HOẠT ĐỘNG LUẬT SƯ
- Luật sư giải quyết thuận tình ly hôn tại tphcm
- Luật sư chuyên đại diện ủy quyền ly hôn
- Luật sư chuyên soạn thảo các loại hợp đồng
- Luật sư ly hôn tại Tân Bình, Gò Vấp
- Luật sư chuyên đại diện cho doanh nghiệp tại tòa án
- Văn phòng luật sư tư vấn
- Luật sư chuyên tranh chấp nhà đất với người nước ngoài
- Luật sư chuyên tranh chấp nhà đất cho việt kiều tại sài gòn
- Luật sư chuyên khởi kiện tranh chấp thừa kế
- Luật sư chuyên khởi kiện thu hồi nợ
- Luật sư chuyên làm giấy tờ nhà đất tại tphcm
- Luật sư giỏi tại thành phố hồ chí minh
- Dịch vụ sang tên sổ đỏ sổ hồng
- Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng thuê nhà xưởng
- Tư vấn người nước ngoài ly hôn với người việt nam
- Luật sư giỏi về thừa kế tại tphcm
- Luật sư tư vấn luật đất đai
- Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị hại trong vụ án hình sự
- Luật sư chuyên tư vấn chia tài sản sau khi ly hôn
- Luật sư pháp chế doanh nghiệp
- Phí thuê luật sư ly hôn tại tphcm
- Tư vấn thủ tục nhận thừa kế nhà đất
- Luật sư cho việt kiều và người nước ngoài
- Luật sư giỏi chuyên tố tụng
- Luật sư cho công ty tại quận 6, bình tân
- Luật sư cho công ty tại quận 5, quận 11, quận 10
- Luật sư tư vấn kiện đòi nhà cho thuê
- Luật sư chuyên nhà đất quận 9, quận 12
- Luật sư tư vấn cho cá nhân
- Luật sư chuyên soạn thảo, review hợp đồng
- Luật sư chuyên bào chữa các vụ án hình sự
- Luật sư tại thành phố Thủ Đức
- Luật sư tư vấn vu khống nói xấu xúc phạm danh dự trên facebook
- Luật sư tư vấn soạn thảo văn bản, hợp đồng
- Luật sư tư vấn soạn đơn khởi kiện
- Luật sư hình sự tại thành phố hồ chí minh
- Luật sư nhà đất tại thành phố thủ đức
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội lây lan dịch bệnh
- Luật sư giỏi chuyên về lao động
- Việt kiều có được thừa kế nhà đất tại việt nam không?
- Luật sư chuyên giải quyết tranh chấp mua bán nhà đất
- Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng thuê nhà mùa covid
- Luật sư tư vấn phân chia tài sản chung của vợ chồng
- Luật sư tư vấn thu hồi công nợ
- Luật sư chuyên giải quyết tranh chấp
- Luật Sư Làm Ly Hôn Nhanh Tại Tphcm
- Tư Vấn Kiện Đòi Lại Nhà Cho Ở Nhờ
- Luật sư tư vấn kiện đòi nhà
- Luật sư tư vấn mua bán nhà đất
- Luật sư tư vấn hợp đồng vô hiệu
- Tư vấn hợp đồng giả cách
- Luật Sư Hòa Giải Tranh Chấp Đất Đai
- Tư Vấn Tranh Chấp Ly Hôn
- Luật Sư Chuyên Ly Hôn Nhanh Trọn Gói
- Tư Vấn Chuyển Nhượng Cổ Phần Vốn Góp
- Luật Sư Bảo Hộ Doanh Nghiệp
- Luật Sư Giải Quyết Ly Hôn Nhanh Tại Tphcm
- Tư Vấn Kiện Đòi Nợ
- Luật Sư Tranh Chấp Nhà Ở
- Luật Sư Chuyên Soạn Đơn Khởi Kiện Khiếu Nại
- Luật sư tư vấn soạn đơn ly hôn
- Luật Sư Tư Vấn Thành Lập Doanh Nghiệp
- Luật Sư Tư Vấn Tại Công Ty
- Luật Sư Chuyên Nhà Đất Tại Quận 6, Bình Tân, Bình Chánh
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Nuôi Con Khi Ly Hôn
- Luật Sư Tư Vấn Cho Người Hoa Tại tphcm/Hoa Kiều
- Luật Sư tư Vấn Đơn Phương Chấm Dứt Hợp Đồng Lao Động
- Luật Sư Tư Vấn Cho Việt Kiều Úc, Mỹ, Canada
- Luật Sư Tư Vấn Luật Thường Xuyên Cho Doanh Nghiệp
- Công Chứng Khai Nhận Thừa Kế
- Văn Phòng Luật Sư Tư Vấn Chia Tài Sản Khi Ly Hôn
- Luật Sư Tư Vấn Bất Động Sản
- Luật Sư Tư vấn Thừa Kế Tại Quận 6, Bình Tân
- Luật Sư Tranh Chấp Kinh Doanh Thương Mại
- Luật Sư Chuyên Đại Diện Ủy Quyền Tại Tòa Án
- Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Tại Bình Tân
- Luật Sư Ly Hôn Tại Quận 6
- Luật Sư Chuyên Ly Hôn Tại Bình Thạnh, Gò Vấp
- Luật Sư Hình Sự Tại Biên Hòa
- Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Tại Quận 10, Quận 11
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Cố Phần Vốn Góp
- Luật Sư Bảo Vệ Bào Chữa Tại Trung Tâm Trọng Tài
- luật sư giỏi uy tín tại tphcm
- Luật Sư tại Quận Tân Phú
- Luật Sư Quận tại Phú Nhuận
- Luật Sư tại Quận Gò Vấp
- Dịch Vụ Hợp Thức Hóa Nhà Đất
- Luật Sư Tư Vấn Thừa Kế Nhà Đất Cho Việt Kiều
- Luật Sư Tư Vấn Cho Công Ty
- Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Tại Bình Chánh
- Luật Sư Chuyên Khởi Kiện Án Hành Chính
- Luật Sư Tư Vấn Lấn Chiếm Đất
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Nhà Đất
- Tư Vấn Cấp Sổ Đỏ, Sổ Hồng
