I. Tại sao pháp luật ưu tiên chia thừa kế kế
di chúc
Người lập di chúc là
người sở hữu tài sản và mong muốn để lại tài sản của mình cho người khác sau
qua đời.
Cụ thể, quyền của
người lập di được quy định tại Điều 626 Bộ luật dân sự 2015 gồm:
- Chỉ định người thừa
kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
- Phân định phần di
sản cho từng người thừa kế;
- Dành một phần tài
sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
- Giao nghĩa vụ cho
người thừa kế;
- Chỉ định người giữ
di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Từ những quy định trên
đây, thì việc chỉ định và phân chia di sản thừa kế hoàn toàn dựa vào ý chí của
người lập di chúc (người sở hữu tài sản). Pháp luật quy định rõ người lập di
chúc có toàn quyền định đoạt tài sản của mình sau khi chết. Do đó, nếu di chúc
hợp pháp, di sản phải được ưu tiên phân chia theo di chúc.
Tuy nhiên, cần lưu ý
một số trường hợp những người thừa kế được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội
dung của di chúc (Điều 644 Bộ luật dân sự 2015).
- Con chưa thành niên;
- Cha, mẹ;
- Vợ, chồng;
- Con thành niên mà
không có khả năng lao động.
Theo đó, khi người lập
di chúc không cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn 2/3 của
một suất thừa kế theo pháp luật, thì họ vẫn được hưởng phần di sản bằng 2/3
suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật.
Trừ trường hợp những đối tượng này đã từ chối nhận di sản hoặc là người không
có quyền hưởng di sản thì không được áp dụng quy định này.
II/ Điều kiện để thừa kế quyền sử dụng đất
1. Điều kiện chung
1.1 Có Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
Theo quy định tại
khoản 20 Điều 4 LĐĐ 2003 thì “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là giấy chứng nhận do cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cấp cho người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, quyền sở
hữu tài sản khác gắn liền với đất để bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người
có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”.
GCNQSDĐ là chứng thư pháp lý xác lập mối quan hệ hợp pháp giữa nhà nước với
NSDĐ. Thông qua GCNQSDĐ, nhà nước xác lập mối quan hệ pháp lý giữa nhà nước với
tư cách là chủ sở hữu đất đai với các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được nhà
nước chuyển giao quyền sử dụng đất. Nhằm có đầy đủ các căn cứ pháp lý để thực
hiện quản lý Nhà nước về đất đai, tạo cơ sở pháp lý để bảo hộ quyền và lợi ích
hợp pháp của NSDĐ. Dù nhận quyền sử dụng đất dưới hình thức nào thì căn cứ rõ
ràng nhất để xác định chủ thể có QSDĐ hợp pháp là chủ thể sử dụng phải đứng tên
trên GCNQSDĐ. Mặt khác, giấy chứng nhận còn có ý nghĩa xác định phạm vi, giới
hạn sự tác động đến đất đai của NSDĐ thông qua các nội dung: mục đích sử dụng
đất, thời hạn sử dụng, diện tích sử dụng,… được ghi nhận trên giấy.
GCNQSDĐ là điều kiện
hình thức vô cùng quan trọng, tuy nhiên, điều kiện này không mang tính tuyệt
đối với thừa kế quyền sử dụng đất. Về bản chất di sản có giá trị tài sản là
quyền sử dụng đất chứ không phải GCNQSDĐ. Do đó, nếu có chứng cứ chứng minh
người quá cố là người cóquyền sử dụng đất hợp lệ thì quyền sử dụng đất đó vẫn
được xác định là di sản thừa kế. Vì vậy, pháp luật cho phép NSDĐ chưa có
GCNQSDĐ vẫn có quyền để thừa kế trong trường hợp họ có các giấy tờ thay thế như
giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp; giấy tờ về thanh lý, hóa
giá nhà ở gắn liền với đất ở; GCNQSDĐ tạm thời hoặc có tên trong sổ đăng ký
ruộng đất, sổ địa chính,… theo quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 50
LĐĐ 2003. Đến LĐĐ 2013 quy định này đã có sự thay đổi, theo đó, NSDĐ được thực
hiện quyền thừa kế khi có Giấy chứng nhận hoặc đủ điều kiện để cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất[1].
