1.
Quyền thừa kế đất đai mang tên Hộ gia đình sử dụng đất
Nội dung câu hỏi: Xin chào luật sư!
tư vấn giúp em. Mẹ chồng tôi chết năm 2012 và có để lại một mảnh đất khoảng
4000 m2, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và mẹ chồng tôi là đại
diện hộ gia đình đứng tên giấy đất. Hiện tại còn lại 4 người anh chồng còn
sống, chồng tôi thì đã chết năm 2010, vợ chồng tôi có 2 đứa con. Nay các anh
chồng tôi không muốn chia tài sản cho tôi mà muốn đuổi tôi ra khỏi mảnh đất này
và cho rằng tôi là con dâu thì không có quyền được hưởng phần tài sản này. Xin
hỏi tôi có quyền thừa kế trong phần đất này hay không? Nếu tôi không được hưởng
thỉ các con tôi có được hưởng hay không? Nếu chia thừa kế thì chia như thế nào
là đúng?
Luật sư Gia Đình trả lời:
Chào bạn! Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu
hỏi cần tư vấn, với thắc mắc của bạn chúng tôi tư vấn như sau:
Theo thông tin mà bạn cung cấp mảnh
đất 4000m2 được cấp cho hộ gia đình mẹ chồng bạn, do mẹ bạn đứng tên chủ hộ.
Tại Khoản 29 Điều 3 Luật đất đai 2013 quy định về Hộ gia đình sử dụng đất như
sau:
“Hộ gia đình sử dụng đất là những
người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật
về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời
điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận
chuyển quyền sử dụng đất.”
Như vậy, theo quy định của pháp luật
đất đai đất cấp cho hộ gia đình thì tất cả các thành viên có quan hệ huyết
thống, có tên trong sổ hộ khẩu vào thời điểm cấp Giấy chứng nhận sẽ cùng là chủ
sở hữu với mảnh đất này. Bạn cần xem xét xem thời điểm cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất chồng bạn có tên trong Sổ hộ khẩu cùng với mẹ chồng bạn hay
không. Nếu chồng bạn có tên trong sổ hộ khẩu thì chồng bạn cùng là chủ sở hữu
với các thành viên khác. Khi chồng bạn mất phần đất này sẽ là di sản thừa kế
của chồng bạn do đó nếu những người chú còn lại không cho bạn và các con hưởng
di sản là trái quy định của pháp luật.
Do đất được cấp cho hộ gia đình do
đó mẹ bạn không phải là chủ sở hữu riêng của mảnh đất, khi mẹ chồng bạn mất một
phần đất thuộc sở hữu của mẹ bạn trong tổng diện tích 4000m2 sẽ trở thành di
sản thừa kế. Do mẹ bạn mất không để lại di chúc nên tài sản này sẽ được chia
theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Điều 650 Bộ Luật dân sự 2015 quy
định những trường hợp thừa kế theo pháp luật như sau:
“1. Thừa kế theo pháp luật được áp
dụng trong trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc
chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức
được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm
người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di
sản.”
Điều 651 Bô Luật dân sự 2015 quy
định về người thừa kế theo pháp luật như sau:
“1. Những người thừa kế theo pháp
luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ,
chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
2. Những người thừa kế cùng hàng
được hưởng phần di sản bằng nhau.”
Điều 652 Bộ luật dân sự 2015 quy
định về thừa kế thế vị như sau:
“Trường hợp con của người để lại di
sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được
hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu
cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được
hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.”
Theo các quy định này thì bạn là con
dâu nên không thuộc hàng thừa kế tài sản của mẹ chồng bạn. Do chồng bạn mất
trước khi mẹ bạn mất nên trường hợp này các con của vợ chồng bạn sẽ thế vị
hưởng phần di sản thừa kế của chồng bạn. Các con bạn sẽ được hưởng phần di sản
tương tự như những người thừa kế khác. Do đó, các chú không cho các con bạn
hưởng di sản là không phù hợp với quy định của pháp luật.
2.
