SỬ DỤNG NGƯỜI LAO ĐỘNG VÀ QUYỀN BẢO MẬT
THÔNG TIN DOANH NGHIỆP
I.
Những quy định nào người lao động cần phải
tuân theo khi quyết định nghỉ việc?
Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, tuy
nhiên, họ bắt buộc phải báo trước cho người sử dụng lao động một khoảng thời
gian nhất định, trừ một số trường hợp đặc biệt được quy định cụ
thể tại Khoản 2 Điều 35 của Bộ luật Lao động 2019:
“2. Người lao
động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần báo trước trong
trường hợp sau đây:
a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc
không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận, trừ trường hợp quy định
tại Điều 29 của Bộ luật này;
b) Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn, trừ
trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 97 của Bộ luật này;
c) Bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói,
hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng
bức lao động;
d) Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc;
đ) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật này;
e) Đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của Bộ luật này, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;
g) Người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực theo
quy định tại khoản 1 Điều 16 của Bộ luật này làm
ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng lao động.”
Như vậy khi Người lao động không thuộc những trường hợp đặc biết
đã được nêu ở trên thì bắt buộc phải báo trước cho người sử dụng lao động một
khoảng thời gian nhất định. Để Người lao động biết được khoảng thời gian tối
thiểu phải báo cho người sử dụng lao động khi có ý muốn nghỉ việc. Người lao động
cần phải phân biệt rõ hợp đồng xác định thời hạn và hợp đồng không xác định thời
hạn.
Đối với Hợp đồng lao động không xác định thời hạn thì Người lao động
phải báo trước ít nhất 45 ngày. Hợp đồng lao động xác định thời hạn (từ 12
tháng đến 36 tháng) thì Người lao động phải báo trước ít nhất 30 ngày. Hợp đồng
lao động xác định thời hạn (dưới 12 tháng) thì Người lao động phải báo trước ít
nhất 03 ngày làm việc.
Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù, thời hạn
báo trước có thể dài hơn và được quy định cụ thể tại Điều 7 Nghị định
145/2020/NĐ-CP:
“Điều 7.
Thời hạn báo trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với một số
ngành, nghề, công việc đặc thù
Ngành, nghề, công việc đặc thù và
thời hạn báo trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động quy định tại điểm d khoản 1 Điều 35 và điểm d khoản 2 Điều 36 của Bộ luật Lao động như
sau:
1. Ngành, nghề, công việc đặc thù
gồm:
a) Thành viên tổ lái tàu bay; nhân
viên kỹ thuật bảo dưỡng tàu bay, nhân viên sửa chữa chuyên ngành hàng không;
nhân viên điều độ, khai thác bay;
b) Người quản lý doanh nghiệp theo
quy định của Luật Doanh nghiệp; Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất,
kinh doanh tại doanh nghiệp;
c) Thuyền viên thuộc thuyền bộ làm
việc trên tàu Việt Nam đang hoạt động ở nước ngoài; thuyền viên được doanh nghiệp
Việt Nam cho thuê lại làm việc trên tàu biển nước ngoài;
d) Trường hợp khác do pháp luật
quy định.
2. Khi người lao động làm ngành,
nghề, công việc quy định tại khoản 1 Điều này đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động hoặc người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với
những người lao động này thì thời hạn báo trước như sau:
a) Ít nhất 120 ngày đối với hợp đồng
lao động không xác định thời hạn hoặc hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 12
tháng trở lên;
b) Ít nhất bằng một phần tư thời hạn
của hợp đồng lao động đối với hợp đồng lao động có thời hạn dưới 12 tháng.”
Như vậy theo những điều đã được nêu ở trên việc không tuân thủ thời
gian báo trước (nếu không thuộc các trường hợp được nghỉ ngay) được coi là đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Người lao động có thể phải chịu
các trách nhiệm pháp lý nhất định. Để đảm bảo quyền lợi của mình, Người lao động
nên thực hiện việc chấm dứt hợp đồng lao động theo đúng quy định của pháp luật.
II.
