1. Giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng
đất
1.1. Giải quyết tranh
chấp về thừa kế.
– Xác định di sản thừa
kế là đất đai:
Điều 188 Luật đất đai
2013 quy định: Người sử dụng đất được thực hiện … thừa kế quyền sử dụng đất…
khi có các điều kiện sau đây:
a) Có Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất trừ trường hợp trong quy định tại khoản 3 và Điều 186 và
trường hợp nhận được thừa kế quy định bên trong khoản 1 Điều 168 của Luật này;
Giấy Chứng Nhận Quyền
Sử Dụng Đất là điều kiện hết sức hình thức và hiện tại vô cùng quan trọng, hiện
tại tuy nhiên, điều kiện này không hề những mang tính chất tuyệt đối với những
thừa kế về quyền sử dụng đất. Về bản chất di sản hiện tại có giá trị cùng với
những tài sản hiện tại là quyền sử dụng đất chứ không phải Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Do đó, nếu có chứng cứ chứng minh người quá cố là người có
quyền sử dụng đất hợp lệ thì quyền sử dụng đất đó vẫn được xác định là di sản
thừa kế. Pháp luật cho phép NSDĐ chưa có GCNQSDĐ vẫn có quyền để thừa kế trong
trường hợp họ có các giấy tờ thay thế như giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền
thuộc chế độ cũ cấp; giấy tờ về thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở;
GCNQSDĐ tạm thời hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính,… theo
quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 50 LĐĐ 2003. Đến LĐĐ 2013 quy định
này đã có sự thay đổi, theo đó, NSDĐ được thực hiện quyền thừa kế khi có Giấy
chứng nhận hoặc đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Như vậy, LĐĐ 2013 không chỉ căn cứ
vào các loại giấy tờ thay thế giấy chứng nhận như LĐĐ 2003, mà đã nới rộng điều
kiện này bằng cách quy định “đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”
b) Đất hiện tại không
bị khởi kiện tranh chấp;
Đất đai hiện tại không
có tranh chấp ở bên trong tại thời điểm thực hiện các giao dịch, hợp đồng
chuyển đổi quyền sử dụng đất có liên quan đến đất không có bất kỳ sự bất đồng
hoặc mâu thuẫn nào liên quan đến việc xác định ai là chủ sử dụng hợp pháp của
diện tích đất được Nhà nước cấp. Khi thực hiện quyền thừa kế, người nhận thừa
kế sẽ chứng minh đất không bị tranh chấp thông qua việc cung cấp GCNQSDĐ hoặc
các loại giấy tờ hợp lệ có liên quan đến quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó, về
phía cơ quan Nhà nước khi được tiếp nhận hồ sơ đăng ký về quyền thừa kế quyền
việc sử dụng đất cũng phải có những trách nhiệm kiểm tra về những tình trạng
đất đai hiện tại có bị tranh chấp hay không đồng thời cần phải thông qua các
giấy tờ, cùng với những hồ sơ có liên quan. Ngoài ra, thì khi tiến hành việc
phân chia, cũng như khai nhận các di sản về việc thừa kế thì bên trong bản thỏa
thuận về phân chia di sản thừa kế, cần phải khai nhận di sản thừa kế cũng như
phải niêm yết công khai 15 ngày bên trong tại trụ sở Uỷ Ban Nhân Dân phường, xã
nhằm việc xác định các vấn đề về quyền sử dụng đất để có thể thừa kế có tranh
chấp hay không. Khi mà phát hiện ra những tình trạng hiện tại đất đai đang có
tranh chấp những cơ quan có thẩm quyền sẽ ngừng ngay việc tiến hành tất cả các
thủ tục cho nhận thừa kế cùng với quyền sử dụng đất và chỉ có thể tiếp tục khi
tranh chấp đã được giải quyết hoàn thành .
c) Quyền sử dụng đất
không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;
Kê biên là một hình
thức cưỡng chế đảm bảo thi hành án khi chủ thể có nghĩa vụ về tài sản không tự
nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình. Quyền sử dụng đất bị kê biên là nhằm đảm
bảo cho việc bán đấu giá sau này nhằm thu hồi đủ giá trị cần thiết để thực hiện
nghĩa vụ của người sử dụng đất (lúc này là người phải thi hành án) đối với
người được thi hành án.
