CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc
lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN ĐỀ NGHỊ
XEM XÉT THEO THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM (đơn bổ sung)
Đối với Bản án hình sự phúc thẩm số: ……………………
Kính gửi: Tòa
Án Nhân Dân Cấp Cao Tại TPHCM
Họ
tên người đề nghị:………………………
Tôi
đã gửi kiến nghị giám đốc thẩm đến tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh nhưng theo biên nhận ngày………………..này tôi tiếp tục làm đơn bổ sung như sau:
Đề
nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 59/2022/HS-PT ngày 30/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Tân An
và Bản
án hình
sự phúc thẩm số: 14/2023/HS-PT ngày 24/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
Lý
do đề nghị:
Cả 2 bản án trên đã có nhiều vi phạm khi xét xử cả về
nội dung và thủ tục tố tụng, cụ thể những vi phạm sau:
Thứ
nhất:
-
Tòa
án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều nhận định tôi đã bỏ ra 40.000.000 triệu đồng (bốn
mươi triệu đồng) để mua 1000 điểm với nhà cái. Tuy nhiên trên thực tế, tôi
không chủ động tìm gặp ai để mua tài khoản chơi bài trên mạng với 1000 điểm
tương đương 40.000.000 triệu đồng (bốn mươi triệu đồng), mà được một người lạ
tên Điệp giới thiệu, cung cấp mật khẩu trò chơi và nói với tôi cứ chơi thử và hẹn
1 tuần sau sẽ gặp lại. Do đó, việc tòa sơ thẩm và phúc thẩm kết luận tôi đã thỏa
thuận và mua 1000 điểm tương đương 40.000.000 đồng là chưa đúng sự thật và
không có căn cứ.
-
Hơn nữa, do trong quá trình tạm giam,
tôi không thừa nhận đã có giao dịch mua điểm với Điệp, nên sau khi được tại ngoại,
kiểm sát viên Nguyễn Thanh Vũ (người trực tiếp điều tra và báo cáo vụ án) đã gọi
điện thoại, với mục đích “giúp đỡ”, cho anh ruột của tôi là ông Huỳnh Trung Tiến,
yêu cầu anh tôi bảo tôi gặp Vũ để thừa nhận việc tôi đã giao dịch mua điểm với
người tên Điệp, đến khi được tôi yêu cầu gửi thư triệu tập theo trình tự pháp
luật thì kiểm sát viên này mới ngừng điện thoại. Qua đó, hành vi của kiểm sát
viên Vũ đã vô tình chứng minh kết luận của cơ quan điều tra, bản cáo trạng, kết
luận của tòa án sơ thẩm và phúc thẩm rằng việc tôi có giao dịch mua điểm là
chưa xảy ra và không có căn cứ, có dấu hiệu sai phạm nghiêm trọng trong quá
trình lấy cung của cơ quan điều tra và tố tụng. Đồng thời, việc gọi điện
thoại của kiểm sát viên Nguyễn Thanh Vũ nhằm dụ cung, mớm cung để thu lợi cá
nhân đã thể hiện hành vi lợi dụng chức quyền, vi phạm pháp luật nghiêm trọng, gây
ảnh hưởng lớn đến hồ sơ vụ án của tôi. Rõ ràng tôi không thỏa thuận giao dịch
mua điểm với Điệp mà xét xử tôi có tội tổ chức là không đúng.
-
Bằng chứng cụ
thể là 5 đoạn ghi âm kèm theo (một usb) và 5 bản đánh máy. Trong đó, có ba đoạn
ghi âm là cuộc đối thoại giữa kiểm sát viên Vũ với ông Huỳnh Trung Tiến (anh
ruột của tôi) về nội dung được nêu ở trên. Bên cạnh đó, kiểm sát viên này còn
nhiều lần gọi điện vòi vĩnh, lấp liếm yêu
cầu anh tôi đưa “chút đỉnh cho mấy sếp” với lý do đã giúp tôi “lách luật”
trong các bản báo cáo điều tra mà kiểm sát viên này phụ trách để tư lợi cá
nhân, đến khi được tôi yêu cầu gửi thư triệu tập theo trình tự pháp luật thì
kiểm sát viên này mới ngừng điện thoại. Tuy nhiên, kiểm
sát viên này vẫn báo cáo sai sự thật trong bản cáo trạng rằng tôi đã trả tiền để
mua điểm với số tiền 40.000.000 đồng, là sai với lời khai của tôi (bút lục số
70-71 kèm theo). Thông qua các chứng cứ đã nêu, cho thấy kiểm sát viên
này đã có dấu hiệu tư thù cá nhân, hành vi vi phạm nghiêm trọng trong quá trình
điều tra và tố tụng, làm sai lệch kết quả báo cáo của tôi và các bị cáo khác. Kiểm
sát viên Vũ cũng biết tôi không hề có giao dịch mua điểm cũng như tổ chức(thừa
nhận trang web đã bị khóa, không điều tra được), nhưng vẫn không yêu cầu mở rộng
điều tra để làm rõ sự việc mà chỉ vội vàng kết luận đổ dồn trách nhiệm, tội
danh cho tôi.