Điều kiện để thừa kế quyền sử dụng đất
1. Điều kiện chung
1.1 Có Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
Theo quy định tại khoản 20 Điều 4
LĐĐ 2003 thì “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất là giấy chứng nhận do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp
cho người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, quyền sở hữu tài sản khác
gắn liền với đất để bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”. GCNQSDĐ là chứng thư
pháp lý xác lập mối quan hệ hợp pháp giữa nhà nước với NSDĐ. Thông qua GCNQSDĐ,
nhà nước xác lập mối quan hệ pháp lý giữa nhà nước với tư cách là chủ sở hữu
đất đai với các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được nhà nước chuyển giao quyền
sử dụng đất. Nhằm có đầy đủ các căn cứ pháp lý để thực hiện quản lý Nhà nước về
đất đai, tạo cơ sở pháp lý để bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của NSDĐ. Dù
nhận quyền sử dụng đất dưới hình thức nào thì căn cứ rõ ràng nhất để xác định
chủ thể có QSDĐ hợp pháp là chủ thể sử dụng phải đứng tên trên GCNQSDĐ. Mặt
khác, giấy chứng nhận còn có ý nghĩa xác định phạm vi, giới hạn sự tác động đến
đất đai của NSDĐ thông qua các nội dung: mục đích sử dụng đất, thời hạn sử
dụng, diện tích sử dụng,… được ghi nhận trên giấy.
GCNQSDĐ là điều kiện hình thức vô
cùng quan trọng, tuy nhiên, điều kiện này không mang tính tuyệt đối với thừa kế
quyền sử dụng đất. Về bản chất di sản có giá trị tài sản là quyền sử dụng đất
chứ không phải GCNQSDĐ. Do đó, nếu có chứng cứ chứng minh người quá cố là người
cóquyền sử dụng đất hợp lệ thì quyền sử dụng đất đó vẫn được xác định là di sản
thừa kế. Vì vậy, pháp luật cho phép NSDĐ chưa có GCNQSDĐ vẫn có quyền để thừa
kế trong trường hợp họ có các giấy tờ thay thế như giấy tờ do cơ quan có thẩm
quyền thuộc chế độ cũ cấp; giấy tờ về thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất
ở; GCNQSDĐ tạm thời hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính,… theo
quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 50 LĐĐ 2003. Đến LĐĐ 2013 quy định
này đã có sự thay đổi, theo đó, NSDĐ được thực hiện quyền thừa kế khi có Giấy
chứng nhận hoặc đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất[1]. Như vậy, LĐĐ 2013 không chỉ căn
cứ vào các loại giấy tờ thay thế giấy chứng nhận như LĐĐ 2003, mà đã nới rộng
điều kiện này bằng cách quy định “đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”. Nói là nới rộng
vì LĐĐ 2013 đã bổ sung thêm nhiều loại giấy tờ mà nếu có nó NSDĐ sẽ được cấp
GCNQSDĐ như: sổ mục kê đất, sổ kiến điền lập trước ngày 18 tháng 12 năm 1980;
dự án hoặc danh sách hoặc văn bản về việc di dân đi xây dựng khu kinh tế mới,
di dân tái định cư; Giấy tờ của nông trường, lâm trường quốc doanh về việc giao
đất cho người lao động trong nông trường, lâm trường để làm nhà ở[2];… Thậm
chí, Điều 101 LĐĐ 2013, Điều 20 Nghị định 43/2014/NĐ-CP Hướng dẫn thi hành Luật
Đất đai 2013quy định hộ gia đình, cá nhân không có giấy tờ về quyền sử dụng đất
mà“đang sử dụng đất trước ngày 01/7/2014, có hộ khẩu thường trú tại địa phương
và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối
tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã
hội đặc biệt khó khăn, được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là người
đã sử dụng đất ổn định, không có tranh” hoặc “đã được sử dụng đất ổn định từ
trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, được Ủy
ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch
sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư
nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có
quy hoạch” thì vẫn đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận, vì vậy, những chủ thể
này cũng có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất.
