Câu hỏi:
Chào Luật sư, năm 2011 bố mẹ tôi về xây nhà trên phần đất của ông bà nội tôi (đất này là đất nhiều đời của ông nội). Ông tôi lấy hai người vợ (đều là vợ chính thức), bố tôi là con bà đầu (đã mất). Bà 2 có 1 con trai và 7 con gái, hiện tại sống trên đất ông bà có bố tôi, chú tôi (bà 2 vẫn còn sống và đang ở cùng chú), và 1 người con gái của bà 2 (trong đó đó 3 người con của o cũng đã xây nhà và ở trên đất ông bà).
Hiện nay, gia đình chúng tôi muốn làm bìa đỏ của phần nhà ở và 1 mảnh vườn sau nhà, nhưng chú tôi không đồng ý. Ông nội tôi mất năm 1993 và không để lại di chúc. Vậy xin nhờ Luật sư góp ý dùm tôi và gia đình để được hưởng quyền lợi chính xác trong việc tranh chấp đất đai này. Tôi và gia đình xin chân thành cảm ơn!
Trả lời:
Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi cần tư vấn về cho Chúng tôi, với trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:
Điều 623 Bộ luật dân sự 2015 quy định về thời hiệu thừa kế như sau:
“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.”
Như trình bày thì ông nội bạn mất năm 1993, tính đến năm 2021 là 28 năm căn cứ theo quy định trên thì thời hiệu yêu cầu phân chia di sản thừa kế vẫn còn. Ông nội bạn mất không để lại di chúc nến phần đất đó sẽ được chia theo pháp luật.
Do thông tin bạn cung cấp không rõ ràng nên chúng tôi chưa thể xác định được phần di sản thừa kế của ông bạn là tài sản riêng hay tài sản chung với các bà vợ. Do đó chúng tôi chia thành các trường hợp sau:
Trường hợp 1: Nếu phần đất đó là tài sản riêng của ông nội bạn thì toàn bộ phần đất đó sẽ được chia theo pháp luật.
Do ông nội bạn mất nhưng không có di chúc để lại nên phần đất đó sẽ được chia theo pháp luật cho những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại bộ luật dân sự như sau:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”
Do đó, trong trường hợp gia đình bạn, Căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 651 nêu trên, phần đất của ông nội bạn sẽ được chia làm 10 phần bằng nhau. Những người được nhận thừa kế là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, bao gồm: Bà hai, Bố bạn, 8 người con của bà hai.
Trường hợp 2: Nếu phần đất đó là tài sản chung của ông nội với bà cả hoặc bà hai thì ông bạn chỉ được sở hữu ½ tài sản. Khi đó ½ phần đất đó sẽ được chia làm 10 phần bằng nhau tương tự như trường hợp 1.7
LS TRẦN MINH HÙNG TƯ VẤN TRÊN HTV
--- |