Như vậy, LĐĐ 2013 không chỉ căn cứ vào các loại giấy tờ thay thế giấy chứng
nhận như LĐĐ 2003, mà đã nới rộng điều kiện này bằng cách quy định “đủ điều
kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất”. Nói là nới rộng vì LĐĐ 2013 đã bổ sung thêm nhiều loại
giấy tờ mà nếu có nó NSDĐ sẽ được cấp GCNQSDĐ như: sổ mục kê đất, sổ kiến điền
lập trước ngày 18 tháng 12 năm 1980; dự án hoặc danh sách hoặc văn bản về việc
di dân đi xây dựng khu kinh tế mới, di dân tái định cư; Giấy tờ của nông
trường, lâm trường quốc doanh về việc giao đất cho người lao động trong nông
trường, lâm trường để làm nhà ở[2];… Thậm chí, Điều 101 LĐĐ 2013, Điều 20 Nghị
định 43/2014/NĐ-CP Hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2013quy định hộ gia đình, cá
nhân không có giấy tờ về quyền sử dụng đất mà“đang sử dụng đất trước ngày 01/7/2014,
có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, được Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có
tranh” hoặc “đã được sử dụng đất ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và
không vi phạm pháp luật về đất đai, được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất
không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây
dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch” thì vẫn đủ điều kiện được
cấp Giấy chứng nhận, vì vậy, những chủ thể này cũng có quyền để thừa kế quyền
sử dụng đất.
So với các hình thức
chuyển quyền sử dụng đất khác thì có thể xem đây là một sự “ưu tiên” dành cho
thừa kế quyền sử dụng đất. Bởi hiện nay, NSDĐ phải có GCNQSDĐ mới được thực
hiện các quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho quyền sử dụng
đất, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất[3]. Nguyên nhân của sự khác biệt
này xuất phát từ bản chất của thừa kế quyền sử dụng đất, đây là hành vi pháp lý
đơn phương, không mang tính chất trao đổi, chỉ phát sinh khi NSDĐ chết mà sự
sống chết của con người không thể lường trước được, cho nên không thể yêu cầu
họ phải có GCNQSDĐ rồi mới được chết, cũng như không thể phủ nhận hoàn toàn
công sức tạo lập tài sản của họ khi còn sống chỉ với lý do không có Giấy chứng
nhận.
Mặc dù, có quy định
thông thoáng để bảo vệ quyền lợi của những NSDĐ chưa có giấy chứng nhận, nhưng
trên thực tế việc để thừa kế loại đất này phải trải qua các thủ tục hành chính
tương đối phức tạp, phụ thuộc nhiều vào ý chí của các cán bộ làm việc trong các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, đẩy mạnh công tác cấp GCNQSDĐ là nhiệm
vụ hàng đầu. Thông qua chỉ thị số 1474/CT-TTg ngày 24 tháng 8 năm 2011 của Thủ
tướng Chính phủ, Công văn số 3987/BTNMT-TCQLĐĐ ngày 28 tháng 10 năm 2011 của Bộ
Tài nguyên và Môi trường, công văn số 2419/BTNMT-TCQLĐĐ ngày 13 tháng 7 năm
2012 của Bộ Tài nguyên và Môi trường nhiệm vụ này đã được thực hiện khá thành
công. Theo báo cáo của các địa phương, tính đến đầu năm 2014 cả nước đã cấp
được 40,1 triệu Giấy chứng nhận với tổng diện tích 22,3 triệu ha, đạt 92,2%
diện tích các loại đất cần cấp, trong đó 5 loại đất chính của cả nước đã cấp
được 39,2 triệu giấy với tổng diện tích 21,7 triệu ha, đạt 92,1% diện tích cần
cấp và đạt 94,0% tổng số trường hợp sử dụng đất đủ điều kiện cấp[4]. Như vậy,
trong thời gian tới những khó khăn liên quan đến việc chưa có GCNQSDĐ sẽ được
giải quyết.