-
Hai đoạn ghi âm còn lại là cuộc đối thoại giữa bị cáo
Hồng và bị cáo Mai với kiểm sát viên Vũ về việc kiểm sát viên này lợi dụng chức
quyền để yêu cầu gia đình bị cáo Hồng đưa tiền thì bị cáo Hồng mới hết bị tạm
giam. Đến ngày 13/08/2022, bị cáo Hồng nộp đơn tố giác hành vi của kiểm sát
viên Nguyễn Thanh Vũ. Ngày 15/08/2022, kiểm sát viên này đem số tiền nói
trên(50.000.000 đồng) vào nhà trả lại cho bị cáo Mai (chị của bị cáo Hồng).
Thứ hai:
-
Như tôi đã làm trong đơn đề nghị giám đốc thẩm lần 1 là
tôi không tổ chức và không sử dụng mạng máy tính, internet, viễn thông để đánh
bạc và tổ chức đánh bạc vì theo hướng dẫn nghiệp vụ của ngành Tòa án tại Công
văn số 196/TANDTC-PC ngày 04/9/2018 và Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019
cùng các bản án trên cổng thông tin điện tử của TANDTC liên quan đến vấn đề
này, có thể hiểu sử dụng mạng internet để đánh bạc là việc các đối tượng sử
dụng tài khoản đánh bạc do tổng đại lý cá cược cung cấp để đăng nhập vào các
trang mạng đánh bạc trực tuyến không được phép hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam
tham gia đánh bạc nhằm mục đích thắng thua bằng tiền. Việc người phạm tội sử
dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử
khác như là phương tiện để liên lạc với nhau (ví dụ: nhắn tin qua điện thoại,
qua email, zalo, viber.... để ghi số đề, lô tô, cá độ...) mà không hình thành
nên các trò chơi được thua bằng tiền hoặc hiện vật trực tuyến thì không thuộc
trường hợp sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương
tiện điện tử để đánh bạc. Ngoài ra, cũng cần phân biệt với các trường hợp sử
dụng điện thoại, máy tính truy cập vào internet xem đá gà, bóng đá,…hoặc sử
dụng các ứng dụng như: lắc bầu cua, lắc tài xỉu, .. rồi cá cược trực tiếp với
nhau không thông qua các tài khoản trực tuyến thì cũng không thuộc
trường hợp sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương
tiện điện tử để đánh bạc.
Theo đó, chỉ áp dụng tình tiết “Sử dụng mạng internet,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội” đối với hành vi đăng nhập vào
tài khoản trên các trang mạng đánh bạc trực tuyến (có kết nối mạng internet)
không được phép hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và sử dụng tài khoản này để đặt cược, tham gia đánh bạc trực tuyến. Khi hành vi
đặt cược và tham gia đánh bạc không thông qua tài khoản trên trang mạng đánh
bạc trực tuyến thì không áp dụng tình tiết này. Do đó, việc tòa án sơ
thẩm và phúc thẩm nhận định tôi và các bị cáo khác sử dụng mạng internet, mạng
máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử khác để phạm tội là chưa
chính xác, có sai phạm trong việc áp dụng điều luật của cơ quan tố tụng.