Ta biết rằng ngoài
thừa kế hiện tại còn có quyền thừa kế về vấn đề nghĩa vụ. theo những quy định
bên trong tại Điều 637 Bộ Luật Dân Sự năm 2005 người nhận thừa kế vẫn cần phải
thực hiện tất cả các nghĩa vụ cũng như tài sản cho những người được thi hành
án. Nếu như là người để lại di sản đã mang cho quyền sử dụng đất đó để thế chấp
để đảm bảo thực hiện một nghĩa vụ về tài sản và người để lại di sản không tự
nguyện thực hiện nghĩa vụ về tài sản của mình thì khi hết thời hạn thi hành án
theo quy định của pháp luật quyền sử dụng đất đó sẽ bị kê biên để đảm bảo thi
hành án, nếu người để lại di sản chết và người được thừa kế di sản là quyền sử
dụng đất đó thì người được thừa kế vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ đối với
người được thi hành án, vấn đề này đã được pháp luật về thi hành án quy định
khá cụ thể. Tất nhiên, nếu trong trường hợp người được thừa kế tự nguyện thực
hiện nghĩa vụ với người được thi hành án thì quyền sử dụng đất bị kê biên sẽ
được giải tỏa, hoặc nếu sau khi bán đấu giá, số tiền thu được lớn hơn giá trị
nghĩa vụ phải thực hiện thì người thừa kế vẫn được hưởng phần giá trị còn dư
đó. Do vậy, trong trường hợp di sản là quyền sử dụng đất, người để lại di sản
nên cân nhắc đến vấn đề này, nếu quyền sử dụng đất đó đang bị kê biên để đảm
bảo thi hành án, bởi nếu thừa kế quyền sử dụng đất đang bị kê biên thì việc
thừa kế sẽ không còn ý nghĩa gì và cũng không đạt được bất cứ mục đích gì.
d) Trong thời hạn sử
dụng đất.
Thời hạn sử dụng đất
được hiểu là khoảng thời gian mà người sử dụng đất được phép sử dụng đất. Đất
đai là sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện làm chủ sở hữu, cá nhân, tổ chức
chỉ có quyền sử dụng đất chứ không có quyền sở hữu đất. Vì vậy về quyền sử dụng
đất cũng như quyền thừa kế hiện tại cũng như thời hạn bên trong việc sử dụng
của thời hạn còn lại đó cũng chính là những thời hạn đang được sử dụng bên
trong đất của người nhận thừa kế
1.2. Hồ sơ giải quyết
tranh thừa kế là quyền sử dụng đất.
Chuẩn bị hồ sơ khởi
kiện yêu cầu giải quyết tranh chấp về thưa kế, quý khách hàng cần có những tài
liệu cơ bản:
+ Giấy chứng tử của
người để lại di sản
Giấy chứng tử hiện tại
được cấp bên trên cơ sở của giấy báo tử cùng với đó là những thủ tục đăng ký và
khai tử tại những cơ quan có thẩm quyền. Và sau khi được kiểm tra với các giấy
tờ hợp lệ, thì tất cả cán bộ Tư pháp bên trong hộ tịch sẽ được ghi vào Sổ để có
thể đăng ký khai tử cùng với đó là Giấy chứng tử, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
xã, phường, thị trấn (gọi chung là UBND cấp xã) ký và cấp cho người đi khai tử
một bản chính Giấy chứng tử.
+ Di chúc hoặc biên
bản, tài liệu khác thể hiện ý chí của người để lại di sản trước khi chết (nếu
có).
+ Các giấy tờ có thể
chứng minh về quan hệ giữa người khởi kiện cùng với người để lại di sản
Bản kê khai về những
di sản: Bao gồm có những vấn đề về động sản cùng với bất động sản, đồng thời là
những tài sản hiện tại được quy đổi được bằng tiền cũng như là những tài sản
hiện tại không thể quy đổi được bằng tiền.