Doanh
nghiệp có quyền gì khi Người lao động nghỉ ngang không tuân theo quy định
Doanh nghiệp có thể xem hành vi nghỉ ngang mà không báo trước của Người
lao động là hành vi vi phạm pháp luật được quy định tại Điều 35 Bộ luật lao động
2019:
“Điều 35. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động của người lao động
1. Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
nhưng phải báo trước cho người sử dụng lao động như sau:
a) Ít nhất 45 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động không xác định
thời hạn;
b) Ít nhất 30 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời
hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng;
c) Ít nhất 03 ngày làm việc nếu làm việc theo hợp đồng lao động
xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng;
d) Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù thì thời hạn báo
trước được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
2. Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
không cần báo trước trong trường hợp sau đây:
a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc
không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận, trừ trường hợp quy định
tại Điều 29 của Bộ luật này;
b) Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn, trừ
trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 97 của Bộ luật này;
c) Bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói,
hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng
bức lao động;
d) Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc;
đ) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo quy định tại khoản
1 Điều 138 của Bộ luật này;
e) Đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của Bộ luật
này, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;
g) Người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực theo
quy định tại khoản 1 Điều 16 của Bộ luật này làm ảnh hưởng đến việc
thực hiện hợp đồng lao động.”
Theo đó, nếu không thuộc trường hợp đặc biệt tại khoản hai điều
này việc đơn phương chấm dứt hợp đồng không báo trước của Người lao động là
hành vi được coi là không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo quy định của
pháp luật và sẽ phải chịu hậu quả pháp lý theo quy định tại Điều 40 Bộ luật lao
động 2019:
“Điều 40. Nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
1. Không được trợ cấp thôi việc.
2. Phải bồi thường cho người sử dụng lao động
nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động và một khoản tiền tương ứng với tiền
lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước.
3. Phải hoàn trả cho người sử dụng lao động
chi phí đào tạo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này.”
Như vậy Doanh nghiệp có quyền yêu cầu Người
lao động tự ý nghỉ việc không báo trước bồi thường theo quy định của pháp luật,
bao gồm nửa tháng tiền lương và tiền lương tương ứng với số ngày không báo trước.
Đối với các thiệt hại thực tế khác, Doanh nghiệp phải chứng minh được thiệt hại
và Doanh nghiệp không có quyền trừ lương trực tiếp để bù đắp thiệt hại (trừ các
trường hợp khấu trừ lương theo luật định khác) theo quy định tại Điều 102 Bộ luật
lao động 2019:
“ 102. Khấu trừ tiền lương
1. Người sử dụng lao động chỉ được khấu trừ
tiền lương của người lao động để bồi thường thiệt hại do làm hư hỏng dụng cụ,
thiết bị, tài sản của người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 129 của Bộ luật
này.
2. Người lao động có quyền được biết lý do khấu
trừ tiền lương của mình.
3. Mức khấu trừ tiền lương hằng tháng không
được quá 30% tiền lương thực trả hằng tháng của người lao động sau khi trích nộp
các khoản bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, thuế
thu nhập cá nhân.”
Ngoài ra, Doanh nghiệp có quyền xử lý kỉ luật
đối với Người lao động hoặc khiếu nại, khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của Doanh nghiệp. Và ngoải khoảng bồi thường được quy định tại Điều 40 Bộ
luật lao động nếu Doanh nghiệp chứng minh được các mức thiệt hại thực tế khác.
Doanh nghiệp có quyền yêu cầu mức bồi thường tương ứng với thiệt hại đã chứng
minh và sẽ được tòa án xem xét khi có tranh chấp.
Lưu ý Doanh nghiệp không được giữ bằng cấp của
Người lao động vì bằng cấp của Người lao động được coi là tài sản cá nhân nên mặc
dù Bộ luật lao động không có quy định cụ thể nào về việc cấm giữ bằng cấp. Tuy
nhiên theo Hiến pháp trong trường hợp này việc giữ bằng cấp cá nhân mà không có
sự đồng ý của cá nhân thì sẽ bị coi là xâm phạm quyền sở hữu cá nhân tại Điều
32 Hiến pháp 2013 quy định như sau:
“Điều 32.
1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để
dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp
hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.
2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ.
3. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì
lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai, Nhà nước trưng
mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường.”
III.
Bí
mật kinh doanh và hành vi sử dụng dữ liệu để mở công ty riêng của nhân viên.