1.2 Đất không có tranh
chấp
Đất không có tranh
chấp là đất mà tại thời điểm thực hiện các giao dịch về quyền sử dụng đất, các
chủ thể sử dụng đất không có sự bất đồng với nhau trong việc xác định ai là
người có quyền sử dụng đất hợp pháp đối với diện tích đất đó và cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền không nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp liên quan
đến đất đó. Khi thực hiện quyền thừa kế, người nhận thừa kế sẽ chứng minh đất
không bị tranh chấp thông qua việc cung cấp GCNQSDĐ hoặc các loại giấy tờ hợp
lệ có liên quan đến quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó, về phía cơ quan Nhà nước
khi tiếp nhận hồ sơ đăng ký thừa kế quyền sử dụng đất cũng có trách nhiệm kiểm
tra tình trạng đất có bị tranh chấp hay không thông qua các giấy tờ, hồ sơ có
liên quan. Ngoài ra, khi tiến hành phân chia, khai nhận di sản thừa kế thì bản
thỏa thuận phân chia di sản thừa kế, khai nhận di sản thừa kế phải niêm yết
công khai 15 ngày tại trụ sở UBND phường, xã nhằm xác định quyền sử dụng đất để
thừa kế có tranh chấp hay không. Khi phát hiện tình trạng đất có tranh chấp cơ
quan có thẩm quyền sẽ ngừng ngay việc tiến hành các thủ tục cho nhận thừa kế
quyền sử dụng đất và chỉ tiếp tục khi tranh chấp đã được giải quyết xong.
Đây là quy định nhằm
xác định rõ tư cách pháp lý của chủ thể thực hiện quyền và bảo vệ lợi ích hợp
pháp của họ. Về nguyên tắc, một chủ thể chỉ được hưởng và được thực hiện giao
dịch quyền sử dụng đất đối với diện tích đất mà mình có quyền sử dụng. Đồng
thời, di sản thừa kế phải là tài sản của người chết, do đó, khi chưa xác định
được ai là chủ sở hữu của quyền sử dụng đất thì không thể xem quyền sử dụng đất
đang có tranh chấp là di sản thừa kế. Quy định này sẽ tạo điều kiện cho việc
giải quyết tranh chấp đất đai, tránh những rắc rối, hệ lụy phát sinh sau này.
1.3 Quyền sử dụng đất
không bị kê biên để đảm bảo thi hành án
Đây là quy định mới
được ghi nhận trong LĐĐ 2003. Kê biên là một hoạt động cưỡng chế nhằm đảm bảo
việc thi hành án trong lĩnh vực tư pháp khi chủ thể có nghĩa vụ tài sản không
tự nguyện thực hiện. Quyền sử dụng đất bị kê biên vẫn thuộc quyền sở hữu hợp
pháp của NSDĐ nhưng quyền của họ đã bị hạn chế vì hành vi vi phạm pháp luật của
mình. Lúc này, NSDĐ không thể tự mình thực hiện quyền định đoạt đối với quyền
sử dụng đất nữa, bởi tài sản này đã đặt dưới sự giám sát cơ quan thi hành án,
nhằm tiến hành hoạt động bán đấu giá để hoàn thành nghĩa vụ của NSDĐ đối với
người được thi hành án. Khi một người chết đi thì nghĩa vụ tài sản của họ để
lại vẫn phải được thực hiện bằng chính tài sản do họ tạo lập khi còn sống. Như
vậy, quyền sử dụng đất bị kê biên vẫn sẽ phải bán đấu giá để hoàn thành nghĩa
vụ tài sản cho người được thi hành án.
Nếu đặt giải thiết
quyền sử dụng đất bị kê biên vẫn có thể để thừa kế thì theo quy định tại Điều
637 BLDS 2005 người nhận thừa kế vẫn phải thực hiện nghĩa vụ tài sản cho người
được thi hành án, nếu người nhận thừa kế tự nguyện thực hiện bằng tài sản của
mình thì vấn đề sẽ được giải quyết nhanh chóng, quyền sử dụng đất bị kê biên
được giải tỏa. Người nhận thừa kế tiến hành các thủ tục đăng ký thừa kế quyền
sử dụng đất bình thường. Nhưng nếu không thì mọi việc sẽ trở nên rắc rối khi
thời gian tiến hành thủ tục nhận di sản khá lâu mà thời gian thi hành án thì
hạn chế. Hơn nữa, thủ tục sẽ trở nên lòng vòng khi cuối cùng vẫn bán đấu giá
quyền sử dụng đất bị kê biên nhưng dưới tên chủ thể được nhận thừa kế. Và trong
trường hợp này, việc cho phép thừa kế quyền sử dụng đất cũng không có ý nghĩa,
không đạt được bất cứ mục đích gì.
Quy định này được xây
dựng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho chủ thể mà người chết có nghĩa vụ
về tài sản, tránh tình trạng cố ý tẩu tán tài sản, lẩn tránh nghĩa vụ của NSDĐ.
Có như vậy bản án, quyết định của Nhà nước mới có ý nghĩa, đảm bảo giá trị thi
hành trên thực tế, hoạt động Tư pháp mới đạt được hiệu quả.