+ Các tài liệu chứng
minh nguồn gốc di sản. Đối với di sản là quyền sử dụng đất thì những tài liệu
chứng minh người để lại di sản là người sử dụng hợp pháp diện tích đất đó là
tài liệu rất quan trọng (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, những tài liệu
chứng minh khác)
+ Các giấy tờ khác có
liên quan đến di sản: Các loại biên bản đồng thuận, giải quyết trong họ tộc,
tài liệu thể hiện việc từ chối nhận di sản thừa kế, các tài liệu thể hiện tài
sản thừa kế đang được bảo đảm cho việc thực hiện một nghĩa vụ nào đó (nếu có),
biên bản giải quyết tại UBND cấp xã
1.3. Thời hiệu khởi
kiện giải quyết tranh chấp thừa kế về quyền sử dụng đất
– Theo quy định của
BLDS 2015 (có hiệu lực từ ngày 01.7.2016) thì vấn đề thời hiệu khởi kiện yêu
cầu chia thừa kế lại có nhiều thay đổi, cụ thể: Theo quy định tại Điều 623 BLDS
2015 thì thời hiệu để người có thể thừa kế theo những yêu cầu bên trong việc
chia di sản hiện tại là 30 năm đối với vấn đề bất động sản, và sau 10 năm đối
với động sản và kể từ những thời điểm được mở thừa kế. Đồng thời khi hết thời
hạn này thì các vấn đề về di sản hiện tại sẽ thuộc về những người thừa kế hiện
tại đang được đang quản lý di sản đó. Như vậy là nếu như hết thời hạn trong10
năm đối với vấn đề động sản và 30 năm đối với vấn đề bất động sản nếu như mà
người được thừa kế không đạt được yêu cầu về việc chia di sản thì người đó nhất
định sẽ mất quyền yêu cầu nếu như chia di sản. Ở bên trong trường hợp di sản
hiện tại được đặt dưới sự quản lý về vấn đề thực tế hiện tại cần được liên tục,
cũng như công khai của một đồng thừa kế nào đó, thì về việc mất đi quyền yêu
cầu cũng như là về chia di sản cùng đồng nghĩa với việc người này hiện tại đang
bị mất luôn phần di sản được hưởng. Đây cũng là một là điểm đáng lưu ý nhất
trong quy định về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế trong BLDS 2015.
1.4. Thẩm quyền giải
quyết tranh chấp thừa kế về quyền sử dụng đất
Theo quy định của pháp
luật hiện hành thì trong các vụ án về thừa kế tài sản (bao gồm cả những vụ án
thừa kế mà có tranh chấp về bất động sản) thì thẩm quyền giải quyết thuộc về
Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc nếu bị đơn là cá nhân (xem thêm Nghị quyết
số 03/2012-HĐTP ngày 03.12.2012 của Hội đồng thẩm phán TANDTC). Tuy nhiên, theo
quy định của Luật đất đai 2013 thì về thẩm quyền giải quyết tranh chấp liên
quan đến đất đai cần lưu ý: Theo những quy định hiện tại thì cơ quan bên trong
nhà nước hiện tại có thẩm quyền để có thể giải quyết tất cả các vấn đề tranh
chấp đất đai hiện tại gồm có Tòa án nhân dân cùng với Ủy ban nhân dân. Theo tất
cả những quy định bên trong điều 136 của Luật Đất đai vào năm 2003 thì các cấp
cơ quan Tòa án nhân dân sẽ có thẩm quyền để giải quyết tất cả những vấn đề về
tranh chấp quyền sử dụng đất hiện tại mà đương sự hiện tại đang có giấy Chứng
nhận quyền sử dụng đất hoặc là có một trong những giấy tờ hiện đang được quy
định tại các khoản 1, 2 và khoản 5 điều 50 của Luật Đất đai và tranh chấp về
tài sản gắn liền với đất. Đối với những tranh chấp về quyền sử dụng đất mà
đương sự không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và cũng không có các giấy
tờ quy định tại khoản 1, 2 và 5 điều 50 thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy
ban nhân dân.
2. Giải quyết tranh chấp về phân chia di sản
thừa kế
1. Quyền khởi kiện
tranh chấp về phân chia di sản thừa kế.
Để khởi kiện yêu cầu
phân chia di sản thừa kế, trước hết cần xác định những ai có quyền hưởng di sản
thừa kế. Theo quy định, có hai hình thức thừa kế là: Thừa kế theo di chúc, và
thừa kế theo pháp luật.
o Người có quyền thừa
kế theo di chúc:
Là người được chỉ định
trong di chúc để nhận phần di sản do người chết để lại.
o Người có quyền thừa
kế theo pháp luật:
Thừa kế theo pháp luật
là thừa kế theo hàng thừa kế
Cụ thể theo quy định
tại Điều 651 thì những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự
như sau:
“a) Hàng thừa kế thứ
nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của
người chết;
b) Hàng thừa kế thứ
hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của
người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba
gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì
ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú
ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ
nội, cụ ngoại.”