So với các hình thức chuyển quyền sử
dụng đất khác thì có thể xem đây là một sự “ưu tiên” dành cho thừa kế quyền sử
dụng đất. Bởi hiện nay, NSDĐ phải có GCNQSDĐ mới được thực hiện các quyền
chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho quyền sử dụng đất, thế chấp,
góp vốn bằng quyền sử dụng đất[3]. Nguyên nhân của sự khác biệt này xuất phát
từ bản chất của thừa kế quyền sử dụng đất, đây là hành vi pháp lý đơn phương,
không mang tính chất trao đổi, chỉ phát sinh khi NSDĐ chết mà sự sống chết của
con người không thể lường trước được, cho nên không thể yêu cầu họ phải có
GCNQSDĐ rồi mới được chết, cũng như không thể phủ nhận hoàn toàn công sức tạo
lập tài sản của họ khi còn sống chỉ với lý do không có Giấy chứng nhận.
Mặc dù, có quy định thông thoáng để
bảo vệ quyền lợi của những NSDĐ chưa có giấy chứng nhận, nhưng trên thực tế
việc để thừa kế loại đất này phải trải qua các thủ tục hành chính tương đối
phức tạp, phụ thuộc nhiều vào ý chí của các cán bộ làm việc trong các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Do đó, đẩy mạnh công tác cấp GCNQSDĐ là nhiệm vụ hàng
đầu. Thông qua chỉ thị số 1474/CT-TTg ngày 24 tháng 8 năm 2011 của Thủ tướng
Chính phủ, Công văn số 3987/BTNMT-TCQLĐĐ ngày 28 tháng 10 năm 2011 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường, công văn số 2419/BTNMT-TCQLĐĐ ngày 13 tháng 7 năm 2012
của Bộ Tài nguyên và Môi trường nhiệm vụ này đã được thực hiện khá thành công.
Theo báo cáo của các địa phương, tính đến đầu năm 2014 cả nước đã cấp được 40,1
triệu Giấy chứng nhận với tổng diện tích 22,3 triệu ha, đạt 92,2% diện tích các
loại đất cần cấp, trong đó 5 loại đất chính của cả nước đã cấp được 39,2 triệu
giấy với tổng diện tích 21,7 triệu ha, đạt 92,1% diện tích cần cấp và đạt 94,0%
tổng số trường hợp sử dụng đất đủ điều kiện cấp[4]. Như vậy, trong thời gian
tới những khó khăn liên quan đến việc chưa có GCNQSDĐ sẽ được giải quyết.
1.2 Đất không có tranh chấp
Đất không có tranh chấp là đất mà
tại thời điểm thực hiện các giao dịch về quyền sử dụng đất, các chủ thể sử dụng
đất không có sự bất đồng với nhau trong việc xác định ai là người có quyền sử
dụng đất hợp pháp đối với diện tích đất đó và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
không nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp liên quan đến đất đó. Khi
thực hiện quyền thừa kế, người nhận thừa kế sẽ chứng minh đất không bị tranh
chấp thông qua việc cung cấp GCNQSDĐ hoặc các loại giấy tờ hợp lệ có liên quan
đến quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó, về phía cơ quan Nhà nước khi tiếp nhận hồ
sơ đăng ký thừa kế quyền sử dụng đất cũng có trách nhiệm kiểm tra tình trạng
đất có bị tranh chấp hay không thông qua các giấy tờ, hồ sơ có liên quan. Ngoài
ra, khi tiến hành phân chia, khai nhận di sản thừa kế thì bản thỏa thuận phân chia
di sản thừa kế, khai nhận di sản thừa kế phải niêm yết công khai 15 ngày tại
trụ sở UBND phường, xã nhằm xác định quyền sử dụng đất để thừa kế có tranh chấp
hay không. Khi phát hiện tình trạng đất có tranh chấp cơ quan có thẩm quyền sẽ
ngừng ngay việc tiến hành các thủ tục cho nhận thừa kế quyền sử dụng đất và chỉ
tiếp tục khi tranh chấp đã được giải quyết xong.
Đây là quy định nhằm xác định rõ tư
cách pháp lý của chủ thể thực hiện quyền và bảo vệ lợi ích hợp pháp của họ. Về
nguyên tắc, một chủ thể chỉ được hưởng và được thực hiện giao dịch quyền sử
dụng đất đối với diện tích đất mà mình có quyền sử dụng. Đồng thời, di sản thừa
kế phải là tài sản của người chết, do đó, khi chưa xác định được ai là chủ sở
hữu của quyền sử dụng đất thì không thể xem quyền sử dụng đất đang có tranh
chấp là di sản thừa kế. Quy định này sẽ tạo điều kiện cho việc giải quyết tranh
chấp đất đai, tránh những rắc rối, hệ lụy phát sinh sau này.
