Di chúc là từ Hán Việt, được hiểu là lời dặn dò của người chết. Theo pháp luật về thừa kế, cụ thể là Điều 624 Bộ luật dân sự 2015 thì Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.
Như vậy, thừa kế theo di chúc chính là được hưởng di sản của người chết để lại từ ý chí, quyết định của một người trước khi chết nếu ý chí và quyết định đó phù hợp với các quy định về chủ thể, đối tượng, hình thức, nội dung theo của pháp luật.
Cá nhân có quyền lập di chúc tuy nhiên pháp luật quy định về người lập di chúc phải có đủ điều kiện về chủ thể như sau:
- Người đã thành niên quyền lập di chúc, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình).
- Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
- Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
Ngoài ra nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
Nếu đủ điều kiện trên người lập di chúc có quyền định các vấn đề liên quan đến tài sản của mình sau khi chết bao gồm :
- Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
- Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
- Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
- Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;
- Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Người được hưởng thừa kế theo di chúc sẽ có quyền hưởng thừa kế khi di chúc có hiệu lực pháp luật. Theo điều 643 di chúc có hiệu lực khi:
- Mở thừa kế (Người để lại di chúc chết).
Di chúc không có hiệu lực pháp luật toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp sau đây:
+ Người thừa kế theo Di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập Di chúc;
+ Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế.
Trong trường hợp có nhiều người thừa kế theo Di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập Di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo Di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần Di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực pháp luật.
- Di chúc không có hiệu lực pháp luật, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần Di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.
- Khi Di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực pháp luật.
- Khi một người để lại nhiều bản Di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản Di chúc sau cùng có hiệu lực pháp luật.
- Đối với hiệu lực pháp luật của Di chúc chung của vợ, chồng thì có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết.
Pháp luật về thừa kế tôn trọng ý chí của người để lại di chúc định đoạt phần tài sản của họ. Tuy nhiên pháp luật cũng đưa ra các ngoại lệ các trường hợp được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Theo Điều 644 Bộ Luật Dân sự năm 2015 về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc có nội dung như sau:
1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này. |