1.4 Quyền sử dụng đất
còn thời hạn sử dụng
Trên cơ sở đất đai
thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu nên khi thực hiện quyền
đại diện sở hữu của mình Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng ổn
định, lâu dài hoặc trong một thời hạn nhất định chứ không trao vĩnh viễn. Có
thể thấy, đây là điều kiện đặt ra đối với loại đất có quy định thời hạn sử dụng.
Thời hạn sử dụng đất được hiểu là khoảng thời gian mà NSDĐ được phép sử dụng
đất. Tùy theo từng loại đất khác nhau, từng mục đích sử dụng, từng loại chủ thể
sử dụng đất mà thời hạn sử dụng đất là khác nhau. Trong thời hạn này, NSDĐ
chính là chủ thể chiếm hữu và có tác động trực tiếp lên đất đai. Pháp luật đất
đai đã quy định cho họ khá nhiều quyền trong thời gian sử dụng đất, trong đó có
quyền để thừa kế quyền sử dụng đất. Căn cứ vào GCNQSDĐ hoặc các loại giấy tờ có
liên quan cơ quan có thẩm quyền sẽ xác định thời hạn sử dụng đất để cho phép
thừa kế quyền sử dụng đất.
Quy định thời hạn sử
dụng đất là cách thực hiện quyền định đoạt đối với đất đai của Nhà nước. Khi
hết thời hạn sử dụng mà NSDĐ không được gia hạn thì quyền sử dụng đất sẽ bị Nhà
nước thu hồi, lúc này, quyền sử dụng đất của NSDĐ chấm dứt. Và đương nhiên khi
đó họ không còn là chủ thể có quyền sử dụng đất để có thể thực hiện được quyền
thừa kế quyền sử dụng đất. Do đó, chỉ khi quyền sử đất còn thời hạn sử dụng thì
mới có thể để thừa kế.
Vì quyền sử dụng đất
thừa kế phải còn thời hạn sử dụng nên thời hạn còn lại đó cũng chính là thời
hạn được sử dụng đất của người nhận thừa kế. Thời hạn sử dụng đất là một chế
định cơ bản của pháp luật đất đai, có tác động trực tiếp đến quyền sử dụng đất.
Nên việc biết rõ thời hạn sử dụng đất được nhận thừa kế sẽ giúp cho người thừa
kế xem xét, cân nhắc, đưa ra kế hoạch đầu tư đúng đắn, phù hợp trên mảnh đất
đó.
2. Điều kiện riêng
2.1 Điều kiện về chủ
thể
Chủ thể để thừa kế
quyền sử dụng đất phải là thực thể có sự sống chết về mặt sinh học và có quyền
sử dụng đất một cách hợp lệ, hợp pháp. Quan hệ thừa kế quyền sử dụng đất chỉ
phát sinh khi người để thừa kế chết, nghĩa là, chủ thể có quyền phải là những
thực thể có sự sống chết. Vì vậy, trong quan hệ này chủ thể có quyền được pháp
luật quy định chỉ có thể là cá nhân, hoặc thành viên hộ gia đình, không có chủ
thể là pháp nhân như các giao dịch khác. Bên cạnh đó, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam cũng
có quyền để thừa kế nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở
Quan hệ sở hữu và quan
hệ thừa kế luôn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Theo quy định tại Điều 634
BLDS 2005 “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người
chết trong tài sản chung với người khác”. Tức là để được định đoạt phần tài sản
của của mình sau khi chết thì người để thừa kế phải là chủ sở hữu hợp pháp của
tài sản đó. Nếu một người chết để lại tài sản không phải với tư cách chủ sở hữu
mà với tư cách người quản lý tài sản thì tài sản này không phải là di sản của
người đã chết. Tương tự, quyền sử dụng đất muốn được để thừa kế thì NSDĐ phải
là chủ sở hữu quyền sử dụng đất. Để xác định vấn đề này cần dựa vào GCNQSDĐ và
các giấy tờ quyền sử dụng đất có liên quan.