1.3 Quyền sử dụng đất không bị kê
biên để đảm bảo thi hành án
Đây là quy định mới được ghi nhận
trong LĐĐ 2003. Kê biên là một hoạt động cưỡng chế nhằm đảm bảo việc thi hành
án trong lĩnh vực tư pháp khi chủ thể có nghĩa vụ tài sản không tự nguyện thực
hiện. Quyền sử dụng đất bị kê biên vẫn thuộc quyền sở hữu hợp pháp của NSDĐ
nhưng quyền của họ đã bị hạn chế vì hành vi vi phạm pháp luật của mình. Lúc
này, NSDĐ không thể tự mình thực hiện quyền định đoạt đối với quyền sử dụng đất
nữa, bởi tài sản này đã đặt dưới sự giám sát cơ quan thi hành án, nhằm tiến
hành hoạt động bán đấu giá để hoàn thành nghĩa vụ của NSDĐ đối với người được
thi hành án. Khi một người chết đi thì nghĩa vụ tài sản của họ để lại vẫn phải
được thực hiện bằng chính tài sản do họ tạo lập khi còn sống. Như vậy, quyền sử
dụng đất bị kê biên vẫn sẽ phải bán đấu giá để hoàn thành nghĩa vụ tài sản cho
người được thi hành án.
Nếu đặt giải thiết quyền sử dụng đất
bị kê biên vẫn có thể để thừa kế thì theo quy định tại Điều 637 BLDS 2005 người
nhận thừa kế vẫn phải thực hiện nghĩa vụ tài sản cho người được thi hành án,
nếu người nhận thừa kế tự nguyện thực hiện bằng tài sản của mình thì vấn đề sẽ
được giải quyết nhanh chóng, quyền sử dụng đất bị kê biên được giải tỏa. Người
nhận thừa kế tiến hành các thủ tục đăng ký thừa kế quyền sử dụng đất bình
thường. Nhưng nếu không thì mọi việc sẽ trở nên rắc rối khi thời gian tiến hành
thủ tục nhận di sản khá lâu mà thời gian thi hành án thì hạn chế. Hơn nữa, thủ
tục sẽ trở nên lòng vòng khi cuối cùng vẫn bán đấu giá quyền sử dụng đất bị kê
biên nhưng dưới tên chủ thể được nhận thừa kế. Và trong trường hợp này, việc
cho phép thừa kế quyền sử dụng đất cũng không có ý nghĩa, không đạt được bất cứ
mục đích gì.
Quy định này được xây dựng nhằm bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho chủ thể mà người chết có nghĩa vụ về tài sản,
tránh tình trạng cố ý tẩu tán tài sản, lẩn tránh nghĩa vụ của NSDĐ. Có như vậy
bản án, quyết định của Nhà nước mới có ý nghĩa, đảm bảo giá trị thi hành trên
thực tế, hoạt động Tư pháp mới đạt được hiệu quả.
1.4 Quyền sử dụng đất còn thời hạn
sử dụng
Trên cơ sở đất đai thuộc sở hữu toàn
dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu nên khi thực hiện quyền đại diện sở hữu của
mình Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng ổn định, lâu dài hoặc
trong một thời hạn nhất định chứ không trao vĩnh viễn. Có thể thấy, đây là điều
kiện đặt ra đối với loại đất có quy định thời hạn sử dụng. Thời hạn sử dụng đất
được hiểu là khoảng thời gian mà NSDĐ được phép sử dụng đất. Tùy theo từng loại
đất khác nhau, từng mục đích sử dụng, từng loại chủ thể sử dụng đất mà thời hạn
sử dụng đất là khác nhau. Trong thời hạn này, NSDĐ chính là chủ thể chiếm hữu
và có tác động trực tiếp lên đất đai. Pháp luật đất đai đã quy định cho họ khá
nhiều quyền trong thời gian sử dụng đất, trong đó có quyền để thừa kế quyền sử
dụng đất. Căn cứ vào GCNQSDĐ hoặc các loại giấy tờ có liên quan cơ quan có thẩm
quyền sẽ xác định thời hạn sử dụng đất để cho phép thừa kế quyền sử dụng đất.
