kết án về tội “trộm cắp tài sản”, nhưng chưa chấp hành hình phạt hoặc sau khi chấp hành xong hình phạt, trong một thời gian, B lại liên tiếp thực hiện bốn vụ trộm cắp tài sản (tài sản chiếm đoạt được trong mỗi vụ có giá trị từ hai triệu đồng trở lên). Trong trường hợp này, B phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải bị áp dụng ba tình tiết tăng nặng là “phạm tội 02 lần trở lên”, “tái phạm” (hoặc “tái phạm nguy hiểm”) và “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”.

 
 
 

- Về áp dụng tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên” trong các trường hợp người phạm tội tự thú, thành khẩn khai báo về hành vi vi phạm trước đó của họ để đảm bảo sự công bằng trước pháp luật với các trường hợp che dấu tội phạm và phù hợp với nguyên tắc xử lý theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 3 của Bộ luật Hình sự. Đối với trường hợp khi bắt được người phạm tội, họ không chỉ khai nhận thành khẩn về hành vi phạm tội đã bị các cơ quan có thẩm quyền phát hiện mà người phạm tội còn tự thú khai báo những hành vi phạm tội của họ trước đó, chưa bị các cơ quan có thẩm quyền phát hiện. Khi xét xử, trường hợp này cần áp dụng 02 tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo tại các điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, trên cơ sở đó có thể xem xét và áp dụng khoản 3 Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015 đối với họ.

- Đối với bị cáo là tái phạm nguy hiểm, cùng một lúc phạm 02 tội, thì phải áp dụng tình tiết “tái phạm nguy hiểm” đối với cả 02 tội. Nếu điều luật quy định “tái phạm nguy hiểm” là tình tiết định khung hình phạt, thì áp dụng là tình tiết định khung hình phạt, nếu điều luật không quy định “tái phạm nguy hiểm” là tình tiết định khung hình phạt, thì áp dụng là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm p khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015.

LS TRẦN MINH HÙNG TƯ VẤN PHÁP LUẬT TRÊN TRUYỀN HÌNH HTV