- Luật Sư Tư Vấn Phân Chia Thừa Kế
- Luật Sư Tư Vấn Cho Công Ty Bất Động Sản
- Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Đất Đai Tại Bình Chánh
- Luật Sư Bào Chữa Hình Sự
- Luật Sư Tư Vấn Ngoài Giờ
- Tranh Chấp Thừa Kế Có Yếu Tố Nước Ngoài
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Đòi Lại Tài Sản
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Đứng Tên Dùm Nhà Đất
- Luật sư chuyên tư vấn doanh nghiệp
- luật sư chuyên thuận tình ly hôn cho việt kiều, người nước ngoài
- Luật sư tư vấn đơn phương ly hôn với việt kiều
- Tư vấn ly hôn chia tài sản với việt kiều
- Luật sư tư vấn kháng cáo
- Luật sư chuyên về tranh chấp đất đai tại tphcm
- Luật sư cho ca sĩ, diễn viên
- Tư vấn thay đổi trụ sở, giấy phép công ty
- Luật sư tư vấn tranh chấp nhà thuộc sở hữu chung
- Luật sư tư vấn lập di chúc
- Luật sư giỏi về hình sự tại thành phố hồ chí minh
- Luật sư giỏi về nhà đất tại tphcm
- Luật sư giỏi di chúc thừa kế tại tphcm
- Luật sư chuyên tranh chấp nhà chung cư
- Luật sư giỏi về hình sự tại sài gòn
- Luật sư chuyên tranh chấp hợp đồng góp vốn
- Luật sư chuyên thừa kế di chúc
- Luật sư chuyên tranh chấp vay tiền
- Luật sư tư vấn luật đất đai
- Kê khai thừa kế
- tư vấn công chứng mua bán nhà đất
- luật sư tư vấn thành lập công ty
- luật sư chuyên tư vấn ly hôn chia tài sản
- dịch vụ luật sư di sản thừa kế
- Dịch vụ luật sư nhà đất tại TPHCM
- luật sư tại quận 1
- luật sư tại quận 2
- luật sư tại quận 3
- luật sư tại quận 4
- luật sư tại quận 5
- Luật Sư Tại Quận 6
- luật sư tại quận 7
- luật sư tại quận 8
- luật sư tư vấn, bào chữa tội chống người thi hành công vụ
- Luật sư tại quận 10
- Luật sư tại quận 11
- luật sư tại quận 12
- Luật sư tại quận bình thạnh
- Luật sư tại huyện bình chánh
- Luật sư huyện Nhà Bè
- luật sư huyện hóc môn
- Văn phòng Luật sư Nhà Đất
- Luật sư huyện Cần Giờ
- Văn phòng luật sư tại TPHCM
- Luật Sư Tại Sài Gòn
- luật sư việt nam
- Luật sư Uy Tín
- Luật sư Công Ty
- luật sư tư vấn ly hôn tại thủ đức
- Luật sư chuyên tranh chấp thừa kế
- luật sư bào chữa tại tòa án
- luật sư tại quận bình tân
- Dịch thuật công chứng tại tphcm
- luật sư giỏi và uy tín
- luật sư tư vấn tại nhà
- luật sư tư vấn hợp đồng mua bán nhà đất
- mẫu hợp đồng mua bán nhà
- mẫu hợp đồng đặt cọc mua bán nhà
- luật sư chuyên hình sự
- luật sư tư vấn thu hồi nợ
- luật sư chuyên nhà đất
- luật sư chuyên về khiếu nại, khởi kiện
- luật sư giỏi về nhà đất
- luật sư chuyên hợp đồng kinh tế
- luật sư tư vấn hợp đồng mua bán hàng hóa
- luật sư tư vấn tại bình dương
- luật sư tại biên hòa đồng nai
- Văn phòng luật sư tư vấn ly hôn
- Luật Sư tư vấn tại Long An
- Luật sư tư vấn tại cần thơ
- Văn Phòng Luật Sư Chuyên Thừa Kế
- Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn
- Luật Sư Làm Chứng
- Tư Vấn Công Chứng Nhà Đất
- Luật Sư Tư Vấn Cho Người Nước Ngoài
- Luật Sư Riêng Cho Công Ty
- Luật Sư Tư Vấn Thừa Kế Nhà Đất
- Luật Sư Tư Vấn Về Thuế Kế Toán
- Tư Vấn Công Chứng Tại Nhà
- Luật Sư Thừa Kế Tại Tphcm
- Tư Vấn Luật Cho Việt Kiều Mỹ
- Luật Sư Tư Vấn Cho Việt Kiều Mua Nhà Tại Việt Nam
- Luật Sư Tại Thành Phố Hồ Chí Minh
- Luật Sư Tư Vấn Luật Lao Động
- Luật Sư Riêng Cho Các Công Ty Tại Sài Gòn
- Luật Sư Quận Tân Bình
- Luật Sư Cho Doanh Nghiệp
- luật sư riêng cho các công ty
- luật sư tư vấn thừa kế nhà đất cho việt kiều
- luật sư riêng cho công ty nước ngoài tại việt nam
- Đoàn luật sư tphcm - VPLS Gia Đình
- Tư vấn chia tài sản khi ly hôn
- luật sư tư vấn tranh chấp tại toà án
- Luật sư tư vấn ly hôn có yếu tố nước ngoài
- luật sư bào chữa tại tòa án tphcm
- luật sư tại quận 1
- tin tức nóng
- luật sư tại quận 3
- Luật sư tư vấn bảo hiểm nhân thọ
- luật sư tại quận 5
- luật sư bào chữa tư vấn tội cưỡng đoạt tài sản
- luật sư tại quận 7
- luật sư tại quận 8
- Luật sư chuyên tranh chấp nhà đất quận 9, quận 2
- luật sư tại quận 10
- luật sư tư vấn bào chữa tội tham ô
- Thuê luật sư bào chữa hình sự
- luật sư nhà đất thừa kế tại quận tân bình
- luật sư thừa kế tại huyện bình chánh
- luật sư chuyên thừa kế nhà đất tại quận bình tân
- luật sư bào chữa tội làm con dấu, tài liệu, hồ sơ giả
- luật sư chuyên thừa kế tại quận phú nhuận