• Những người thừa kế
cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
• Những người ở hàng
thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã
chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối
nhận di sản.
2. Thẩm quyền giải
quyết tranh chấp về thừa kế
Theo quy định tại Điều
26 BLTTDS năm 2015 thì tranh chấp về thừa kế tài sản là tranh chấp thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án.
Căn cứ quy định tại
Điều 35, 38 BLTTDS năm 2015 thì những tranh chấp về thừa kế thuộc thẩm quyền
giải quyết của TAND cấp huyện, trừ trường hợp đương sự hoặc tài sản ở nước
ngoài thì tranh chấp sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp tỉnh.
Lưu ý:
• Đối với những tranh
chấp liên quan đến việc phân chia di sản thừa kế là bất động sản, thì chỉ Tòa
án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết;
• Trường hợp di sản
thừa kế là động sản thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Toà án nơi bị đơn cư
trú, làm việc. Các bên cũng có thể thỏa thuận bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi
nguyên đơn cư trú, làm việc giải quyết tranh chấp.
3. Thời hiệu khởi kiện
tranh chấp tài sản thừa kế:
Theo quy định tại Điều
623 BLDS năm 2015 thì “Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm
đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể thừ thời hiệu mở thừa kế. Hết
thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó”.
Thời điểm mở thừa kế
là thời điểm người có tài sản chết ( Điều 611 BLDS năm 2015)
3. Hình thức giải quyết tranh chấp thừa kế nhà
đất
Tranh chấp thừa kế là
gì?
Tranh chấp thừa kế nhà
đất là những bất đồng, trái ngược, mâu thuẫn về lợi ích giữa các bên trong quan
hệ thừa kế như tranh chấp trong việc xác định ai là người có quyền hưởng di
sản, tranh chấp do các phần di sản được hưởng không bằng nhau,…
Trên thực tiễn thi
hành pháp luật, các tranh chấp thừa kế thường có nội dung như sau:
- Tranh chấp hàng thừa
kế
- Tranh chấp về di sản
thừa kế
- Tranh chấp cách hiểu
về nội dung di chúc
- Tranh chấp về việc
xác định chủ thể thực hiện nghĩa vụ của người để lại di sản
- Tranh chấp việc phân
chia di sản thừa kế.
Phương thức giải quyết
tranh chấp thừa kế
Thương lượng
Đây là phương thức
giải quyết tranh chấp bằng việc hai bên tự gặp gỡ, trao đổi và thỏa thuận với
nhau cùng đưa ra cách giải quyết mà không cần sự can thiệp của bên thứ ba (pháp
luật không quy định thủ tục thực hiện).
Hòa giải
Đây là phương thức
giải quyết tranh chấp bằng việc mời một bên thứ ba (cá nhân, tổ chức) làm trung
gian để phân tích, nêu quan điểm, gợi mở những phương hướng giải quyết tranh
chấp liên quan đến việc thừa kế của hai bên liên quan (pháp luật không quy định
thủ tục thực hiện).
Hai phương thức thương
lượng và hòa giải mang tính mềm dẻo, linh hoạt và tiết kiệm chi phí. Tuy nhiên,
kết quả giải quyết không mang tính bắt buộc cho các bên liên quan.
Khởi kiện
Đây là cách giải quyết
tranh chấp tại Tòa án bằng việc gửi đơn khởi kiện (phải có đơn khởi kiện và
theo đúng trình tự, thủ tục được quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).
Phương thức giải quyết
có trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật; các bên phải thực hiện, nếu
không sẽ phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi. Đặc biệt, chủ thể giải quyết
sẽ đảm bảo sự công bằng và hợp lý trong việc giải quyết tranh chấp.
Tuy nhiên, hình thức
kiện tụng này sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ, uy tín và danh dự các bên. Thời
gian giải quyết tranh chấp cũng kéo dài, chi phí giải quyết khá lớn.
4. Bố mẹ không để lại di chúc, con út có toàn
quyền hưởng thừa kế không?
