Luật áp dụng cho quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài
1. Thừa kế theo luật
Thừa kế theo luật được đặt ra trong trường hợp không có di chúc hoặc di chúc không hợp pháp. Trong thừa kế theo luật, người được hưởng thừa kế (hàng thừa kế), điều kiện, trình tự hưởng thừa kế đều do pháp luật quy định chứ không phải do ý chí của người để lại di sản thừa kế. Nói cách khác, thừa kế theo luật là thừa kế trên cơ sở can thiệp của Nhà nước thông qua pháp luật về thừa kế. Hiện nay, để giải quyết vấn đề chọn luật áp dụng trong quan hệ thừa kế theo luật, tư pháp quốc tế các nước áp dụng 2 nguyên tắc:
- Nguyên tắc phân chia di sản thừa kế: được áp dụng phổ biến tại các nước theo hệ thống luật Anh - Mỹ (Anh, Mỹ, Úc, Achentina, Đan Mạch…) và Pháp. Để giải quyết các vấn đề thừa kế, pháp luật các nước này phân chia di sản thừa kế làm hai loại là bất động sản và động sản. Mỗi loại di sản có nguyên tắc áp dụng pháp luật giải quyết khác nhau: (i) đối với động sản, áp dụng luật nơi người để lại có quốc tịch hoặc có nơi cư trú cuối cùng; (ii) đối với bất động sản, áp dụng luật nơi có tài sản (lex rei sitae) kể cả trong trường hợp thừa kế sẽ được xác định theo luật nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản thừa kế (lex domicille).
- Nguyên tắc thống nhất di sản thừa kế: được áp dụng phổ biến tại một số nước Tây Âu như Đức, Tây Ban Nha, Italia, Bồ Đào Nha… Pháp luật các nước này không phân chia di sản thừa kế thành các loại khác nhau mà thống nhất giải quyết toàn bộ di sản thừa kế theo nguyên tắc luật nhân thân của người để lại di sản thừa kế, cụ thể là Luật quốc tịch của người để lại di sản thừa kế (lex patriae). Cách giải quyết này cũng được áp dụng tại Nhật Bản, Ai Cập…
Về thừa kế theo luật, Việt Nam áp dụng nguyên tắc phân chia di sản thừa kế để giải quyết xung đột pháp luật trong quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài. Theo Điều 767 BLDS 2005 thì: "1. Thừa kế theo pháp luật phải tuân theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch trước khi chết; 2. Quyền thừa kế đối với bất động sản phải tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó”. Như vậy, đối với di sản thừa kế là động sản, tư pháp quốc tế Việt Nam áp dụng nguyên tắc Luật quốc tịch. Điều này có nghĩa là luật áp dụng đối với quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài mà di sản để lại thừa kế là động sản là luật của nước mà người để lại di sản có quốc tịch trước khi chết. Pháp luật Việt Nam sẽ áp dụng đối với các quan hệ thừa kế mà công dân Việt Nam là người để lại di sản thừa kế là động sản bất kể quan hệ này xảy ra ở đâu và di sản đang hiện diện ở nước nào. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam sẽ không được áp dụng khi công dân nước ngoài để lại di sản là động sản hiện diện trên lãnh thổ Việt Nam và quan hệ thừa kế xảy ra tại Việt Nam. Theo quan điểm của một số tác giả, với giải pháp này "sẽ cho phép pháp luật Việt Nam có nhiều cơ hội được áp dụng trong thực tế”.
Riêng đối với thừa kế theo luật mà di sản thừa kế là bất động sản, tư pháp quốc tế Việt Nam áp dụng nguyên tắc Luật nơi có vật. Điều này có nghĩa là công dân Việt Nam để lại di sản thừa kế là bất động sản thì pháp luật Việt Nam không có cơ hội áp dụng nếu bất động sản không hiện diện ở Việt Nam và ngược lại, pháp luật Việt Nam sẽ được áp dụng khi công dân nước ngoài để lại di sản thừa kế là bất động sản hiện diện trên lãnh thổ Việt Nam. Giải pháp này phù hợp với bản chất của các quan hệ pháp luật có liên quan đến bất động sản và được quy định trong nhiều văn bản pháp luật Việt Nam và được nhiều người đồng tình.
2.Thừa kế theo di chúc
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Do đó, khác với thừa kế theo luật, thừa kế theo di chúc chính là sự chuyển dịch tài sản từ người chết sang người sống trên cơ sở ý chí của người chủ sở hữu tài sản để lại thừa kế. Trong pháp luật về thừa kế theo di chúc thì năng lực hành vi lập và hủy bỏ di chúc, hình thức di chúc là những nội dung cơ bản. Để chọn luật áp dụng cho các vấn đề trên, tư pháp quốc tế các nước trên thế giới áp dụng nhiều nguyên tắc khác nhau:
- Theo pháp luật Anh, Mỹ (những nước theo nguyên tắc phân chia di sản thừa kế): năng lực hành vi lập di chúc, hình thức di chúc đối với di sản thừa kế là động sản do luật nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản thừa kế điều chỉnh (lex domicilli); đối với di sản thừa kế là bất động sản do luật của nước nơi có tài sản điều chỉnh.