Quy định thời hạn sử dụng đất là
cách thực hiện quyền định đoạt đối với đất đai của Nhà nước. Khi hết thời hạn
sử dụng mà NSDĐ không được gia hạn thì quyền sử dụng đất sẽ bị Nhà nước thu
hồi, lúc này, quyền sử dụng đất của NSDĐ chấm dứt. Và đương nhiên khi đó họ không
còn là chủ thể có quyền sử dụng đất để có thể thực hiện được quyền thừa kế
quyền sử dụng đất. Do đó, chỉ khi quyền sử đất còn thời hạn sử dụng thì mới có
thể để thừa kế.
Vì quyền sử dụng đất thừa kế phải
còn thời hạn sử dụng nên thời hạn còn lại đó cũng chính là thời hạn được sử
dụng đất của người nhận thừa kế. Thời hạn sử dụng đất là một chế định cơ bản
của pháp luật đất đai, có tác động trực tiếp đến quyền sử dụng đất. Nên việc
biết rõ thời hạn sử dụng đất được nhận thừa kế sẽ giúp cho người thừa kế xem
xét, cân nhắc, đưa ra kế hoạch đầu tư đúng đắn, phù hợp trên mảnh đất đó.
2. Điều kiện riêng
2.1 Điều kiện về chủ thể
Chủ thể để thừa kế quyền sử dụng đất
phải là thực thể có sự sống chết về mặt sinh học và có quyền sử dụng đất một
cách hợp lệ, hợp pháp. Quan hệ thừa kế quyền sử dụng đất chỉ phát sinh khi
người để thừa kế chết, nghĩa là, chủ thể có quyền phải là những thực thể có sự
sống chết. Vì vậy, trong quan hệ này chủ thể có quyền được pháp luật quy định
chỉ có thể là cá nhân, hoặc thành viên hộ gia đình, không có chủ thể là pháp
nhân như các giao dịch khác. Bên cạnh đó, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam cũng có quyền
để thừa kế nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở
Quan hệ sở hữu và quan hệ thừa kế
luôn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Theo quy định tại Điều 634 BLDS 2005 “Di
sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài
sản chung với người khác”. Tức là để được định đoạt phần tài sản của của mình sau
khi chết thì người để thừa kế phải là chủ sở hữu hợp pháp của tài sản đó. Nếu
một người chết để lại tài sản không phải với tư cách chủ sở hữu mà với tư cách
người quản lý tài sản thì tài sản này không phải là di sản của người đã chết.
Tương tự, quyền sử dụng đất muốn được để thừa kế thì NSDĐ phải là chủ sở hữu
quyền sử dụng đất. Để xác định vấn đề này cần dựa vào GCNQSDĐ và các giấy tờ
quyền sử dụng đất có liên quan.
Việc xác định quyền sử dụng đất
thuộc sở hữu của cá nhân, thành viên hộ gia đình để chia thừa kế vẫn còn gặp
khó khăn trên thực tế, nhất là những trường hợp quyền sử dụng đất được cấp cho
hộ gia đình hay NSDĐ trước khi chết đã tặng cho hay phân chia tài sản miệng cho
các con. Theo quy định tại Điều 108 của BLDS 2005, đất được cấp cho hộ gia đình
thì thuộc quyền sở hữu chung của tất cả mọi thành viên trong hộ gia đình. Hiện
nay, chưa có văn bản nào quy định rõ ràng việc xác định thế nào là hộ gia đình
được cấp GCNQSDĐ và việc xác định các thành viên hộ gia đình như thế nào, căn
cứ vào đâu? Thực tế thì các tổ chức công chứng và các cơ quan có thẩm quyền
đăng ký nhà đất đều xác định hộ gia đình sử dụng đất căn cứ vào sổ hộ khẩu tại
thời điểm được cấp GCNQSDĐ. Do không có sự quy định rõ ràng, chi tiết nên khi
gặp vụ án cần xác định phần di sản quyền sử dụng đất trong phần đất được cấp
cho hộ gia đình các thẩm phán đã khá lúng túng dẫn đến giải quyết vụ án không
hợp lý.
