1. Vấn đề lựa chọn hình thức tặng cho tài sản
hay lập di chúc để lại tài sản cho người khác
Như ở trên đã đề cập,
có thể thấy được rằng, mặc dù hợp đồng tặng cho hay di chúc đều là hình thức
chuyển giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho người khác. Tuy nhiên, xét về bản
chất thì hai hình thức này lại khác nhau hoàn toàn, cụ thể:
– Di chúc chỉ phát
sinh hiệu lực kể từ thời điểm mở thừa kế, tức là thời điểm người có tài sản
chết. Tính từ thời điểm đó, người có quyền thừa kế mới có quyền và nghĩa vụ đối
với tài sản này
– Hợp đồng tặng cho
phát sinh hiệu lực kể từ thời điểm tặng cho tài sản, khi hợp đồng tặng cho được
pháp luật công nhận (nếu tài sản là bất động sản thì kể từ thời điểm người được
tặng cho đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Như vậy, quyền của người
tặng cho sẽ chấm dứt tại thời điểm đó.
Như vậy, việc lựa chọn
của cá nhân có tài sản trong việc chuyển giao tài sản của mình cho người khác
thông qua hợp đồng tặng cho hay di chúc còn tùy thuộc vào mục đích, khả năng và
mong muốn của người có tài sản. Chẳng hạn:
– Nếu một người muốn
để lại tài sản của mình cho người khác sau khi bản thân chết thì lựa chọn hình
thức lập di chúc.
– Nếu muốn tặng cho,
chuyển quyền sở hữu tài sản của mình cho người khác ngay khi đang còn sống thì
lựa chọn hình thức lập hợp đồng tặng cho.
3. Con gái có được
chia di sản thừa kế theo pháp luật không?
Tóm tắt câu hỏi:
Xin chào Luật sư Gia
Đình. Chúng tôi có 5 người gồm 2 người con trai, 3 con gái, mẹ tôi có một người
con gái riêng khác cha. Cha tôi mất năm 2002, mẹ tôi mất sau đó 2 năm 2004
không có di chúc phân chia tài sản, tài sản là một mảnh vườn rộng 1647 m2 có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên cha tôi, một ngôi nhà cấp 4 và cây ăn quả
trong vườn. Sau khi cha mẹ tôi mất do điều kiện công tác xa nhà nên mọi tài sản
trên đất đều do anh tôi quản lí và sử dụng; đến năm 2012 anh trai tôi tự ý xây
dựng nhà ngay trước mặt ngôi nhà của cha mẹ tôi và các công trình trên đất mà
không hỏi ý kiến của anh em trong gia đình nên việc xây dựng chúng tôi không
biết, đến năm 2015 chúng họp gia đình bàn chia đất thành 5 phần nhưng anh trai
không đồng ý, chỉ đồng ý chia cho 2 anh em trai, sau đó chúng tôi làm đơn nhờ
chính quyền giải quyết hòa giải nhưng không thành từ đó đến nay gần 3 năm. Xin
hỏi luật sư hiện nay chúng tôi làm đơn đề nghị tòa án huyện giải quyết có được
không? Nếu tòa án giải quyết thì chúng tôi có đảm được bảo quyền lợi không?
Trình tự thủ tục trình lên tòa án như thế nào? Mong luật sư tư vấn, xin cảm ơn!
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu
hỏi đến Văn Phòng Luật Sư Gia Đình. Với thắc mắc của bạn, chúng tôi đưa ra quan
điểm tư vấn của mình như sau:
1. Căn cứ pháp lý
+ Bộ luật dân sự 1995
+ Bộ luật tố tụng dân
sự 2015
2. Giải quyết vấn đề
Theo thông tin bạn
cung cấp, cha bạn và mẹ bạn mất lần lượt năm 2002 và năm 2004, nên việc chia
thừa kế trong trường hợp này sẽ được áp dụng theo quy định của Bộ luật Dân sự 1995,
theo đó, khi cha và mẹ bạn bạn mất không có để lại di chúc nên di sản thừa kế
sẽ được chia theo pháp luật cho những người thuộc hàng thừa kế theo quy định
của Điều 679 Bộ luật Dân sự 1995 như sau:
“Điều 679. Người thừa
kế theo pháp luật
1- Những người thừa kế
theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ
nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của
người chết;
b) Hàng thừa kế thứ
hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của
người chết;
c) Hàng thừa kế thứ ba
gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì
ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú
ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột.
2- Những người thừa kế
cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3- Những người ở hàng
thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã
chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng thừa kế hoặc từ chối
nhận di sản.”