- luật sư bào chữa tư vấn tội cố ý gây thương tích
- Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng xây dựng
- Luật Sư Chuyên Về Di Chúc
- luật sư giỏi về nhà đất tại quận bình thạnh
- Tư vấn du học xin visa
- Luật sư tranh chấp nhà đất
- Luật sư tư vấn di chúc
- Luật sư thừa kế nhà đất tại gò vấp
- luật sư tranh tụng tại tòa án
- luật sư tư vấn hợp đồng đặt cọc mua bán nhà đất
- luật sư chuyên tư vấn hợp đồng thuê nhà
- Văn Phòng Luật Sư Chuyên Hình Sự Tại Tphcm
- Luật sư chuyên tranh chấp hợp đồng
- Luật sư tranh chấp bất động sản
- Văn phòng luật sư doanh nghiệp
- Luật Sư Bào Chữa Tại TPHCM
- Luật sư tư vấn hợp đồng vay tiền
- Thủ tục tuyên bố 1 người tâm thần
- Luật sư tư vấn tranh chấp công ty
- luật sư tư vấn thu hồi nợ
- luật sư tư vấn thuận tình ly hôn
- luật sư tư vấn đơn phương ly hôn
- Luật sư tư vấn tranh chấp đất đai
- Dịch vụ luật sư làm sổ hồng sổ đỏ
- Luật Sư Tố Tụng
- Dịch Vụ Luật Sư Ly Hôn Nhanh
- Luật sư tư vấn ly hôn tại quận 5, quận 11
- Luật Sư Tư Vấn Nghĩa Vụ Cấp Dưỡng
- luật sư tư vấn thừa kế theo di chúc
- Luật sư tư vấn phân chia thừa kế quận 6, quận 11, quận 10, quận 5
- Luật sư thừa kế tại quận 1, quận 2, quận 3, quận 4, quận 7
- Luật sư tư vấn phân chia thừa kế tại quận 8, quận 9, quận 12
- Luật sư phân chia thừa kế tại bình chánh, Tân Phú, Bình Thạnh, nhà bè
- Luật Sư Cho Doanh Nghiệp
- Luật Sư Chuyên Tư Vấn Thừa Kế Tại Quận 5
- Tổng đài tư vấn pháp luật hình sự, ly hôn, thừa kế, nhà đất, doanh nghiệp
- Luật sư tư vấn bào chữa tội cá độ, đánh bạc, đá gà
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Mua Bán Nhà
- Tư Vấn Công Chứng Thừa Kế
- Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Kinh Doanh
- Luật Sư Tư Vấn Soạn Thảo Hợp Đồng
- Thừa Kế Nước Ngoài
- Luật Sư Tư Vấn Đòi Lại Nhà Đất
- Dịch Vụ Luật Sư Thu Hồi Nợ Khó Đòi
- Luật sư tư vấn tranh chấp cổ đông công ty
- Khởi Kiện Bồi Thường Danh Dự Nhân Phẩm
- Luật Sư Tranh Chấp Thừa Kế Nhà Đất
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Nhà
- Luật Sư Chuyên Tư Vấn Khởi Kiện
- Luật Sư Hôn Nhân Gia Đình
- Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng Góp Vốn
- Tranh Chấp Tài Sản Chung Của Vợ Chồng
- Luật Sư Giỏi Uy Tín Tại Việt Nam
- Luật Sư Tại Sài Gòn Việt Nam Tư Vấn Cho Việt Kiều
- Giải Quyết Tranh Chấp Bằng Trọng Tài
- Dịch Vụ Thành Lập Công Ty Trọn Gói Tại Tphcm
- Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Doanh Nghiệp
- Tổng Đài Tư Vấn Pháp Luật
- Luật Sư Tư Vấn Mua Nhà Đang Thế Chấp Ngân Hàng
- Quyền Thừa Kế Nhà Đất Người Việt Nam Định Cư Ở Nước Ngoài
- Luật Sư Tư Vấn Tặng Cho Nhà Đất
- Luật Sư Tư Vấn Đứng Tên Dùm Nhà Đất Căn hộ Chung Cư
- Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Cho Việt Kiều
- Luật Sư Tư Vấn Mua Bán Căn hộ
- Luật sư tư vấn Thỏa Thuận Tài Sản Của Vợ Chồng
- Tư Vấn Pháp Luật Thừa Kế
- Luật Sư Tư Vấn Trọn Gói Cho Doanh Nghiệp
- Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Tại Bình Thạnh, Bình Tân, Quận 6, Gò Vấp
- Luật Sư Sài Gòn Chuyên Bào Chữa Ở Miền Tây
- Dịch Vụ Luật Sư Đòi Nợ
- Luật Sư Tư Vấn Mua Đất Nền
- Luật Sư Tư Vấn Đơn Phương Ly Hôn Tại Quận 6
- Luật Sư Giải Quyết Tranh Chấp Tài Sản Với Người Nước Ngoài
- Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Đất
- Tư vấn Thành Lập Chi Nhánh Văn Phòng Đại Diện
- Luật Sư Tư Vấn Công Ty Cổ Phần
- Luật Sư Chuyên Tư Vấn Khai Di Sản Thừa Kế
- Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Thừa Kế Nhà Đất Tại Biên Hòa
- Tranh Chấp Hợp Đồng Thuê Nhà
- Điều Kiện Việt Kiều Mua Nhà Sài Gòn
- Tư Vấn Bồi Thường Khi Bị Thu Hồi Đất
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Nội Bộ Doanh Nghiệp
- Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Mua Bán Căn Hộ Chung Cư
- Luật sư trên truyền hình và báo chí
- Luật sư tư vấn đăng ký nhãn hiệu logo độc quyền
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Lao Động
- Luật Sư Tư Tranh Chấp Mua Bán Đất Nền
- Luật Sư Tại Chợ Lớn
- Luật Sư Tư Vấn Về Án Phí
- Tư Vấn Khởi Kiện Tranh Chấp Đất Đai
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Hợp Đồng Đặt Cọc
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Ranh Giới Đất