Việc xác định quyền sử
dụng đất thuộc sở hữu của cá nhân, thành viên hộ gia đình để chia thừa kế vẫn
còn gặp khó khăn trên thực tế, nhất là những trường hợp quyền sử dụng đất được
cấp cho hộ gia đình hay NSDĐ trước khi chết đã tặng cho hay phân chia tài sản
miệng cho các con. Theo quy định tại Điều 108 của BLDS 2005, đất được cấp cho
hộ gia đình thì thuộc quyền sở hữu chung của tất cả mọi thành viên trong hộ gia
đình. Hiện nay, chưa có văn bản nào quy định rõ ràng việc xác định thế nào là
hộ gia đình được cấp GCNQSDĐ và việc xác định các thành viên hộ gia đình như
thế nào, căn cứ vào đâu? Thực tế thì các tổ chức công chứng và các cơ quan có
thẩm quyền đăng ký nhà đất đều xác định hộ gia đình sử dụng đất căn cứ vào sổ
hộ khẩu tại thời điểm được cấp GCNQSDĐ. Do không có sự quy định rõ ràng, chi
tiết nên khi gặp vụ án cần xác định phần di sản quyền sử dụng đất trong phần
đất được cấp cho hộ gia đình các thẩm phán đã khá lúng túng dẫn đến giải quyết
vụ án không hợp lý.
Nhận thấy sự bất cập
này, LĐĐ 2013 quy định “Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn
nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia
đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước
giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng
đất.”[6] Qua đó, căn cứ để xác định thành viên hộ gia đình sử dụng đất là mối
quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng, sống chung và có quyền sử dụng đất
chung. Các giấy tờ thể hiện các mối quan hệ này là giấy đăng ký kết hôn, giấy
đăng ký khai sinh hoặc các giấy tờ về nhận nuôi con nuôi. Sổ hộ khẩu chỉ nên là
một loại giấy tờ để tham khảo trong trường hợp thiếu những giấy tờ nêu trên,
bởi một số trường hợp, sổ hộ khẩu còn có những người không có quan hệ gia đình
với chủ hộ. Bên cạnh đó, còn phải căn cứ vào thời điểm xác lập quyền sử dụng
đất chung của hộ gia đình, dựa vào giấy xác nhận của cơ quan có thẩm quyền cấp
đất về thành viên của hộ gia đình tại thời điểm xác lập quyền sử dụng đất chung
của hộ gia đình. Trên thực tế, không nhiều chủ thể cung cấp được đầy đủ các
giấy tờ này nên rất khó khăn khi thực hiện giao dịch chuyển quyền sử dụng đất.
Vì vậy, theo tác giả trên GCNQSDĐ của hộ gia đình nên ghi nhận đầy đủ họ, tên
chủ hộ và họ, tên các thành viên của hộ gia đình đó. Như vậy, sẽ dễ dàng xác
định được đầy đủ thành viên có quyền sử dụng đất của hộ gia đình, tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình nhận thừa kế và giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử
dụng đất của hộ gia đình.
Khi một người đã tặng
cho quyền sử dụng đất của mình thì quyền sử dụng đất này không còn thuộc về
người đó nữa nên khi người đó chết quyền sử dụng đất không là di sản. Trên thực
tế, việc xác định khi nào một người đã tặng cho quyền sử dụng đất của mình cho
người khác khá khó khăn. Theo khoản 1 Điều 467 và khoản 1, khoản 2 Điều 689
BLDS 2005 thì tặng cho quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản có công
chứng, chứng thực. Tuy nhiên, trong quan hệ gia đình quy định này khó khả thi,
cha mẹ đã già thường rất ngại phải thực hiện các thủ tục hành chính phức tạp,
con cái khi được tặng cho quyền sử dụng đất cũng không thể yêu cầu cha mẹ phải
làm đúng theo các thủ tục luật định. Do đó, khi xét xử, Tòa án khá linh động
trong việc xác định sự tồn tại của quan hệ này. Ví dụ, theo quyết định giám đốc
thẩm số 872/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao:
“ông Mìa, ông Mững và ông Hửng đều khai diện tích đất mà các ông đang sử dụng
và đã được cấp GCNQSDĐ tuy có nguồn gốc của cha mẹ, nhưng từ khi cụ Hưởn còn
sống, cha mẹ đã cho các ông sử dụng cất nhà ở ổn định. Tại Tòa án, cụ Vìa là mẹ
các đương sự vẫn khẳng định ý chí của vợ chồng cụ trong việc đã phân chia và
định đoạt cho các bị đơn sử dụng đất ổn định trong suốt thời gian dài. Do vậy,
cụ Vìa không đồng ý với yêu cầu chia thừa kế của các nguyên đơn. Tòa án cấp sơ
thẩm bác yêu cầu chia thừa kế quyền sử dụng đất phần tài sản của cụ Hưởn là có
căn cứ”
2.2 Điều kiện về hình
thức sử dụng đất
Theo quy định tại Điều
113 LĐĐ 2003 quyền sử dụng của hộ gia đình, cá nhân có nguồn gốc không phải là
đất thuê có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất theo di chúc hoặc theo pháp
luật. Đối với đất thuê về nguyên tắc không đặt ra vấn đề để thừa kế, tuy nhiên
để giải quyết những trường hợp hộ gia đình, cá nhân được nhà nước cho thuê đất
trước ngày 01/7/2004 mà đã trả tiền thuê đất cho cả thời gian thuê hoặc đã trả
tiền thuê đất cho nhiều năm mà thời hạn thuê đất đã được trả tiền còn lại ít
nhất là 5 năm nên những chủ thể này cũng có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất
theo quy định tại khoản 2 Điều 114 LĐĐ 2003. Quy định này chỉ là giải pháp tình