Theo thông tin bạn
cung cấp, ba bạn có một mảnh vườn mang tên cha bạn, ngôi nhà và cây ăn quả
trong vường, năm 2002 cha bạn mất, nếu không để lại di chúc, thì phần di sản
nêu trên ( trong trường hợp tất cả di sản trên đều được xác định là tài sản của
ba bạn lúc còn sống) hoặc phần di sản trong khối tài sản nêu trên ( nếu phần
tài sản trên được xác định là sở hữu chung của ba bạn với mẹ bạn hoặc những
người khác) sẽ được chia đều cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm
có: ông bà nội của bạn, mẹ bạn và con ruột, nếu người con riêng của mẹ bạn có
chăm sóc, nuôi dưỡng cha bạn thì vẫn được chia di sản thừa kế.
Năm 2004, mẹ bạn mất
đi, không để lại di chúc nên phần di sản của mẹ bạn cũng sẽ được chia đều cho
những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, trong đó có các người con, ông bà
ngoại của bạn ( nếu còn sống).
Như vậy, việc anh trai
bạn tự ý chiếm di sản thừa kế về phần mình là không có căn cứ, sau khi họp bàn
gia đình về vấn đề phân chia di sản thừa kế nhưng không được sự đồng thuận tất
cả ý kiến. Trong trường hợp này, bạn hoặc những người thừa kế khác có quyền gửi
đơn khởi kiện yêu cầu phân chia di sản thừa kế đến Tòa án để yêu cầu giải
quyết.
Hồ sơ khởi kiện chia
di sản thừa kế theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015:
+ Đơn khởi kiện (theo
mẫu)
+ Các giấy tờ về quan
hệ giữa người khởi kiện và người để lại tài sản: Giấy khai sinh, Chứng minh thư
nhân dân, giấy chứng nhận kết hôn, sổ hộ khẩu, giấy giao nhận nuôi con nuôi để
xác định diện và hàng thừa kế;
+ Giấy chứng tử của
người để lại di sản thừa kế;
+ Bản kê khai các di
sản;
+ Các giấy tờ, tài
liệu chứng minh sở hữu của người để lại di sản và nguồn gốc di sản của người để
lại di sản;
+ Các giấy tờ khác:
biên bản giải quyết tại UBND xã, phường, thị trấn (nếu có), tờ khai từ chối
nhận di sản (Nếu có).
Sau khi nhận được đơn
khởi kiện, Tòa án phải xem xét những tài liệu, chứng cứ cần thiết, nếu xét thấy
thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa án sẽ thông báo cho bạn biết để đương sự nộp
tiền tạm ứng án phí và sau khi nộp tiền tạm ứng án phí, Tòa án sẽ tiến hành
giải quyết tranh chấp.
2. Tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất?
Thưa luật sư, xin Luật
sư cho em hỏi: bà ngoại em sinh được một mình mẹ em, còn ông ngoại em thì đi
với người khác có hai người con một trai và một gái, nhưng không có đăng ký kết
hôn. Ông em mất đi để lại mảnh đất 1500 m2.
Cho em hỏi: đất này có
phải chia cho hai người con riêng của ông không ?
Em xin cảm ơn!
Trả lời:
Theo như thông tin bạn
cung cấp, chúng tôi tư vấn như sau:
Thứ nhất, ông bạn mất
để lại di chúc, trong trường hợp này, sẽ căn cứ vào nội dung của di chúc, nếu
di chúc hợp pháp, đúng quy định của pháp luật để phân chia di sản thừa kế của
ông bạn theo quy định tại Chương XXII Bộ luật dân sự 2015.
Thứ hai, ông bạn mất,
không để lại di chúc, theo đó mảnh đất 1500 m2 sẽ được chia theo pháp luật theo
Chương XXIII Bộ luật dân sự năm 2015. Cụ thể:
"Điều 651. Người
thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế
theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ
nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của
người chết;
b) Hàng thừa kế thứ
hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của
người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba
gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì
ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú
ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ
nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế
cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng
thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã
chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối
nhận di sản."
Như vậy, hai người con
riêng của ông bạn được xem là con ruột của ông, nếu họ chứng minh được có quan
hệ huyết thống với ông bạn thì họ đương nhiên thuộc hàng thừa kế thứ nhất của
ông bạn. Do đó, đất này phải chia cho cả hai người con riêng của ông bạn. Trong
trường hợp, hai người con riêng không chứng minh được có quan hệ huyết thống
với ông bạn thì họ sẽ không được hưởng thừa kế.
Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV,
THVL1, ANTV, SCTV1...
cộng tác viên có trình độ
cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng
tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề
nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật
sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn
nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm
và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì
sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo
đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy
sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc
sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui
của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại
công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã
hội.
Luật sư Trần Minh Hùng
Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều
năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng
với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh
truyền hình uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình
Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV,
THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV
Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình
Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp
luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên
cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho
nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với
trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật
cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho
nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin,
người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank,
Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ
Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái...
và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính,
doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích
cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư
chúng tôi.
Chúng tôi cùng tư vấn luật
và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA
ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A
Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du,
Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần
Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại:
028-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần
Minh Hùng: 0972 238006
Email: luatsuthanhpho@gmail.com
http://www.luatsugiadinh.net. vn
http://www.luatsuthanhpho.com
|