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Lối Đi Chung
- Luật sư tư vấn giữ quốc tịch cho việt kiều
- Luật sư tư vấn xác nhận nguồn gốc việt nam
- Luật sư tư vấn thủ tục ly hôn cho việt kiều
- Luật sư tư vấn thủ tục ly hôn tại sài gòn việt nam
- Luật sư tư vấn kiện đòi nhà cho việt kiều
- Dịch vụ luật sư nhà đất dành cho việt kiều
- Luật sư tư vấn thủ tục ly hôn tại việt nam
- Luật sư chuyên bào chữa cho bị can bị cáo
- Luật sư tư vấn đơn phương ly hôn và thuận tình ly hôn
- Cần Tìm Thuê Luật Sư Giỏi Tại Tphcm
- Luật sư tư vấn ly hôn nhanh tại bình tân, quận 6
- Luật sư tư vấn luật thừa kế tại tphcm
- Làm sao để dành được quyền nuôi con khi ly hôn
- Luật sư tư vấn lập vi bằng
- Luật sư tư vấn tố cáo vi phạm hình sự
- Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng do bất khả kháng
- Luật sư tư vấn ly hôn đơn phương
- luật sư chuyên tư vấn đòi nợ
- Luật sư chuyên tranh tụng hình sự
- Luật sư tư vấn tranh chấp giáp ranh nhà đất
- Luật sư tư vấn kiện hủy giấy chứng nhận sổ hồng sổ đỏ
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa cho người bị hiếp dâm trẻ em
- Luật sư chuyên tư vấn luật đất đai nhà ở
- Luật sư tư vấn thời hiệu khởi kiện thừa kế
- Luật sư tư vấn bào chữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- Luật sư chuyên bào chữa hình sự tại tphcm
- Luật sư chuyên về kinh tế
- Luật sư chuyên tư vấn khởi kiện vụ án hành chính quyết định hành chính
- Luật sư chuyên tư vấn kiện đòi đất
- Luật sư giỏi chuyên về tranh chấp hợp đồng kinh tế thương mại kinh doanh
- Luật sư tư vấn nhà đất
- Luật sư tư vấn làm mới và gia hạn visa - Renew and extend visa
- Luật sư tư vấn làm thẻ tạm trú – Renew/extend temporary residence
- Luật sư tư vấn giấy phép lao động cho người nước ngoài/Working permit
- Luật sư tư vân kết hôn với người nước ngoài
- Luật sư chuyên bào chữa tội mua bán vận chuyển tàng trữ ma túy
- Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng thuê nhà hàng, khách sạn, mặt bằng
- Luật sư tư vấn tranh chấp ranh đất
- Luật sư tư vấn luật hình sự
- Luật sư tư vấn tại ngoại, bảo lãnh
- Luật sư tư vấn qua điện thoại, online, trực tuyến
- Luật sư tư vấn thừa kế do chết vì covid
- Luật sư tư vấn hợp đồng nhà xưởng, văn phòng
- Lawyer at Ho Chi Minh City, Viet nam
- divorce lawyer at Ho Chi Minh City
- Luật sư tư vấn thừa kế sổ tiết kiệm, tài sản
- Luật sư tư vấn thừa kế cổ đông cổ phần vốn góp cổ phiếu trong công ty
- Luật sư tư vấn thừa phát lại
- Văn phòng luật sư tại quận 1
- Luật sư tư vấn ly hôn với người nước ngoài
- Luật sư tư vấn tố cáo, khiếu nại
- Luật sư tư vấn thừa kế nhà đất tại bình thạnh
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội phạm công nghệ cao, mạng internet, facebook
- Luật sư chuyên tư vấn mua bán đất dự án
- Luật sư chuyên tư vấn mua bán nhà đất bằng tay
- Luật sư chuyên bào chữa tội tham ô, hối lộ, lợi dụng chức vụ
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội buôn lậu
- Luật sư tư vấn bào chữa tội trốn thuế
- Luật sư giỏi tại tphcm
- Luật sư công giáo
- Luật sư tư vấn làm đơn giám đốc thẩm
- Luật sư giỏi chuyên đòi nhà đất
- Luật sư chuyên tư vấn thi hành án
- Luật sư tư vấn đòi lại tiền mua đất nền dự án
- Luật sư chuyên tư vấn kiện đòi giấy chứng nhận, sổ đỏ, sổ hồng
- Thế nào là tội cho vay nặng lãi
- Luật sư giỏi chuyên bào chữa án ma túy
- Tư vấn về hành vi ngoại tình vợ chồng
- Luật sư tư vấn bào chữa về tai nạn giao thông
- Luật sư tư vấn bào chữa về tội mua bán hàng cấm
- Luật sư tư vấn tranh chấp tín dụng ngân hàng
- Luật sư tư vấn hợp đồng hợp tác kinh doanh
- Luật sư tư vấn kiện thẩm mỹ viện
- Luật sư chuyên tư vấn mua bán doanh nghiệp
- Luật sư tư vấn bào chữa tội mua bán ma túy
- Luật sư tư vấn hộ kinh doanh cá thể
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa về tiền bitcoin
- Luật sư chuyên tư vấn ủy quyền
- Các án lệ
- Luật sư chuyên tư vấn đầu tư nước ngoài
- Luật sư giỏi chuyên bào chữa án kinh tế
- Luật sư tư vấn bào chữa khi bị bắt
- Luật sư giỏi chuyên tư vấn bào chữa tại đà nẵng
- Tư vấn đòi nhà đất đứng tên dùm
- Luật sư giỏi tại long thành đồng nai
- Luật sư chuyên giải quyết các loại tranh chấp
- Làm sao để được án treo?