Nhận thấy sự bất cập này, LĐĐ 2013
quy định “Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết
thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang
sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất,
cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.”[6]
Qua đó, căn cứ để xác định thành viên hộ gia đình sử dụng đất là mối quan hệ
hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng, sống chung và có quyền sử dụng đất chung.
Các giấy tờ thể hiện các mối quan hệ này là giấy đăng ký kết hôn, giấy đăng ký
khai sinh hoặc các giấy tờ về nhận nuôi con nuôi. Sổ hộ khẩu chỉ nên là một
loại giấy tờ để tham khảo trong trường hợp thiếu những giấy tờ nêu trên, bởi
một số trường hợp, sổ hộ khẩu còn có những người không có quan hệ gia đình với
chủ hộ. Bên cạnh đó, còn phải căn cứ vào thời điểm xác lập quyền sử dụng đất
chung của hộ gia đình, dựa vào giấy xác nhận của cơ quan có thẩm quyền cấp đất
về thành viên của hộ gia đình tại thời điểm xác lập quyền sử dụng đất chung của
hộ gia đình. Trên thực tế, không nhiều chủ thể cung cấp được đầy đủ các giấy tờ
này nên rất khó khăn khi thực hiện giao dịch chuyển quyền sử dụng đất. Vì vậy,
theo tác giả trên GCNQSDĐ của hộ gia đình nên ghi nhận đầy đủ họ, tên chủ hộ và
họ, tên các thành viên của hộ gia đình đó. Như vậy, sẽ dễ dàng xác định được
đầy đủ thành viên có quyền sử dụng đất của hộ gia đình, tạo điều kiện thuận lợi
cho quá trình nhận thừa kế và giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
của hộ gia đình.
Khi một người đã tặng cho quyền sử
dụng đất của mình thì quyền sử dụng đất này không còn thuộc về người đó nữa nên
khi người đó chết quyền sử dụng đất không là di sản. Trên thực tế, việc xác
định khi nào một người đã tặng cho quyền sử dụng đất của mình cho người khác
khá khó khăn. Theo khoản 1 Điều 467 và khoản 1, khoản 2 Điều 689 BLDS 2005 thì
tặng cho quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng
thực. Tuy nhiên, trong quan hệ gia đình quy định này khó khả thi, cha mẹ đã già
thường rất ngại phải thực hiện các thủ tục hành chính phức tạp, con cái khi
được tặng cho quyền sử dụng đất cũng không thể yêu cầu cha mẹ phải làm đúng
theo các thủ tục luật định. Do đó, khi xét xử, Tòa án khá linh động trong việc
xác định sự tồn tại của quan hệ này. Ví dụ, theo quyết định giám đốc thẩm số
872/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao: “ông
Mìa, ông Mững và ông Hửng đều khai diện tích đất mà các ông đang sử dụng và đã
được cấp GCNQSDĐ tuy có nguồn gốc của cha mẹ, nhưng từ khi cụ Hưởn còn sống,
cha mẹ đã cho các ông sử dụng cất nhà ở ổn định. Tại Tòa án, cụ Vìa là mẹ các
đương sự vẫn khẳng định ý chí của vợ chồng cụ trong việc đã phân chia và định
đoạt cho các bị đơn sử dụng đất ổn định trong suốt thời gian dài. Do vậy, cụ
Vìa không đồng ý với yêu cầu chia thừa kế của các nguyên đơn. Tòa án cấp sơ
thẩm bác yêu cầu chia thừa kế quyền sử dụng đất phần tài sản của cụ Hưởn là có
căn cứ”.