Định nghĩa bí mật kinh doanh theo pháp luật được quy định tại Khoản
23 Điều 4 của Luật sở hữu trí tuệ: “Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu
tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh.”.
Theo đó Bí mật kinh doanh là những thông tin quan trọng, mang tính cạnh tranh
và mang lại lợi thế kinh tế cho Doanh nghiệp. Việc bảo mật thông tin này, đặc
biệt khi nhân viên đã nghỉ việc, là vô cùng quan trọng để bảo vệ tài sản trí tuệ
và lợi thế cạnh tranh của công ty.
Việc nhân viên đã nghỉ việc mang theo dữ liệu khách hàng hoặc sử dụng
dữ liệu cũ có thể bị coi là hành vi vi phạm pháp luật nếu dữ liệu khách hàng
đáp ứng đủ các tiêu chí bí mật kinh doanh đã được giải thích ở trên. Thậm chí
là dữ liệu khách hàng không nhất thiết phải đủ tiêu chí nếu như giữa Doanh nghiệp và nhân viên có thỏa thuận cam kết bảo mật (NDA) hoặc trong đồng
lao động có các điều khoản về bảo mật thông tin khách hàng và cam kết không sử
dụng thông tin này sau khi nghỉ việc, thì việc mang theo và sử dụng dữ liệu là
hành vi vi phạm hợp đồng.
Hành vi nhân viên dùng dữ liệu khách hàng hoặc dữ liệu cũ để mở
công ty riêng có thể bị coi là hành vi vi phạm pháp luật như trường hợp vừa nêu
trên nếu dữ liệu là bí mật kinh doanh. Và nếu có thỏa thuận giữa Doanh nghiệp và nhân viên thì nhân viên đã vi phạm thỏa thuận theo Điều 127 Luật
sở hữu trí tuệ quy định:
“Điều 127. Hành
vi xâm phạm quyền đối với bí mật kinh doanh
1. Các hành
vi sau đây bị coi là xâm phạm quyền đối với bí mật kinh doanh:
a) Tiếp cận,
thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo
mật của người kiểm soát hợp pháp bí mật kinh doanh đó;
b) Bộc lộ, sử
dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí mật
kinh doanh đó;
c) Vi phạm hợp
đồng bảo mật hoặc lừa gạt, xui khiến, mua chuộc, ép buộc, dụ dỗ, lợi dụng lòng
tin của người có nghĩa vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập hoặc làm bộc lộ bí mật
kinh doanh;
d) Tiếp cận,
thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người nộp đơn theo thủ tục xin cấp
phép kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật
của cơ quan có thẩm quyền;
đ) Sử dụng, bộc
lộ bí mật kinh doanh dù đã biết hoặc có nghĩa vụ phải biết bí mật kinh doanh đó
do người khác thu được có liên quan đến một trong các hành vi quy định tại
các điểm a, b, c và d khoản này;
e) Không thực
hiện nghĩa vụ bảo mật quy định tại Điều 128 của Luật này.
2. Người kiểm soát hợp pháp bí mật
kinh doanh quy định tại khoản 1 Điều này bao gồm chủ sở hữu bí mật kinh doanh,
người được chuyển giao hợp pháp quyền sử dụng bí mật kinh doanh, người quản lý
bí mật kinh doanh.”
Đồng thời, Nhân viên còn có thể bị coi là có hành vi cạnh tranh
không lành mạnh tại Khoản 1 Điều 45 Luật cạnh tranh:
“Điều 45. Các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm
1. Xâm phạm thông tin bí mật trong
kinh doanh dưới các hình thức sau đây:
a) Tiếp cận, thu thập thông tin bí
mật trong kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người sở hữu
thông tin đó;
b) Tiết lộ, sử dụng thông tin bí mật
trong kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu thông tin đó.”
IV.
Thực
tế việc kí cam kết, thỏa thuận bảo mật giữa Doanh nghiệp và Người lao động
a.