Tóm tắt câu hỏi:
Cho em hỏi. Tài sản sở
hữu của cha mẹ tôi có 8.000m2 gần quốc lộ 1A và 1 số đất khác (gia đình có 6
anh em trong đó có tôi) hiện nay đã chia cho 5 người còn lai 1.000m2 cha me tôi
đang đứng tên và một số đất khác (5 người đã ở nhà và hộ khẩu riêng). Vậy ví dụ
như khi cha me tôi mất không để lại di chúc cho tôi phần đất 1.000m2 và một số
đất khác thì tôi có được quyền thừa hưởng phần đất trên không hay chia đều cho
6 người con, còn nếu 5 người kia không có tranh chấp thì thủ tục chuyển sổ cho
có cần 5 người kia ký đồng ý hay không? (vì 5 người kia cha mẹ tôi đã chia tất
cả rồi riêng tôi chưa được chia) vì cha mẹ tôi cứ ấn định tôi là con út phần
còn lại tất cả là tui hưởng chứ không ai được thừa hưởng, nhưng theo luật là
sai phải không? Xin chân thành cảm ơn.
1. Cơ sở pháp lý:
– Bộ luật dân sự 2015;
2. Giải quyết vấn đề:
Nếu bố mẹ bạn chết
không để lại di chúc thì việc chia di sản thừa kế của bố mẹ bạn sẽ chia theo
pháp luật. Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 quy định người thừa kế theo pháp luật
như sau:
– Những người thừa kế
theo pháp luật được được chia thành các hàng thừa kế và thứ tự hưởng thừa kế:
+ Hàng thừa kế thứ
nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của
người chết;
+ Hàng thừa kế thứ hai
gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của
người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại;
+ Hàng thừa kế thứ ba
gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì
ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú
ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ
nội, cụ ngoại.
– Những người thừa kế
thuộc cùng hàng thừa kế được hưởng phần di sản bằng nhau.
Bạn nêu bố mẹ bạn sinh
được 6 anh em, theo đó 6 anh em bạn được xác định là con đẻ của người chết và
cùng thuộc hàng thừa kế thứ nhất như vậy di sản của bố mẹ bạn sẽ được chia đều
cho cả 06 người con.
Trong trường hợp bố mẹ
bạn muốn cho bạn được hưởng phần đất 1000m2 và một số đất khác thì bố mẹ bạn
phải lập di chúc định đoạt cho bạn số tài sản này.
Sau khi bố mẹ bạn mất,
05 người con còn lại không tranh chấp với bạn về phần đất còn lại của bố mẹ bạn
thì khi sang tên sổ đỏ vẫn phải có chữ ký của 05 người con còn lại.
5. Em trai không phụng dưỡng mẹ có được nhận di sản thừa kế?
Thưa luật sư, giai đình tôi đang
tranh chấp về nhà đất là: gia đình tôi có 4 người con, 3 gái 1 trai, ba tôi mất
lâu rồi giờ chỉ còn má tôi. Tôi là con gái thứ 3 và đứa con gái thứ út sống
chung với má tôi mấy chục năm rồi, chị 2 tôi về ở nhà chồng, còn người con trai
thứ tư thì bỏ má tôi 20 mấy năm không chăm sóc, phụng dưỡng bà gì hết. Tôi và
em út nuôi má tôi đến mất. Má tôi mới mất được gần 2 tháng, không có để lại di
chúc gì hết, bây giờ thằng con trai về đòi giành hết nguyên căn nhà mà tôi với
em úc tôi ở nuôi bà mấy chục năm nay. Còn cái nữa là khoảng 10 năm trước, lúc
má tôi chưa mất, căn nhà mà tôi ở chung với má tôi có 2 bên, lúc đó má tôi bán
cho tôi 1 bên với giá 20 triệu, vừa bán vừa cho, giấy tờ ghi bằng tay có má
tôi, 3 chị em gái tôi với bà hàng xóm kế bên kí tên vào giấy nhưng không có lên
phường hoặc xã công chứng. Nhà có sổ hồng, hộ khẩu đầy đủ hết, nhưng mà hộ khẩu
thì 2 người con gái mang họ mẹ, còn 1 người con gái với 1 người con trai thì
mang họ ba tôi. 4 người đều là con chung hết, không có người nào là con riêng.
Vậy luật sư cho tôi hỏi, tài sản của má tôi để lại sẽ được chia như thế nào?
Còn phần nhà tôi mua lúc trước là của riêng mình tôi hay phải chia hết ra luôn?