2.2 Điều kiện về hình thức sử dụng
đất
Theo quy định tại Điều 113 LĐĐ 2003
quyền sử dụng của hộ gia đình, cá nhân có nguồn gốc không phải là đất thuê có
quyền để thừa kế quyền sử dụng đất theo di chúc hoặc theo pháp luật. Đối với
đất thuê về nguyên tắc không đặt ra vấn đề để thừa kế, tuy nhiên để giải quyết
những trường hợp hộ gia đình, cá nhân được nhà nước cho thuê đất trước ngày
01/7/2004 mà đã trả tiền thuê đất cho cả thời gian thuê hoặc đã trả tiền thuê
đất cho nhiều năm mà thời hạn thuê đất đã được trả tiền còn lại ít nhất là 5
năm nên những chủ thể này cũng có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất theo quy
định tại khoản 2 Điều 114 LĐĐ 2003. Quy định này chỉ là giải pháp tình thế để
giải quyết những trường hợp còn tồn tại do sự khác nhau giữa pháp luật đất đai
năm 1993 và 2003. LĐĐ 1993 cho phép cá nhân, hộ gia đình được thuê đất trả tiền
thuê đất một lần cho cả thời gian thuê nhưng đến LĐĐ 2003 cá nhân, hộ gia đình
chỉ được thuê đất trả tiền thuê đất hằng năm. BLDS 2005 cũng có quy định khái
quát tại Điều 734 BLDS 2005 cá nhân được nhà nước giao đất, cho thuê đất, nhận
chuyển quyền sử dụng đất có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định
tại phần thứ tư của Bộ luật này và pháp luật về đất đai. Tuy nhiên, LĐĐ 2013 có
hiệu lực vào ngày 01/7/2014 lại tái quy định cá nhân, hộ gia đình được lựa chọn
hình thức thuê đất trả tiền thuê đất hằng năm hoặc thuê đất trả tiền thuê đất
một lần cho cả thời gian thuê[8]. Từ đó, quy định ngoại lệ trên sẽ không còn
tồn tại và chỉ quyền sử dụng đất được sử dụng dưới hình thức thuê trả tiền hằng
năm của hộ gia đình, cá nhânlà không được phép để thừa kế. Như vậy, sắp tới
hình thức nhận quyền sử dụng đất được phép để thừa kế sẽ tăng lên, dẫn đến số
lượng chủ thể có cơ hội để và nhận thừa kế cũng nhiều hơn.
NSDĐ dưới hình thức thuê đất trả
tiền thuê đất hằng năm chỉ có quyền sử dụng đất trong thời gian ngắn và muốn
đảm bảo quyền sử dụng đất được liên tục thì họ phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
tài chính mỗi năm. Nhận thấy tính chất tạm thời, không ổn định của hình thức
này nên pháp luật không cho phép NSDĐ được để thừa kế. Tuy nhiên, để tạo cho
NSDĐ trả tiền thuê đất hằng năm tâm lý thoải mái yên tâm lao động sản xuất,
cũng như đảm bảo quyền lợi tương xứng với số tiền họ đã bỏ ra, pháp luật quy định
cho phép cá nhân, thành viên hộ gia đình được để thừakế tài sản thuộc sở hữu
của mình gắn liền với đất thuê và người nhận thừa kế được Nhà nước tiếp tục cho
thuê đất theo mục đích đã được xác định. Chủ thể nhận thừa kế tài sản gắn liền
với đất thuê cũng có đầy đủ các quyền lợi, nghĩa vụ không khác gì so với chủ
thể để lại di sản. Có thể thấy, về bản chất quy định này không tạo ra nhiều sự
khác biệt về hệ quả so với cho phép để thừa kế quyền sử dụng đất trả tiền thuê
đất hằng năm, cho thấy quy định của pháp luật về vấn để này khá hợp lý.

Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV,
THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi là hãng luật tổng
hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên
có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết
rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong
nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề
luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những
nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy
hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy
hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm,
có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có
khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công
việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa.
Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ,
đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã
hội.
Luật sư Trần Minh Hùng
Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều
năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng
với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh
truyền hình uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình
Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV,
THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV
Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình
Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp
luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên
cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho
nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với
trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật
cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho
nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin,
người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và
Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa
Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố
ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động,
hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự
đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội
của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi cùng tư vấn luật
và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA
ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A
Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du,
Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần
Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại:
028-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần
Minh Hùng: 0972 238006
Email: luatsuthanhpho@gmail.com
http://www.luatsugiadinh.net.
vn
http://www.luatsuthanhpho.com
|