Nếu
chỉ có hợp đồng lao động:
Trong thực tế có nhiều Doanh nghiệp không ký thỏa thuận bảo mật
riêng biệt (NDA) và các ràng buộc về bảo mật thông tin chủ yếu nằm trong hợp đồng
lao động. Tuy nhiên trường hợp nhân viên nghỉ ngang mang theo dữ liệu khách
hàng hoặc sử dụng dữ liệu cũ để mở công ty riêng, Doanh nghiệp vẫn có những
hành động pháp lý nhất định có thể thực hiện.
Dựa vào hợp đồng lao động có thể có các điều khoản chung về nghĩa
vụ bảo mật thông tin của công ty trong thời gian làm việc và sau khi chấm dứt hợp
đồng. Dù không chi tiết như NDA, những điều khoản này vẫn có thể là cơ sở để chứng
minh nhân viên có nghĩa vụ bảo mật. Dựa vào hợp đồng lao động, Luật Sở hữu trí
tuệ (nếu chứng minh được là bí mật kinh doanh) và Luật Cạnh tranh, Doanh nghiệp
có thể gửi văn bản chính thức nhắc nhở nhân viên cũ về nghĩa vụ bảo mật theo hợp
đồng lao động và yêu cầu chấm dứt hành vi sử dụng thông tin trái phép. Nếu có bằng
chứng rõ ràng về việc nhân viên vi phạm các điều khoản bảo mật trong hợp đồng
lao động và gây thiệt hại, Doanh nghiệp có thể khởi kiện tại Tòa án để yêu cầu
bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên vì không có kí kết thỏa thuận
bảo mật riêng biệt (NDA) nên việc chứng minh vi phạm và yêu cầu Tòa án bồi
thương sẽ gặp nhiều khó khăn nên việc chứng minh được vi phạm là điều rất quan
trọng. Do đó, việc chủ động thực hiện các biện pháp bảo mật thông tin chặt chẽ
ngay từ đầu là vô cùng quan trọng để phòng ngừa rủi ro.
b.
Giải
pháp để ngăn chặn việc rò rỉ bí mật kinh doanh:
Trong tương lai, để tránh tình trạng "lỏng tay" như vậy,
Doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp sau:
·
Ký
kết Thỏa thuận Bảo mật (NDA) chi tiết: Với tất cả nhân viên có quyền truy cập
vào thông tin quan trọng.
·
Xây
dựng và thực thi Chính sách Bảo mật nội bộ: Quy định rõ ràng về việc quản lý, sử
dụng và bảo vệ thông tin của công ty.
·
Có
điều khoản bảo mật chặt chẽ trong Hợp đồng Lao động.
·
Phân
quyền truy cập thông tin: Hạn chế quyền truy cập chỉ cho những người cần thiết.
·
Giám
sát hoạt động truy cập và sử dụng thông tin.
·
Đào
tạo nhân viên về tầm quan trọng của bảo mật thông tin.
·
Thực
hiện thủ tục bàn giao chặt chẽ khi nhân viên nghỉ việc.
·
Thu
hồi quyền truy cập và tài sản công ty ngay lập tức khi nhân viên nghỉ việc.

HÌNH ẢNH LS TRẦN MINH HÙNG - LS GIỎI VÀ GIÀU KINH
NGHIỆM BÀO CHỮA NHIỀU VỤ ÁN LỚN NÊN ĐƯỢC NHIỀU ĐÀI TRUYỀN HÌNH QUỐC GIA NHƯ
HTV, VTV,VOV,VOH, TRUYỀN HÌNH CÔNG AN ANTV, TRUYỀN HÌNH QUỐC HỘI VIỆT NAM, QUỐC
PHÒNG, TÂY NINH, CẦN THƠ, BÌNH DƯƠNG, TRUYỀN HÌNH VĨNH LONG, TƯ VẤN LUẬT TRÊN
BÁO CHÍ CHÍNH THỐNG, NHIỀU TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỜI PHỎNG VẤN, CHIA SẼ KINH NGHIỆM,
TRAO ĐỔI PHÁP LÝ, GÓP Ý KIẾN PHÁP LÝ CHO NGƯỜI DÂN, SINH VIÊN, CHO CÁC CHUYÊN
GIA.