thế để giải quyết những trường hợp còn tồn tại do sự khác nhau giữa pháp luật
đất đai năm 1993 và 2003. LĐĐ 1993 cho phép cá nhân, hộ gia đình được thuê đất
trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê nhưng đến LĐĐ 2003 cá nhân, hộ
gia đình chỉ được thuê đất trả tiền thuê đất hằng năm. BLDS 2005 cũng có quy
định khái quát tại Điều 734 BLDS 2005 cá nhân được nhà nước giao đất, cho thuê
đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất theo
quy định tại phần thứ tư của Bộ luật này và pháp luật về đất đai. Tuy nhiên,
LĐĐ 2013 có hiệu lực vào ngày 01/7/2014 lại tái quy định cá nhân, hộ gia đình
được lựa chọn hình thức thuê đất trả tiền thuê đất hằng năm hoặc thuê đất trả
tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê[8]. Từ đó, quy định ngoại lệ trên
sẽ không còn tồn tại và chỉ quyền sử dụng đất được sử dụng dưới hình thức thuê
trả tiền hằng năm của hộ gia đình, cá nhânlà không được phép để thừa kế. Như
vậy, sắp tới hình thức nhận quyền sử dụng đất được phép để thừa kế sẽ tăng lên,
dẫn đến số lượng chủ thể có cơ hội để và nhận thừa kế cũng nhiều hơn.
NSDĐ dưới hình thức
thuê đất trả tiền thuê đất hằng năm chỉ có quyền sử dụng đất trong thời gian
ngắn và muốn đảm bảo quyền sử dụng đất được liên tục thì họ phải thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ tài chính mỗi năm. Nhận thấy tính chất tạm thời, không ổn định của
hình thức này nên pháp luật không cho phép NSDĐ được để thừa kế. Tuy nhiên, để
tạo cho NSDĐ trả tiền thuê đất hằng năm tâm lý thoải mái yên tâm lao động sản
xuất, cũng như đảm bảo quyền lợi tương xứng với số tiền họ đã bỏ ra, pháp luật
quy định cho phép cá nhân, thành viên hộ gia đình được để thừakế tài sản thuộc
sở hữu của mình gắn liền với đất thuê và người nhận thừa kế được Nhà nước tiếp
tục cho thuê đất theo mục đích đã được xác định. Chủ thể nhận thừa kế tài sản
gắn liền với đất thuê cũng có đầy đủ các quyền lợi, nghĩa vụ không khác gì so
với chủ thể để lại di sản. Có thể thấy, về bản chất quy định này không tạo ra
nhiều sự khác biệt về hệ quả so với cho phép để thừa kế quyền sử dụng đất trả
tiền thuê đất hằng năm, cho thấy quy định của pháp luật về vấn để này khá hợp
lý.
Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV,
THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi là hãng luật tổng
hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên
có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết
rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong
nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề
luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn
nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm
và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì
sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo
đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy
sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc
sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui
của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại
công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã
hội.
Luật sư Trần Minh Hùng
Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều
năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng
với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh
truyền hình uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình
Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV,
THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV
Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình
Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp
luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên
cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho
nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với
trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật
cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho
nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin,
người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank,
Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ
Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái...
và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính,
doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích
cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư
chúng tôi.
Chúng tôi cùng tư vấn luật
và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA
ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A
Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du,
Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần
Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại:
028-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần
Minh Hùng: 0972 238006
Email: luatsuthanhpho@gmail.com
http://www.luatsugiadinh.net. vn
http://www.luatsuthanhpho.com
|