- Ở Đức và một số nước Tây Âu khác (những nước theo nguyên tắc thống nhất di sản thừa kế): (i) năng lực hành vi lập và hủy bỏ di chúc được xác định theo luật nơi cư trú cuối cùng của người lập di chúc hoặc theo luật của nước nơi lập di chúc; (ii) hình thức di chúc được coi là hợp pháp nếu nó đáp ứng được yêu cầu của một trong các hệ thống pháp luật sau đây: luật quốc tịch của người lập di chúc, luật nơi cư trú của người lập di chúc; đối với di sản thừa kế là bất động sản có thể áp dụng luật nơi có bất động sản đó. Ngoài ra, tư pháp quốc tế một số nước còn quy định nếu người lập di chúc không tuân thủ quy định về hình thức di chúc của các hệ thống pháp luật trên mà lại thỏa mãn yêu cầu đối với luật nơi lập di chúc thì di chúc đó cũng không bị coi là bất hợp pháp.
- Tại Việt Nam, việc chọn luật áp dụng để xác định năng lực hành vi lập, hủy bỏ di chúc và hình thức di chúc được quy định tại Điều 768 BLDS 2005:"1. Năng lực lập di chúc, thay đổi và hủy bỏ di chúc phải tuân theo pháp luật của nước mà người lập di chúc là công dân; 2. Hình thức của di chúc phải tuân theo pháp luật của nước nơi lập di chúc”.
Như vậy, để giải quyết xung đột pháp luật về năng lực lập, thay đổi và hủy bỏ di chúc, Việt Nam áp dụng pháp luật của nước mà người lập di chúc là công dân. Pháp luật Việt Nam sẽ được áp dụng để xác định năng lực chủ thể khi công dân Việt Nam lập, thay đổi, hủy bỏ di chúc, định đoạt di sản thừa kế, bất kể di sản thừa kế là động sản hay bất động sản. Pháp luật Việt Nam sẽ không được áp dụng đối với việc xác định năng lực chủ thể khi công dân nước ngoài lập, thay đổi, hủy bỏ di chúc định đoạt di sản thừa kế, kể cả khi hành vi này được thực hiện tại Việt Nam.
Để giải quyết xung đột pháp luật về hình thức di chúc, Việt Nam áp dụng nguyên tắc Luật của nước nơi lập di chúc. Nếu công dân Việt Nam lập di chúc ở nước ngoài phải tuân theo những quy định của pháp luật nước ngoài về hình thức di chúc; nếu công dân nước ngoài lập di chúc ở Việt Nam thì bắt buộc phải tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam về hình thức di chúc.
Tư pháp quốc tế Việt Nam đã có một số quy phạm xung đột điều chỉnh quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài. Những quy phạm này đã vận dụng các nguyên tắc chọn luật của tư pháp quốc tế được quy định trong pháp luật của nhiều nước trên thế giới.
3.Thừa kế theo luật
Như đã phân tích ở phần trên, đối với quan hệ thừa kế theo luật mà di sản thừa kế là động sản, tư pháp quốc tế Việt Nam áp dụng nguyên tắc Luật quốc tịch. Bên cạnh những ưu điểm của việc áp dụng nguyên tắc Luật quốc tịch trong trường hợp này, theo chúng tôi, có một số vấn đề sẽ phát sinh trong thực tiễn như sau:
- Đây là quy phạm xung đột của tư pháp quốc tế Việt Nam. Pháp luật Việt Nam chỉ có cơ hội áp dụng khi quan hệ thừa kế diễn ra tại Việt Nam hoặc tranh chấp quan hệ thừa kế thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Việt Nam. Điều này có nghĩa, khi công dân Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài để lại di sản thừa kế là động sản hoặc vụ việc thừa kế thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nước ngoài, thì pháp luật Việt Nam sẽ khó có cơ hội áp dụng vì tư pháp quốc tế nhiều nước áp dụng nguyên tắc Luật nơi cư trú để xác định luật áp dụng trong trường hợp này. Ngoại trừ một số nước đã ký kết hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam thì nguyên tắc Luật quốc tịch sẽ được áp dụng theo nội dung của các hiệp định này, những trường hợp khác sẽ phải áp dụng tư pháp quốc tế của nước mà quan hệ thừa kế diễn ra hoặc nước có Tòa án giải quyết vụ việc. Với một số lượng lớn các nước áp dụng nguyên tắc Luật nơi cư trú thì pháp luật Việt Nam sẽ ít có cơ hội áp dụng đối với các quan hệ thừa kế do người Việt Nam cư trú ở nước ngoài tham gia hoặc do Tòa án nước ngoài giải quyết. Như vậy, việc áp dụng nguyên tắc Luật quốc tịch có vẻ như sẽ tạo cơ hội cho pháp luật Việt Nam được áp dụng nhiều, nhưng thực tiễn cho thấy, không phải trong trường hợp nào quy định này cũng đạt được mục đích đề ra.
- Hiện nay, nhiều người Việt Nam cư trú ở nước ngoài, có quốc tịch nước ngoài và không còn quốc tịch Việt Nam, nhưng đã trở về Việt Nam sinh sống, cũng như công dân nước ngoài sang Việt Nam sinh sống và có tài sản tại Việt Nam ngày càng nhiều, thì việc áp dụng nguyên tắc Luật quốc tịch để xác định luật áp dụng cho quan hệ thừa kế theo luật như quy định của BLDS 2005 sẽ loại bỏ khả năng áp dụng pháp luật Việt Nam trong nhiều trường hợp, kể cả trường hợp vụ việc tranh chấp do Tòa án Việt Nam giải quyết. Rõ ràng, nếu Tòa án Việt Nam giải quyết, áp dụng nguyên tắc của tư pháp quốc tế Việt Nam, sẽ dẫn đến pháp luật áp dụng là pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch, kể cả khi di sản thừa kế đó đang hiện diện tại Việt Nam. Như vậy, trong trường hợp này, quy phạm xung đột của Việt Nam đã vô tình loại bỏ cơ hội áp dụng pháp luật Việt Nam. |