CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc
lập – Tự do – Hạnh phúc
ĐƠN
KHIẾU NẠI
(V/v:
Yêu cầu giải quyết việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phần đất bị UBND
xã Tân Khánh lấn chiếm, phần chưa được cấp giấy chứng nhận, cấp giấy chứng nhận
đất thổ cư trong hạn mức theo quy định và bồi thường hoa màu trên đất do UBND
xã Tân Khánh chặt phá trái quy định)
Kính
gửi:
Đồng
kính gửi:
Người khiếu nại :
Địa chỉ liên hệ :
Nội
dung khiếu nại:
Vào
năm 1984 cha tôi là ông Lê Duy Thụy có tạo lập được mảnh đất tại Phố Chợ Tân
Khánh với diện tích là: 25m x 35m. Cha tôi đã bán cho ông Nguyễn Bá Thủy diện
tích đất là ngang 5m. Vì vậy tổng diện tích đất gia đình tôi còn lại vào là ngang 20m dài 35m.
Vào
năm 1990 UBND xã Tân Khánh có lập văn bản xác định mốc giới diện tích đất sử dụng
của gia đình tôi dài 25m gia đình tôi đã đóng thuế đầy đủ cho UBND xã Tân Khánh
hàng năm lên tới 6.000.000 đồng cho tổng toàn diện tích ngang 20m dài 35m. Đến
năm 1993 UBND xã Tân Khánh phối hợp UBND huyện Phú Bình cấp sổ cho gia đình tôi
diện tích đất ngang như vậy là không đủ
diện tích đất mà gia đình tôi đã tạo lập và đóng thuế là ngang 20m dài 35m.
Đến
ngày 10/06/1993 cha tôi có tặng cho tôi phần đất diện tích 11m mặt đường, tôi
có xây nhà và công trình phụ chiều dài là 30m. Gia đình tôi sử dụng diện tích đất
này từ năm 1993 để ở phần còn lại làm đất vườn trồng cây lâu năm như: xoài,
mít, nhãn, bạch đàn…
Năm
2006 cha tôi tách sổ riêng cho tôi diện tích đất là 40m2. Đến năm
2008 tôi sửa chữa và tháo dỡ nhà và các công trình phụ, sử dụng phần đất cha
tôi tạo lập được từ năm 1984 nhưng UBND xã Tân Khánh không cho gia đình tôi sử
dụng và lập biên bản bắt gia đình tôi đóng thuế đất với diện tích đất thổ cư
trong bản đồ đo vẽ năm 2008 do địa chính xã Tân Khánh vẽ (chiều dài là 23m)
Gia
đình tôi đã hoàn tất nghĩa vụ nộp thuế cho UBND xã Tân Khánh với chiều dài diện
tích đất là 25m, đồng thời tôi cũng đã làm đơn yêu cầu được cấp GCNQSDĐ nhưng
không được giải quyết phần chưa được cấp giấy chứng nhận.
Ngày
24/02/2009, phần diện tích đất sử dụng nằm cạnh UBND xã Tân Khánh có chiều
ngang là 2,8m thì trong quá trình xúc đất thì UBND xã Tân Khánh đến lập biên bản và gia đình
tôi trừ lại diện tích là 2,8m để không sập
móng UBND xã Tân Khánh chứ không phải là mốc giới đất giữa UBND xã với đất của
gia đình tôi. Vì khi xúc xúc thì gia đình tôi đã để lại khoảng 2.8mw so với
móng nhà của UBND xã tránh bị sập chứ không phải gia đình tôi cho hay nhường
cho UBND phần diện tích đất này.
Sau khi cha mẹ tôi mất. Ngày 11/10/2014 UBND xã Tân Khánh
cho người vào chặt cây(cây trồng lâu năm : mít, xoài, nhãn…) trong đất vườn
nhà tôi. Gia đình tôi khiếu nại lên UBND xã Tân Khánh thì nhận được biên bản trả
lời rằng: cha tôi là ông Lê Duy Thụy không đủ bằng chứng sở hữu đất từ năm
1984 đến năm 2008. Tôi không đồng ý với biên bản trả lời của UBND xã Tân Khánh
vì gia đình tôi tạo lập ai cũng biết và đóng thuế đầy đủ, đã trồng nhiều cây
hoa màu, câu ăn quả, cây lâu năm từ lâu và sử dụng ổn định từ đó đến nay đồng
thời cũng đã nộp thuế từ năm 1990 đến nay và không có bất kỳ ai tranh chấp đất
với gia đình tôi. Nhưng khi tôi làm đơn yêu cầu xin được cấp GCNQSDĐ thì không
được chấp nhận cấp phần diện tích đất còn lại chưa được cấp mà không được trả lời
bằng căn cứ pháp ký cụ thể bằng văn bản của UBND xã Tân Khánh.