Thứ Ba:
-
Căn cứ theo quy định tại Điều 321, 322 BLHS để xác định
tội danh. Đặc thù của loại án này, đó là việc từ một tài khoản đánh bạc ban đầu
do tổng đại lý giao, các đối tượng sẽ chia nhỏ thành nhiều tài khoản rồi giao
lại cho các đại lý cấp 1, đại lý cấp 1 tiếp tục giao cho đại lý cấp 2 với số
tiền cao hơn nhằm hưởng tiền chênh lệch, tương tự cho đến cuối cùng sẽ là người
trực tiếp sử dụng tài khoản để đánh bạc.Do đó, khi xác định tội danh đối với
loại án này, cần lưu ý một số vấn đề sau:
Người nhận tài khoản và chia nhỏ thành nhiều tài khoản
khác rồi giao lại cho người khác để hưởng tiền chênh lệch được xác định là phạm
tội “Tổ chức đánh bạc” trong khi thỏa mãn 01 trong 02 trường hợp sau: (1) Số
người nhận tài khoản từ 10 người trở lên trong cùng 01 cấp đại lý mà tổng số
tiền, hiện vật dùng đánh bạc của những người này từ 5.000.000 đồng trở lên. (2)
Tổng số tiền, hiện vật của những người nhận tài khoản và trực tiếp tham gia
đánh bạc trong cùng một lần từ 20.000.000 đồng trở lên. Nếu không thỏa mãn hai
trường hợp trên thì đồng phạm tội “Đánh bạc”.
Ví dụ: A nhận 01 tài khoản rồi chia nhỏ thành 15 tài
khoản giao lại cho 15 người để 15 người này trực tiếp tham gia đánh bạc hoặc có
thể tiếp tục giao lại cho nhiều người khác và đều làm việc được với 15 người
nhận tài khoản, xác định được số tiền dùng đánh bạc là trên 5.000.000 đồng.
Trong trường hợp này, A phạm tội “Tổ chức đánh bạc”, 15 người nhận tài khoản
phạm tội “Đánh bạc”. Nếu trong 15 người nhận tài khoản, có người tiếp tục chia
nhỏ tài khoản để giao lại cho người khác mà thỏa mãn điều kiện như trên thì
cũng phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.
Căn cứ theo qui định và ví dụ trên, thì hành vi của tôi không
cấu thành tội tổ chức đánh bạc.
Thứ Tư:
-
Tôi
thực tế không rủ hay tổ chức đánh bạc, không bàn bạc hay lôi kéo bất kỳ ai, những
bị cáo nào khai tôi tổ chức đều chỉ là lời khai mà không có chứng cứ vật chất
chứng minh tổ chức. Tuy nhiên, cả hai bản án và cáo trạng, kết luận điều tra đều
cho rằng tôi liên lạc với các bị cáo để tổ chức đánh bạc nhưng cơ quan tố tụng
không trích xuất điện thoại của tôi và của các bị cáo xem ai liên lạc cho ai,
không trích xuất tại các tổng đài điện thoại xem chúng tôi ai liên lạc ai, ai rủ
ai đánh bạc, tổ chức, mà chỉ dựa vào lời khai cho tôi là tổ chức đánh bạc là
thiếu căn cứ. Hơn thế, trong phiên sơ thẩm các bị cáo đều đã khai là tôi không
có điện thoại rủ rê họ đến quán cà phê để chơi đánh bạc cùng tôi, mà là họ tự đến
để uống cà phê, nhưng vì một số lý do nào đó, những lời khai đó lại không được
ghi nhận hay báo cáo lại trong bản án sơ thẩm.
Tất cả chỉ dựa vào lời khai để buộc tội tôi mà không
có chứng cứ vật chất. Pháp luật quy định không được dùng lời khai duy nhất của
bị cáo để buộc tội bị cáo.
Thứ
Năm:
-
Vụ
án chưa tìm được người tên Điệp để làm rõ tài khoản, mật khẩu do người này giao
cho tôi mà kết tội tôi tổ chức đánh bạc, kết tội tôi vào các trang web tổ chức
đánh bạc là thiếu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của tôi, đây là sự suy
đoán của cơ quan điều tra và cơ quan tố tụng, chỉ có nguyên tắc suy đoán vô tội
chứ không có nguyên tắc suy đoán có tội. Hơn nữa, trong bản kết luận điều tra
và cáo trạng đều nêu rằng “đối với người thanh niên tên Điệp (không rõ họ
tên địa chỉ), do không đủ thông tin nên chưa xác minh, mời làm việc được nên
tách ra xử lý riêng, khi mời xác minh, làm việc được sẽ tiếp tục điều tra xử lý
sau.” là chưa đúng pháp luật, gây oan sai cho tôi, tôi bị oan.