Thứ nhất, về việc phân chia di sản
của mẹ bạn:
Căn cứ Điều 631, Điều 633, Điều 634,
điểm a khoản 1 Điều 675 Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS 2005), kể từ thời điểm mẹ
chị mất (thời điểm mở thừa kế), vì không để lại di chúc nên toàn bộ di sản (bao
gồm tài sản riêng và phần tài sản trong khối tài sản chung với người khác) sẽ
được thừa kế theo pháp luật.
Những người thừa kế ở hàng thứ nhất
sẽ được hưởng những phần di sản ngang bằng nhau (Điều 676 BLDS 2005). Chị có
thể thực hiện đối chiếu với các quy định được trích dẫn dưới đây để xác định
chính xác số người được thừa kế:
Hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ,
chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
Đồng thời theo quy định tại Điều 635
BLDS 2005 người thừa kế phải đáp ứng điều kiện nếu là cá nhân thì phải còn sống
vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng
đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.
Tóm lại, về vấn đề thừa kế, em trai
chị dù không chăm sóc phụng dưỡng, nhưng theo quy định của pháp luật, khi di
sản được thừa kế theo pháp luật, tất cả những người thừa kế (trong đó có em
trai chị) đều được hưởng những phần bằng nhau. Những người con dù không chung
hộ khẩu và mang họ khác nhau nhưng chỉ cần chứng minh là con của mẹ (trường hợp
này được thể hiện trong giấy khai sinh) thì đều có tư cách người thừa kế ở hàng
thứ nhất.
Thứ hai, về việc chị mua căn nhà của
mẹ 10 năm trước:
Vì khi mua nhà khoảng 10 năm trước
nhưng (khoảng năm 2004) chỉ lập hợp đồng hai bên ký dưới sự chứng kiến và ký
tên làm chứng của em gái cũng như người hàng xóm mà không có ý kiến xác nhận
của UBND cấp xã, hiện tại em trai chị đang tranh chấp chia thừa kế ngôi nhà này
nên nếu nộp đơn khởi kiện, Tòa án sẽ tuyên hợp đồng vô hiệu theo Điều 134 BLDS
2005 do không tuân thủ quy định về hình thức của hợp đồng chuyển nhượng (tại
thời điểm xảy ra giao dịch, khi thực hiện chuyển nhượng yêu cầu phải lập thành
văn bản, có chữ ký của hai bên và xác nhận của UBND cấp xã).
Giải quyết hệ quả của hợp đồng vô
hiệu, hai bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả lại cho nhau những gì
đã nhận. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường (Khoản 2 Điều 137 BLDS 2005).
Trong trường hợp này, cả chị và mẹ
đều có lỗi trong việc không tuân thủ về mặt hình thức để dẫn đến hợp đồng vô
hiệu, nên phần chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất và nhà ở trên đất do các
bên thoả thuận với giá trị quyền sử dụng đất và nhà ở trên đất tại thời điểm
xét xử sơ thẩm (Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP) được xác định là phần thiệt hại và
sẽ chia đôi mỗi bên chịu một nửa.
Như vậy, khi bị Tòa án tuyên hợp
đồng chuyển nhượng vô hiệu, chị hoàn trả lại căn nhà cho mẹ. Tuy nhiên, vì mẹ
chị đã mất nên đây cũng được xem là di sản của mẹ chị, lúc này những người thừa
kế hợp pháp của mẹ chị sẽ tiếp nhận căn nhà đồng thời họ cũng có trách nhiệm
giao lại chị 20 triệu và một nửa khoản tiền chênh lệch giá trị quyền sử dụng
đất do các bên thoả thuận với giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm xét xử sơ
thẩm như đã phân tích ở trên. Sau khi chia di sản, những người thừa kế có trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại (là tổng số tiền phải
giao cho chị) tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận
(khoản 3 Điều 637 BLDS 2005).

Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV,
THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội
ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ
cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng
tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề
nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật
sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn
nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm
và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì
sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo
đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy
sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc
sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui
của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại
công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã
hội.
Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình-
Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn
được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn
pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như: Đài
Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền
hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài
tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói
Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp
luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo
Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư
được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa
giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân,
Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông
uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan
trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ
đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ
Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người,
Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ
án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh
nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự
công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý
cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư
Thành Phố)
Trụ sở: 402A
Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn
Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần
Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại:
028-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần
Minh Hùng: 0972 238006
Email: luatsuthanhpho@gmail.com
http://www.luatsugiadinh.net. vn
http://www.luatsuthanhpho.com
|