Sau đó UBND xã Tân Khánh có thông báo yêu cầu gia đình
tôi tháo dỡ tài sản là công trình, cây cối phía sau hội trường UBND xã Tân
Khánh là không có căn cứ. Vì diện tích đất ngang 2,8 m này gia đình tôi đã nộp
thuế từ năm 1990, là nguồn gốc đất của gia đình tôi.
Đến ngày 19/5/2017 chủ tịch UBND xã Tân Khánh cho người
vào vườn nhà tôi chặt cây lần 2 để bán. Đến ngày 26/6/2017 tôi nhận được giấy mời
lên UBND xã Tân Khánh thỏa thuận về việc đền bù. Nhưng đến nay tôi không nhận
được khoản tiền đền bù nào.
Gia đình tôi sử dụng phần đất tạo dựng từ năm 1984 diện
tích là ngang 20m dài 35m. Đã được cấp GCNQSDĐ đất 1 phần diện tích đất nêu
trên. Phần diện tích đất còn lại chưa được cấp GCNQSDĐ. Tuy nhiên gia đình tôi
đã nộp thuế sử dụng đất từ năm 1990 và sử dụng vào mục đích ở và làm đất vườn
trồng cây lâu năm từ năm 1984 đến nay, đóng thuế đầy đủ, không bị tranh chấp.
Căn cứ theo quy định pháp luật hiện hành. Cụ thể quy định tại Khoản 2 Điều
101 Luật đất đai năm 2014 quy định như sau :
“Điều 101. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân
đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất
..................................................................................................................................................................
2.
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại Điều
100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm
2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác
nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch
chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất.
3.
Chính phủ quy định chi tiết Điều này.”
Theo quy định tại điểm a, điểm d khoản 1
Điều 20 nghị định 43/2014/NĐ-CP. Khoản 1 và điểm a Khoản 2 Điều 21 nghị định
43/2014/NĐ-CP.
Điều 20. Cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho
hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất
và không vi phạm pháp luật đất đai
Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (công nhận quyền sử dụng đất) cho hộ
gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà
không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100
của Luật Đất đai, Điều 18 của Nghị định này và không thuộc trường hợp quy định
tại Khoản 1 Điều 101 của Luật Đất đai, Điều 23 của Nghị
định này được thực hiện theo quy định như sau:
1. Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có
nhà ở, công trình xây dựng khác từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993; nay được Ủy
ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận không có tranh chấp sử dụng đất; việc sử
dụng đất tại thời điểm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là phù hợp với quy hoạch sử
dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân
cư nông thôn hoặc quy hoạch xây dựng nông thôn mới đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phê duyệt (sau đây gọi chung là quy hoạch) hoặc không phù hợp với
quy hoạch nhưng đã sử dụng đất từ trước thời điểm phê duyệt quy hoạch hoặc sử dụng
đất tại nơi chưa có quy hoạch thì được công nhận quyền sử dụng đất như sau:
a) Đối với
thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất nhỏ hơn hoặc bằng hạn mức công nhận đất
ở quy định tại Khoản 4 Điều 103 của Luật Đất đai (sau
đây gọi là hạn mức công nhận đất ở) thì toàn bộ diện tích thửa đất được công nhận
là đất ở.
Trường hợp
thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức công nhận đất ở thì diện
tích đất ở được công nhận bằng hạn mức công nhận đất ở; trường hợp diện tích đất
xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống lớn hơn hạn mức công nhận đất
ở thì công nhận diện tích đất ở theo diện tích thực tế đã xây dựng nhà ở và các
công trình phục vụ đời sống đó;
b) Đối với thửa đất có
công trình xây dựng để sản xuất, thương mại, dịch vụ phi nông nghiệp thì công
nhận đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp, đất thương mại, dịch vụ theo diện tích
thực tế đã xây dựng công trình đó; hình thức sử dụng đất được công nhận như
hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất, thời hạn sử dụng đất là ổn định lâu
dài;
c) Đối với thửa đất có
cả nhà ở và công trình xây dựng để sản xuất, thương mại, dịch vụ phi nông nghiệp
mà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức công nhận đất ở thì diện tích đất ở được
công nhận theo quy định tại Điểm a Khoản này; phần diện tích còn lại đã xây dựng
công trình sản xuất, thương mại, dịch vụ phi nông nghiệp thì được công nhận
theo quy định tại Điểm b Khoản này;
d) Đối với
phần diện tích đất còn lại sau khi đã được xác định theo quy định tại các Điểm
a, b và c Khoản này thì được xác định là đất nông nghiệp và được công nhận theo
quy định tại Khoản 5 Điều này.