- Luật sư tư vấn đòi nợ cho công ty
- luật sư tư vấn hoàn công, giấy phép xây dựng
- Luật sư tư vấn bào chữa tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
- Luật sư nhận ủy quyền đại diện
- Tư vấn bào chữa để được án treo tại ngoại
- Luật sư tư vấn kiện thừa kế cho việt kiều
- Luật sư chuyên bào chữa tội phạm kinh tế
- Luật sư tư vấn ủy quyền cho việt kiều bên nước ngoài
- Có cần mời luật khi bị bắt không?
- Luật sư giỏi chuyên bào chữa tội lừa đảo
- Luật sư giỏi chuyên tư vấn luật giao thông?
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội buôn bán thuốc lá
- Luật sư tư vấn hình phạt tử hình
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội mua bán hàng giả hàng nhái
- Luật sư giỏi chuyên về án dân sự tại tphcm
- Luật sư chuyên tư vấn lừa đảo qua mạng
- Luật sư chuyên tư vấn luật lao động cho công ty
- Luật sư tư vấn bào chữa tội mua bán hóa đơn trái phép
- Luật sư tư vấn bào chữa làm sao để được giảm án?
- Luật sư chuyên tư vấn tranh chấp mua bán hàng hóa
- Luật sư tư vấn bào chữa cho người nước ngoài
- Luật sư tư vấn bào chữa tội mua bán pháo lậu
- Luật sư tư vấn đòi tiền nhà cho thuê
- Luật sư chuyên tư vấn khởi kiện tranh chấp nhà đất cho việt kiều
- Luật sư chuyên về dân sự tại thành phố hồ chí minh
- Luật sư tư vấn bào chữa tội lợi dụng quyền tự do dân chủ
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa đánh bài bạc online trên mạng
- Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội vận chuyển ma túy
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội đánh bạc
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội hiếp dâm
- VIDEO LS TRẦN MINH HÙNG TƯ VẤN LUẬT TRÊN TRUYỀN HÌNH
- Luật Sư tư vấn bào chữa tội giết người
- Luật Sư Thừa kế
- Luật Sư Riêng Cho Gia Đình Và Doanh Nghiệp
- Báo Chí Và Chúng Tôi
- Luật Sư Doanh Nghiệp
- Luật Sư Nhà Đất
- Luật Sư Di Trú
- Luật sư Dân sự
- Luật Sư Hình Sự
- Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn
- Luật Sư Tranh Tụng
- Luật sư tư vấn luật lao động
- Văn phòng luật sư tư vấn cho việt kiều
- Luật sư Chuyên Kinh Tế
- Luật Sư Giỏi Về Hình Sự
- Luật Sư Tư Vấn Thừa Kế Nhà Đất
- Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Doanh Nghiệp
- Luật Sư Thi Hành Án
- Luật Sư Tư Vấn Miễn Phí
- Dịch Thuật Công Chứng
- Luật Sư Riêng Cho Công Ty Nước Ngoài
- Luật Sư Tư Vấn
- Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng
- Luật Sư Công Nợ
- Luật Sư Chuyên Tranh Tụng Tại Tphcm
- Luật Sư bào chữa tư vấn tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
- Luật Sư Kinh Nghiệm
|
|
Luật Sư Chuyên Hình Sự Tại Sài Gòn |
Luật sư bào chữa trong các vụ án hình sự được chúng tôi thực hiện những nội dung như sau:
– Luật sư tham gia từ giai đoạn khởi tố, điều tra nhằm đảm bảo các quyền cơ bản của bị can, bị cáo tránh các trường hợp vi phạm thủ tục tố tụng hình sự. Trong giai đoạn tiếp cận hồ sơ vụ án và tham gia từ giai đoạn khởi tố, điều tra luật sư thực hiện nhiệm vụ theo quy định pháp luật, cụ thể:
+ Luật sư tư vấn các quy định pháp luật hình sự và các văn bản pháp luật liên quan, dự cung; kịp thời khiếu nại và có kiến nghị nếu phía Điều tra viên có hành vi bức cung;
+ Luật sư tư vấn quy định pháp luật về tội phạm và các nội dung khác liên quan đến tội phạm (tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng); tư vấn quy định về đồng phạm, che giấu tội phạm và không tố giác tội phạm…
|
Từ 01/01/2018, công dân có quyền mời luật sư trước khi khởi tố bị can |
Từ 01/01/2018, công dân có quyền mời luật sư trước khi khởi tố bị can
Nhằm đảm bảo quyền lợi của công dân trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã quy định công dân có quyền mời luật sư từ trước khi có quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra.
Theo quy định hiện hành tại Bộ luật Tố tụng hình sự, cụ thể tại Khoản 1 Điều 58 có quy định về thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa như sau:
Điều 58. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
1. Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. |
Căn cứ vào quy định nêu trên, người bào chữa là luật sư chỉ có thể tham gia bảo vệ quyền lợi cho người phạm tội kể từ khi có quyết định khởi tố bị can. Trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam hoặc bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo quy định tại Điều 81, 82 thì luật sư tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ.
Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 đã quy định luật sư có thể tham gia tố tụng từ trước khi có quyết định khởi tố bị can hoặc quyết định tạm giữ, nội dung cụ thể được quy định tại Điều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:
Điều 74. Thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng
Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.
Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.
Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. |
.................
|
Luật Sư Chuyên Tranh Tụng Tại Tòa Án |
Xác định thời hạn khởi kiện: Yêu cầu vụ việc còn trong thời hiệu khởi kiện
Theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2011 thì thời hiệu khởi kiện là 02 năm, kể từ ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
Trong trường hợp vụ việc đã quá thời hạn thì đương sự cần lưu ý đến trường thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 161 Bộ luật dân sự hoặc thời hiệu khởi kiện được bắt đầu lại theo Điều 158 và Điều 162 Bộ luật dân sự.