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ GIA ĐÌNH Với phương châm chủ đạo
“LUẬT SƯ CỦA GIA ĐÌNH BẠN”, Tên LUẬT SƯ GIA ĐÌNH không có nghĩa chúng tôi chỉ
chuyên về hôn nhân gia đình, mà nghĩa là Chúng tôi là Luật sư của Gia Đình Bạn,
Luật sư của mọi người. Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư
giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực
chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên
nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi
quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công
bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và
những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào
chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên
đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và
phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy
hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia
đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải
oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho
thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.
Luật sư Trần Minh Hùng – Tốt nghiệp đại học Luật
TPHCM, tốt nghiệp Học viện Tư Pháp, Tốt nghiệp Luật sư, thuộc Đoàn LS TPHCM,
Thuộc Liên đoàn LSVN là một trong những luật sư sáng lập văn phòng luật, giàu
kinh nghiệm về kiến thức và thực tiễn đã dành nhiều thắng lợi vụ kiện và quan
trọng luật sư Hùng luôn coi trọng chữ Tâm của nghề luật sư và trách nhiệm đối
với xã hội nên đã được nhiều hãng báo chí, truyền thông, Đài truyền hình, Đài
tiếng nói Việt nam phỏng vấn pháp luật,
nhiều lĩnh vực quan trọng liên quan đến đời sống. Luật sư Trần Minh
Hùng là đối tác tư vấn pháp luật được nhiều hãng truyền thông, báo chí trong
nước tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn trên VOV
Giao Thông – Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh VOH TPHCM, Đài truyền hình
TP.HCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Truyền hình SCTV, THĐN,
Truyền hình Quốc Hội VN, Truyền hình Công an ANTV, Đài truyền hình
Vĩnh Long, Đài phát thanh kiên giang, Đài Bình Dương, Truyền hình Quốc Phòng,
VTC... và các hãng báo chí trên cả nước, được các tổ chức, trường Đại học
Luật TP.HCM mời làm giám khảo các cuộc thi Phiên tòa giả định với Đại học cảnh
sát, mời làm chuyên gia ý kiến về các sự kiện lớn, được mời dạy bồi dưỡng
nghiệp vụ cho các luật sư……là đối tác tư vấn luật của các hãng truyền thong, các
tổ chức, xã hội uy tín và chuyên nghiệp và luôn mang lại niềm tin cho khách hàng và ghi nhận sự đóng góp
của chúng tôi cho xã hội...là luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án
đỉnh điểm, quan trọng báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng
Navibank liên quan Huyền Như Viettinbank, các vụ Giết Người do mâu thuẫn hát
karaoke tại Bình Chánh, Bào chữa chủ tịch Huyện Đông Hòa –
Phú Yên, Đại án Vụ cướp bitcoin 35
tỷ Long Thành- Dầu Dây, Bào chữa vụ Đại Án Đăng Kiểm, Bào chữa vụ đại án Khai
thác Cát Cần giờ, Bào chữa bị cáo Huân không đeo khẩu trang mùa Covit, Vụ Nữ
sinh Tân Bình bị cắt tai, bảo vệ cho MC Trấn Thành, Bào chữa, bảo vệ vụ
"Bác sĩ khoa rút ống thở", Bảo vệ cho người cho thuê nhà vụ Công ty
Thế giới Di Động không trả tiền thuê nhà mùa dịch covid, Tư vấn cho nghệ sĩ
Thương Tín, bảo vệ vụ đổ xăng đốt 10 người tại TPHCM, các vụ Hiếp dâm, Dâm ô,
Lừa Đảo, cưỡng đoạt, cướp, gây thương tích, tham ô, mua bán ma túy, cố ý làm