Theo Điều 21 của Nghị định về Căn cứ xác định việc sử dụng đất ổn
định
1. Sử dụng đất ổn định là việc sử dụng đất liên tục vào một mục
đích chính nhất định kể từ thời điểm bắt đầu sử dụng đất vào mục đích đó đến thời
điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất hoặc đến thời điểm quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền đối với trường hợp chưa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi
chung là Giấy chứng nhận).
2. Thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định được xác định căn cứ vào
thời gian và nội dung có liên quan đến mục đích sử dụng đất ghi trên một trong
các giấy tờ sau đây:
a) Biên lai nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất;
b)
Biên bản hoặc quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong việc sử dụng đất,
biên bản hoặc quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong việc xây dựng công
trình gắn liền với đất;
.........................................................................................................
i) Bản đồ, sổ mục kê,
tài liệu điều tra, đo đạc về đất đai qua các thời kỳ;
k) Bản kê khai đăng ký
nhà, đất có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã tại thời điểm kê khai đăng ký.
3. Trường hợp thời điểm
sử dụng đất thể hiện trên các loại giấy tờ quy định tại Khoản 2 Điều này có sự
không thống nhất thì thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định được xác định theo
giấy tờ có ghi ngày tháng năm sử dụng đất sớm nhất.
4. Trường hợp không có
một trong các loại giấy tờ quy định tại Khoản 2 Điều này hoặc trên giấy tờ đó
không ghi rõ thời điểm xác lập giấy tờ và mục đích sử dụng đất thì phải có xác
nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về thời điểm bắt đầu sử dụng đất và mục đích sử
dụng đất trên cơ sở thu thập ý kiến của những người đã từng cư trú cùng thời điểm
bắt đầu sử dụng đất của người có yêu cầu xác nhận trong khu dân cư (thôn, làng,
ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố) nơi có đất.
Căn cứ theo quy định trên thì gia đình tôi sử dụng phần đất
này ổn định, và đã nộp thuế từ năm 1990 nay tôi yêu cầu được cấp GCNQSDĐ là có
căn cứ và đúng quy định pháp luật. Biên lai tôi nộp thuế đất từ 2008 là
15.000.000 đồng, năm 2008 tới 6.000.000 đồng ghi rõ nộp thuế đất, làm giấy chứng
nhận. Thuế đất nông nghiệp không nhiều như vậy vì đây là thuể chuyển mục đích đất
nên tôi phải được xem xét cấp giấy chứng nhận.
Bằng văn bản này tôi kính đề nghị UBND huyện Phú Bình và
UBND xã Tân Khánh và Bí thư huyện Phú Bình xem xét giải quyết cho tôi với các
yêu cầu sau đây :
Đề nghị UBND huyện Phú Bình cấp GCNQSDĐ phần diện tích đất
gia đình tôi tạo lập sử dụng ổn định từ 1984 đến nay, kể cả phần diện tích đất ngang
2,8m tiếp giáp với UBND xã Tân Khánh.
Tôi được cấp GCNQSDĐ tại thửa đất số 1934 ; Tờ bản đồ
số 21 ; diện tích đất 212.5m2.
Tôi chỉ được cấp 40m2 diện tích đất thổ cư. Nay tôi đề nghị UBND huyện
Phú Bình cấp thêm cho tôi diện tích sử dụng đất thổ cư là 260m2 là phần diện tích đất thổ cư trong hạn mức
pháp luật cho phép là 300m2.
Yêu cầu UBND xã Tân Khánh bồi thường cho tôi
phần cây cối, hoa màu bị UBND xã chặt thu hồi theo giá thị trường, tạm
tính : 50.000.000 đồng.
Kính mong quý cơ quan xem xét và giải quyết cho tôi.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
……………, ngày tháng năm
Người khiếu nại
Đính kèm : Biên lai đóng thuế đất
2008-2009, các biên bản lập tại xã Tân
khánh, và các hồ sơ liên quan đến đất gia đình tôi.
|