Trả lời phỏng vấn ngày 11/9/2022
1. Thưa anh, vì sao pháp luật quy định không công khai danh tính của người bán dâm, mà chỉ công khai danh tính của người bán dâm, mà chỉ công khai danh tính của người môi giới mại dâm?
Dưới góc độ pháp luật thì đến nay hoạt động phòng chống mại dâm ở Việt Nam vẫn thực hiện theo quy định tại Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm số 10/2003/PL-UBTVQH11 ban hành ngày 14/3/2003 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2003 Và một số văn bản có liên quan.
Trong vụ việc môi giới mại dâm mà cơ quan điều tra vừa khởi tố có liên quan đến danh tính của một số cô gái đã từng đạt giải trong các cuộc thi người đẹp khiến dư luận nghi ngờ, đồn đoán về các hoa hậu, á hậu trong các cuộc thi gần đây, bởi vậy ban tổ chức đề nghị công khai danh tính của người bán dâm trong vụ án này. Tuy nhiên yêu cầu này không có cơ sở pháp lý để cơ quan điều tra thực hiện. Việc công khai thông tin của người bán dâm, người mua dâm không được pháp luật quy định cụ thể nên thông tin danh tính của những người này rất có thể sẽ không được công bố chính thức.
Bởi vậy, cơ quan điều tra không thể công bố cụ thể thông tin của người bán dâm trong vụ án hình sự này là ai, theo quy định của pháp luật thì hành vi bán dâm chỉ bị xử phạt hành chính và chưa có quy định, cơ chế để công khai thông tin người bán dâm nhằm bảo vệ danh dự nhân phẩm uy tín của công dân. Còn đối với người thực hiện hành vi môi giới mại dâm thì đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự nên để đảm bảo an toàn cho cộng đồng, để phòng ngừa chung cho xã hội thì có khi bị can trong vụ án môi giới mại dâm sẽ bị công khai danh tính.
2. Nếu đã không công bố danh tính thì phải chăng đừng công bố tên viết tắt để tránh gây hiểu lầm và đồn đoán không đáng có?
Việc công khai danh tính người mua dâm sẽ dẫn đến hậu quả khó tưởng tượng. Đàn ông có thể mất gia đình, người thân, thậm chí coi thường cái chết nhưng không bao giờ chấp nhận mất danh dự. Việc công khai danh tính sẽ tạo ra sự kì thị của gia đình và xã hội đối với người mua dâm. Họ bị mất danh dự với chính người thân là bố mẹ, vợ con, bạn bè, đồng nghiệp… Điều đó cũng tác động xấu đến cuộc sống những người thân của họ.
Cho nên, công khai tên người mua bán dâm trước cộng đồng như vậy là trái với qui định của Luật xử phạt vi phạm hành chính, bởi luật chỉ quy định phạt tiền, không có quy định công khai tên tại nơi công cộng. Trách nhiệm của cơ quan chức năng bên cạnh biện pháp xử lý hành chính phạt tiền đối với người vi phạm thì lấy giáo dục và cảm hóa họ là chính. Nên sau khi triệt phá các đường dây này thì cơ công an sẽ để tên viết tắt, che mặt của những người bán dâm và không công khai danh tính người mua dâm nhằm bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của công dân và phù hợp với quy định tại Điều 21 của Hiến pháp 2013: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình” và theo quy định tại Điều 34 Bộ luật dân sự 2015: “Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ”
Song song đó, việc viết tắt tên có thể khiến nhiều người tò mò, “cư dân mạng” sốt sắng đi tìm, suy đoán. Trên thực tế, vẫn có nhiều trường hợp cộng đồng mạng có cách để “moi” ra được thông tin, nhất là thông tin liên quan giới showbiz, người nổi tiếng; thông tin liên quan vấn đề đạo đức, danh dự và thông tin lan truyền rất nhanh dù không đánh giá được mức độ tin cậy như thế nào. Nhưng dù đi tìm bằng cách nào, người tiếp nhận đưa hình ảnh cá nhân người khác để ẩn ý, minh họa cho hành vi mua bán dâm cần được xử lý nghiêm minh.
3. Việc lan truyền thông tin sai sự thật với những đồn đoán về người bán dâm trên mạng sẽ bị xử lý thế nào?
Hành m vi đưa ra thông tin sai sự thật nhằm vu khống, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác là vi phạm pháp luật. Các hành vi vu khống, xúc phạm danh dự nhân phẩm của cá nhân, tổ chức trên mạng xã hội tùy thuộc vào tính chất, mức độ khác nhau có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 3 Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm quy định về trật tự công cộng như sau:
– Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi sau đây: Có hành vi khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm, lăng mạ, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của người khác, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 21 và Điều 54 Nghị định 144/2021/NĐ-CP. Đồng thời buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn đối với hành vi vi phạm.
Bên cạnh đó nếu hành vi tung tin đồn không đúng sự thật nhằm hạ uy tín ở mức độ nghiêm trọng và có tính chất phức tập thì bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 155, Điều 156 của Bộ luật Hình sự 2015. Ngoài ra, còn phải bồi thường về vật chất những thiệt hại gây ra cho cá nhân, tổ chức khác theo quy định của Bộ luật Dân sự nếu có. Cụ thể, hành vi đưa thông tin lên mạng xã hội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm nhục người khác theo quy định tại Điều 155 BLHS 2015 nếu người đưa thông tin từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự và việc đưa thông tin đó đã xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác là bôi nhọ danh dự, nhân phẩm, thanh danh, sự trong sạch của người khác, làm cho họ mất uy tín với những người xung quanh, với người cùng học tập, công tác hoặc với những người thân trong gia đình... Hoặc sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vu khống theo quy định tại Điều 156 BLHS 2015 nếu người đưa thông tin từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
LS TRẦN MINH HÙNG TƯ VẤN LUẬT TRÊN HTV |