Xác định thẩm quyền nộp hồ sơ khởi kiện
Theo quy định tại Điều 33, Điều 34, Điều 35 thì đương sự có quyền yêu cầu Tòa án cấp Huyện nơi bị đơn cư trú, làm việc để khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết nếu đương sự không ở nước ngoài, tài sản tranh chấp không ở nước ngoài và không cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan ở nước ngoài. Nếu đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản tranh chấp ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan ở nước ngoài thì đương sự phải yêu cầu Tòa án cấp Tỉnh nơi bị đơn cư trú, làm việc để khởi kiện.
Chuẩn bị hồ sơ khởi kiện
Hồ sơ khởi kiện bao gồm:
Đơn khởi kiện: Theo đúng mẫu số 01 ban hành kèm theo Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Giấy tờ vay nợ và các tài liệu khác.
Giấy xác nhận của cơ quan nhà nước về địa chỉ cư trú, làm việc của bị đơn
Chứng minh nhân dân và Hộ khẩu của người khởi kiện
Giấy tờ chứng minh vụ việc vẫn còn thời hiệu khởi kiện (nếu có).
Thụ lý và thời hạn giải quyết của Tòa án sau khi thụ lý vụ án
Thủ tục thụ lý vụ án
Sau khi nhận hồ sơ khởi kiện nếu vụ việc thuộc trường hợp trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện cho người khởi kiện. Nếu vụ việc không thuộc trường hợp trả lại đơn khởi kiện nhưng Đơn khởi kiện chưa đúng mẫu quy định hoặc không đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 164 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án thông báo cho người khởi kiện sửa đổi, bổ sung theo thời hạn ấn định.
Nếu vụ việc đủ điều kiện khởi kiện và đơn khởi kiện đã làm đúng theo quy định thì Tòa án cho người khởi kiện nộp tạm ứng án phí trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo.
Sau khi nhận được biên lai nộp tạm ứng án phí của người khởi kiện thì Tòa án thụ lý vụ án và giải quyết.
Về thời gian giải quyết vụ án
Thời hạn hòa giải và chuẩn bị xét xử là từ 4-6 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án
Thời hạn mở phiên tòa: Trong thời hạn tối đa 02 tháng, kể từ ngày đưa vụ án ra xét xử.
Thời hạn hoãn phiên toà: không quá 30 ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa.
- Tư vấn về chiến lược giải quyết tranh chấp; phân tích và đánh giá về điểm mạnh, điểm yếu của các bên trong tranh chấp.
- Tư vấn về cách thức, biện pháp giải quyết tranh chấp; đại diện cho khách hàng trong việc đàm phán giải quyết tranh chấp với đối tác.
- Tham gia điều tra, thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ, tài liệu; tư vấn và hỗ trợ khách hàng soạn thảo, chuẩn bị hồ sơ xuất trình trước tòa án, trọng tài.
- Tư vấn về thủ tục và quy trình liên quan đến thi hành án; nhận đại diện trong thủ tục thi hành án dân sự.
- Đại diện theo ủy quyền và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho đương sự trong các vụ án/việc dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính.
- Bào chữa cho người bị nghi là tội phạm trong vụ án hình sự.
- Cử luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự trong các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, hôn nhân gia đình.
Trân trọng!
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.
Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank, Huyền Như, Viettinbank, các vụi Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái.… và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 028-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
|
Luật Sư Tư Vấn Bào Chữa Tội Đánh Bạc |
Dịch vụ luật sư tư vấn, bào chữa tội đánh bạc như sau:
1. Luật sư tư vấn các vấn đề pháp luật liên quan đến tội đánh bạc
– Tư vấn về các quy định của pháp luât ̣cụ thể về tội đánh bạc và định khung hình phạt đối với tội này;
– Tư vấn về các tình tiết để được xem xét giảm nhẹ hay tăng năng khung hình phạt, chuyển khung hình phạt, các trường hợp chuyển hóa tôi phạm;
– Tư vấn phân tích chứng cứ ngoại phạm hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự, phân tích hành vi, vi phạm và lỗi trong tố tụng hình sự từ đó nhằm mục đích minh oan cho khách hàng;
– Tư vấn giúp khách hàng nhận thức rõ được quyền và nghĩa vụ của họ trong điều kiện, hoàn cảnh hiện tại đối với cơ quan tiến hành tố tụng hoặc trước phiên tòa, tránh tình trạng bị ép cung, mớm cung, dụ cung nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng;
– Tư vấn và hỗ trợ các biện pháp nhằm bảo lãnh bị can, bị cáo được tại ngoại theo quy định pháp luật;
2. Dịch vụ luật sư bào chữa, bảo hộ tại phiên tòa
– Thực hiện quyền bào chữa cho bị can, bị cáo, người bị tạm giữ và bảo vệ quyền lợi cho các đối tượng trên, giúp họ tránh các hoạt động xâm phạm bởi các hoạt động sai trái, tiêu cực của cơ ban điều tra như tham gia hỏi cung bị can cùng cơ quan điều tra để tránh việc ép cung, mớm cung gây bất lợi cho bị can, bị cáo.
– Luật sư thực hiện quyền năng đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp cưỡng chế, biện pháp ngăng chặn, đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan có thẩm quyền.
– Luật sư đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án, tự mình thu thập chứng cứ, tiến hành xem xét và đánh giá chứng cứ do cơ quan điều tra thu thập, yêu cầu triệu tập người làm chứng, đề nghị trưng cầu giám định để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
– Luật sư tiến hành nghiên cứu hồ sơ, xem xét và đánh giá chứng cứ nhằm đưa ra các nhận định, xây dựng các lập luận, hướng giải quyết vụ án để chuẩn bị cho phiên tòa nhằm bảo vệ thân chủ.
– Luật sư đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, thay mặt bị cáo biện luận trước tòa, tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm soát nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo.
– Luật sư sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.
Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank, Huyền Như, Viettinbank, các vụi Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái.… và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 028-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
|
Các Tình Tiết Giảm Nhẹ Trách Nhiệm Hình Sự |
Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018) quy định:
1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt. |
BLHS năm 2015: Những quy định mới đối với người dưới 18 tuổi phạm tội |
BLHS năm 2015: Những quy định mới đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Theo BLHS năm 2015, chính sách xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định tại Chương XII gồm 18 điều luật (từ Điều 90 đến Điều 107).
So với BLHS năm 1999 thì Chương XII quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội của BLHS năm 2015 có nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung mới.
Tăng cường bảo vệ người chưa thành niên
Về thuật ngữ, BLHS năm 1999 đã sử dụng thuật ngữ “người chưa thành niên” để chỉ đối tượng là người dưới 18 tuổi, thuật ngữ “trẻ em” để chỉ đối tượng là người dưới 16 tuổi, đồng thời, có sự phân hóa trong chính sách xử lý đối với trẻ em và người chưa thành niên là người phạm tội cũng như quy định xử lý nặng hơn khi đối tượng bị xâm hại là trẻ em, người chưa thành niên trong một số cấu thành tội phạm cụ thể (ví dụ: tội giết người, tội mua bán trẻ em, ....). Tuy nhiên, BLHS năm 2015 đã sử dụng thuật ngữ “người dưới 18 tuổi” thay cho thuật ngữ “người chưa thành niên” và “người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi” thay cho thuật ngữ “trẻ em”...
Về nội dung, BLHS năm 2015 đã tiếp tục hoàn thiện chính sách hình sự đối với người chưa thành niên (người dưới 18 tuổi) phạm tội nhằm bảo đảm sự phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về tăng cường bảo vệ người chưa thành niên. Chính sách này cũng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội được ghi nhận tại các Nghị quyết số 48/NQ-TW và số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị, đồng thời bảo đảm sự phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em và các chuẩn mực pháp lý quốc tế về tư pháp đối với người chưa thành niên. Nội dung sửa đổi, bổ sung về chính sách xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội nhằm tiếp tục hoàn thiện quy định về nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội; bổ sung các biện pháp giám sát, giáo dục trong trường hợp người dưới 18 tuổi được miễn trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, chính sách này nhằm hoàn thiện hệ thống chế tài đối với người chưa thành niên phạm tội theo hướng tăng cường khả năng áp dụng các chế tài không tước tự do; bổ sung các chế định pháp lý về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, tổng hợp hình phạt, miễn chấp hành phần hình phạt tù còn lại; hoàn thiện quy định về xóa án tích đối với người chưa thành niên bị kết án theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho các em tái hòa nhập cộng đồng.

Hội thảo về kế hoạch vận hành Tòa Gia đình và người chưa thành niên tại TAND tỉnh Đồng Tháp
Về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Điều 91 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung Điều 69 BLHS năm 1999 theo hướng ghi nhận đầy đủ hơn một số nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội đã được quy định tại Công ước Quyền trẻ em và các chuẩn mực quốc tế khác có liên quan vừa bảo đảm tăng cường hiệu quả giáo dục, phục hồi đối với người chưa thành niên phạm tội, vừa thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện các cam kết quốc tế bảo vệ, giáo dục trẻ em nói chung và người chưa thành niên phạm tội nói riêng, là một nỗ lực tiếp theo trong việc làm hài hòa hệ thống pháp luật quốc gia với Công ước Quyền trẻ em.
Nội dung sửa đổi, bổ sung Điều 91 BLHS năm 2015 bổ sung nguyên tắc “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi” (khoản 1 Điều 91). Đây là nguyên tắc định hướng cho cán bộ tiến hành tố tụng khi quyết định lựa chọn biện pháp xử lý cụ thể đối với người chưa thành niên, nhằm tìm ra biện pháp phù hợp nhất đối với các em. Nội dung của nguyên tắc này là đòi hỏi các cơ quan, tổ chức, cá nhân, khi tiến hành một hoạt động liên quan đến việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội cần bảo đảm rằng quyết định đó là tốt nhất cho trẻ em trong mối quan hệ hài hòa với các lợi ích khác cũng như bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật.
Trên cơ sở kế thừa quy định tại khoản 2 Điều 69 của BLHS năm 1999 về miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên, khoản 2 Điều 91 của BLHS năm 2015 quy định người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp theo quy định của pháp luật và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục.
Theo đó, các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục gồm: người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại các điều: Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy). Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật tức là phạm tội rất nghiêm trọng thuộc một trong 28 tội danh mà BLHS năm 2015 quy định đối tượng này phải chịu trách nhiệm hình sự, trừ trường hợp quy định tại các điều: Điều 123 (tội giết người); Điều 134, các khoản 4, 5 và khoản 6 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy).Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án.
Như vậy, so với BLHS 1999, khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015 đã mở rộng đối tượng được miễn trách nhiệm hình sự đối với cả người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, quy định cụ thể điều kiện miễn trách nhiệm hình sự, đồng thời bổ sung quy định về việc áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục đối với các em được miễn trách nhiệm hình sự nhằm bảo đảm tính khả thi cũng như hiệu quả áp dụng của chế định pháp lý này.
Những điểm cần lưu ý khi miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 91
Việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục có thể được áp dụng ở bất kỳ thời điểm nào của quá trình tố tụng đối với vụ án, bất kể ở giai đoạn điều tra, truy tố, hay xét xử và do cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ việc có thẩm quyền áp dụng. Để bảo đảm lợi ích tốt nhất đối với người chưa thành niên, sớm đưa các em ra khỏi vòng tố tụng, cần xem xét, áp dụng miễn trách nhiệm hình sự càng sớm càng tốt. Quy định này không loại trừ việc người dưới 18 tuổi được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 29 của BLHS năm 2015 khi họ có đủ điều kiện quy định tại Điều này.
Một điểm khác biệt giữa hai chế định miễn trách nhiệm hình sự này là miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 29 đồng nghĩa với việc trả tự do hoàn toàn cho người được miễn trách nhiệm hình sự, trong khi đó, người được miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 91 sẽ phải chịu sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức trong một thời hạn nhất định tùy từng trường hợp cụ thể. Do đó, chỉ miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của BLHS năm 2015.