-
Thêm
vào đó, mật khẩu điện thoại tôi mở vào trang web không được thì căn cứ nào nói
tôi tổ chức đánh bạc trên mạng internet, điện thoại…khi bị bắt quả tang, chứng
cứ tịch thu điện thoại không phải thu từ tôi, mà tịch thu khi điện thoại đang ở
trên bàn uống cà phê. Việc cho rằng tôi tổ chức đánh bạc theo khoản 2, điểm c
là dùng mạng máy tính, internet, viễn thông là không có căn cứ, cơ quan điều
tra cũng không trích xuất làm rõ được các trang web, không vào được mật khẩu,
không trích xuất được dữ liệu, thông tin tài khoản thì làm sao cho tôi là sử dụng
mạng máy tính, viễn thông, internet để tổ chức đánh bạc, tất cả chỉ là suy luận
mà không có chứng cứ vật chất buộc tội. Rõ ràng căn cứ theo hướng dẫn
nghiệp vụ của ngành Tòa án tại Công văn số 196/TANDTC-PC ngày 04/9/2018 và Công
văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 cùng các bản án trên cổng thông tin điện tử
của TANDTC thì hành vi của tôi hoàn toàn không cấu thành tội tổ chức đánh bạc
như 2 bản án kết tội oan sai cho tôi.
Thứ Sáu:
-
Cơ quan điều tra cũng chưa xác định cụ thể từng ván ai
thắng, ai thua, số tiền cụ thể của từng ván như thế nào để ra được số tiền
5.420.000 đồng. Tuy nhiên, tất cả các bản kết luận điều tra cũng như bản án sơ
thẩm và phúc thẩm đều cho rằng tôi và bị cáo Hồng thu lợi bất chính với tổng số
tiền là 5.420.000 đồng là hoàn toàn không đúng, vì đó là tổng số tiền tang vật
của tất cả người chơi khi bị bắt, chứ tôi hay bị cáo Hồng hoàn toàn không thu
về số tiền lớn như đã nêu. Bên cạnh đó, bị cáo Mai khai với cơ quan điều tra là
có đưa 10.000 tiền xâu cho tôi là chưa đủ thuyết phục vì không có căn cứ nào để
chứng minh cho lời nói của bị cáo này là đúng, hoàn toàn chỉ xuất phát từ một
phía và tôi cũng chưa bao giờ yêu cầu hay có ý định đề nghị bà Mai đưa tôi tiền
xâu.
-
Tôi cũng như các bị cáo khác chỉ trực tiếp cá cược với
nhau, chứ không có sát phạt, cá cược với nhà cái và cũng không có bất kỳ giao
dịch trực tuyến nào và chỉ cá cược bằng lời nói với nhau. Tôi chỉ bỏ ra số tiền
2.500.000 làm vốn để các cược với các bị cáo khác. Trước khi bị bắt, tôi có nhờ
bị cáo Hồng cầm tiền để tôi đi vệ sinh chứ không hề có mục đích hay hành vi nhờ
bị cáo Hồng chung chi tiền cho ai hết. Tại phiên tòa phúc thẩm, tôi thừa nhận
có tham gia đánh bạc trực tiếp với các bị cáo khác chứ vẫn không thừa nhận hành
vi tổ chức đánh bạc như bản án sơ thẩm và phúc thẩm đã nêu.
Thứ Bảy:
-
Cơ quan điều tra luôn hỏi cung quá giờ
làm việc, hỏi tới đêm, có lúc tới 21h đêm làm tôi mệt mỏi, mắt mờ, rã rời. Cơ
quan điều tra không cho tôi đọc lại bản khai, bản cung khi hỏi cung mà bắt tôi
ký nhanh. Những điều này đều có nhiều bị can khác làm chứng.
Yêu
cầu của người đề nghị:
-
Hoãn thi hành án phúc thẩm số …………………
-
Hủy cả hai bản án Hình sự sơ thẩm ………………..của Tòa án nhân dân tỉnh Long An để điều
tra, xét xử lại theo hướng tôi không phạm tội tổ chức đánh bạc,
và xem xét áp dụng khung hình phạt khác đối với hành vi đánh bạc của tôi. Việc
xét xử tôi như 2 bản án nêu trên là oan cho tôi, tôi vô tội.
Kèm
theo đơn đề nghị là các tài liệu, chứng cứ sau đây:
-
Bản
sao bản
án hình
sự sơ thẩm số………………………
-
Bản sao bản
bút lục số 70-71 của cơ quan điều tra.
Long
An, ngày tháng năm 2023
NGƯỜI
LÀM ĐƠN BỔ SUNG
HUỲNH THỊ TRANG THU

LS TRẦN MINH HÙNG, LS GIỎI THƯỜNG XUYÊN ĐƯỢC HTV, VTV, VOV, CÔNG AN, QUỐC HỘI, THVL, BÁO CHÍ....
|