trái, bào chữa vụ án cựu Cảnh sát Buôn Lậu và các bị cáo kiên quan, bào chữa vụ chiếm đoạt tiền công nghệ của nước Úc
của bị can về công nghệ, bào chữa vụ Mua bán khẩu trang mùa covid, bào chữa
nhiều vụ án ma túy, bào chữa vụ lợi dụng chức vụ quyền hạn của tổ chức tín dụng
ngân hàng... .… và rất nhiều các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế,
đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho
khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không
biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi..…là hãng luật tư vấn luật cho
nhiều công ty Việt Nam và nước ngoài trên cả nước luôn mang lại niềm tin
cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không
biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Đối
tác tư vấn pháp luật của các tờ báo uy tín, đài truyền hình uy tín, nhiều khách
hàng, đối tác, doanh nghiệp như:
Khoa Luật đại học Mở TPHCM, Đại học luật TPHCM, Cao đẳng Nghề Phú Lâm, Công ty
chế biến trái cây Yasaka (Nhật bản), Công ty Nam Chê (Hàn Quốc), Công ty Cổ phần
thương mại dịch vụ Bến Thành (Cổ phần nhà nước), Công ty TNHH Kỹ Thuật Năng Lượng,
Công ty Vina Buhmwoo (Hàn Quốc), Công ty ECO SYS Kim Trường Phát (Hàn Quốc),
Công ty cổ phần BĐS BiG Land, Công ty TNHH dược phẩm AAA, Công ty
TNHH Hanwa Kakoki Việt Nam (Nhật Bản), Công ty TNHH DV BV Ti Tan, Công ty CP
Chuỗi Nông sản Sài gòn, Công ty CP BĐS Happy Land S, Công ty CP SG Xây dựng (cổ
phần hóa nhà nước), Công ty CP Maduphar, Công ty Thủy sản Đắc Lộc (Phú Yên),
Công ty Thủy Sản Ocean Country, Công ty Blue Bay, Công ty Gallent, Công ty
Hàn Quốc DEASUNG, Công ty Innoluk,
Công ty TNHH FURUSHIMA VIỆT NAM, Công
ty Kim Trường Phát (Hàn Quốc), Công ty VEDAN , Bệnh viện MVN (Việt – Nga), Công ty
Yasak …và nhiều công ty, khách hàng
khác trên khắp cả nước.
Quý khách có nhu cầu tư vấn về pháp luật thừa kế,
tranh chấp thừa kế là nhà và đất, làm di chúc, khai nhận di sản theo pháp luật
hoặc di chúc, bào chữa án hình sự, đất đai, ly hôn, kinh tế, hợp đồng, doanh
nghiệp, thu hồi nợ…. tại thành phố Thủ Đức, Quận 1, Quận 3, Quận 4, Quận
5, Quận 6, Quận 7, Quận 8, Quận 10, Quận 11, Quận 12, Quận Bình Tân, Quận Bình
Thạnh, Quận Gò Vấp, Quận Phú Nhuận, Quận Tân Bình, Quận Tân Phú, Huyện Bình
Chánh, Huyện Cần Giờ, Huyện Củ Chi, Huyện Hóc Môn, Huyện Nhà Bè hãy nhấc máy gọi
ngay cho luật sư chúng tôi để được tư vấn và sử dụng dịch vụ…0972238006 để được
tư vấn và hẹn gặp luật sư giàu kinh nghiệm Trần Minh Hùng. Các luật sư giàu kinh nghiệm khác như LS LÊ VĂN
THÔNG, CHÂU VĂN VIÊN, LÊ MINH NHẬT, TRẦN TẤN HƯNG, NGUYỄN NGỌC HỒ, HỒ ĐÌNH CƯỜNG…đều
là luật sư kinh nghiệm lâu năm tại VPLS GIA ĐÌNH. Ngoài ra, chúng tôi còn
chuyên dịch vụ thừa kế, nhà đất, ly hôn, thừa kế, khai nhận thừa kế, giấy phép
kinh doanh, di chúc, sang tên nhà đất, làm sổ hồng, sổ đỏ, hoàn công, đổi sổ, cấp
mới…và các dịch vụ pháp lý khác.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư
Thành Phố).
Văn phòng quận 6: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công
chứng số 7)
Văn phòng quận 1: 68/147
Trần Quang Khải (số mới: Trần Nguyên Đán), Tân Định, quận 1, TPHCM
Văn phòng Biên Hòa: 5/1
Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
Điện thoại: 0972238006- 028-38779958;
Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng:
0972 238006 (zalo, facebook, viber,telegram)
https://www.youtube.com/@LUATSUTUVANBAOCHUA/about
tiktok: www.tiktok.com/@luatsuminhhung
facebook: Trần Minh Hùng
Email: luatsuthanhpho@gmail.com
http://www.luatsugiadinh.net.vn
|