Ngoài ra, khoản 4 và khoản 5 Điều 69 của BLHS năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng tiếp cận phù hợp hơn trong chính sách xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Theo đó, Công ước Quyền trẻ em khẳng định nguyên tắc: “Việc bắt, giam giữ hoặc bỏ tù trẻ em… phải là biện pháp cuối cùng và trong thời hạn thích hợp ngắn nhất”. Như vậy, cách tiếp cận của Công ước trong việc áp dụng chế tài đối với người chưa thành niên là ưu tiên áp dụng các biện pháp không giam giữ. Các biện pháp mang tính giam giữ và hình phạt tù chỉ được áp dụng khi không còn cách nào khác. Tuy nhiên, theo cách quy định tại khoản 4 Điều 69 của BLHS năm 1999 "Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, thì Tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 70 của Bộ luật này" thì lại thể hiện theo hướng ngược lại, nghĩa là trước tiên Tòa án phải cân nhắc việc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. Chỉ trong trường hợp xét thấy không cần thiết áp dụng hình phạt thì mới áp dụng biện pháp tư pháp - với tính chất là những biện pháp thay thế hình phạt, nhân đạo hơn đối với người bị kết án.
Khoản 4 Điều 91 của BLHS năm 2015 đã thể hiện lại nguyên tắc này theo hướng phù hợp hơn với tinh thần của Công ước về Quyền trẻ em. Khi xét xử người dưới 18 tuổi, Tòa án trước hết phải cân nhắc khả năng áp dụng việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục hoặc khả năng áp dụngbiện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng đối với các em và chỉ khi xét thấy việc áp dụng các biện pháp này không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa thì mới áp dụng hình phạt đối với các em. Đồng thời, khoản 6 của Điều 91 cũng quy định rõ Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.
(còn nữa)
PGS.TS. Nguyễn Hòa Bình, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án TANDTC
Nguồn: báo mới |
Hình Phạt Áp Dụng Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội |
4 hình phạt áp dụng với người chưa thành niên phạm tội
Bộ luật Hình sự quy định, không xử phạt chung thân hoặc tử hình với người chưa thành niên phạm tội; không áp dụng phạt tiền với người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi.
Theo điều 71 Bộ luật Hình sự, người chưa thành niên phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn.
Phạt tiền
- Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính với người chưa thành niên phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng.
- Mức phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định.
Phạt cải tạo không giam giữ
- Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội thì không khấu trừ thu nhập của người đó.
- Thời hạn cải tạo không giam giữ với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định.
Phạt tù có thời hạn
- Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 3/4 mức phạt tù mà điều luật quy định;
- Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 1/2 mức phạt tù mà điều luật quy định.
Đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng theo quy định tại điều 75 luật này như sau:
- Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 74 của Bộ luật này;
- Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung áp dụng như đối với người đã thành niên phạm tội. |
Tư Vấn Về Tội Giết Người Và Tội Giết Con Mới Đẻ |
Sau khi có kết quả
điều tra cụ thể thì mới có căn cứ xác định trách nhiệm hình sự cụ thể. Theo như
đưa tin thì tôi cho rằng người này sẽ bị truy tố về Tội giết người, theo Điều
123, Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Người vi phạm tội này bị phật
tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình tùy theo từng trường hợp cụ
thể.
Cũng có thể người mẹ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội
giết hoặc vứt con mới đẻ, theo Điều 124, Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung
2017.
Theo quy định, Tội Giết con mới đẻ được quy định là trường hợp
người mẹ do ảnh hưởng nặng nề của tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh đặc biệt
mà giết con mình đẻ ra trong 7 ngày tuổi.
Dấu hiệu pháp lý của Tội giết con mới đẻ là trường hợp giảm nhẹ
của Tội giết người. Dấu hiệu cụ thể là người mẹ còn trong trạng thái mới sinh
con, nghĩa là còn đang trong trạng thái tâm sinh lý không bình thường do tác
động của việc sinh con.
Nạn nhân của tội giết con mới đẻ là đứa trẻ do chủ thể sinh ra
trong vòng 7 ngày tuổi. Kể từ ngày thứ 8 trở đi thì đứa trẻ đó không được coi
là con mới đẻ nữa.
Về dấu hiệu động cơ phạm tội, việc giết con mới để là do hoàn cảnh
bất đắc dĩ như ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc do hoàn cảnh khách
quan đặc biệt khác.
Về hình phạt, trường hợp giết con mới đẻ là trường hợp giết người
có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đặc biệt, vì hành vi giết người là do
hoàn cảnh đặc biệt đưa lại. Hơn nữa, người phạm tội đã thực hiện trong trạng
thái tâm sinh lý không bình thường, khả năng nhận thức hạn chế. Người phạm tội
này bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu bạn sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.
Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm là đối tác tư vấn pháp luật rất nhiều năm, thường xuyên, liên tục trả lời phỏng vấn trên Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank, Huyền Như, Viettinbank, Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
|
Luật Sư Chuyên Tư Vấn Và Giải Quyết Tranh Chấp Tại Tòa Án |
Nội dung tư vấn giải quyết tranh chấp như sau:
+ Tư vấn, hướng dẫn khách hàng khởi kiện, lập hồ sơ theo kiện, các vấn đề về án phí, lệ phí và thủ tục khác liên quan;
+ Tư vấn, hướng dẫn đương sự soạn thảo các loại văn bản gửi tới các cơ quan có thẩm quyền (đơn khởi kiện, các đề xuất trong quá trình tố tụng, yêu cầu thi hành án…);
+ Nghiên cứu hồ sơ, các quy định pháp luật liên quan đến vụ việc cụ thể;
+ Trao đổi và hướng dẫn khách hàng thu thập tài liệu chứng cứ, cung cấp thông tin;
+ Tiến hành thu thập tài liệu chứng cứ thông qua việc tiếp xúc với các cá nhân, tổ chức, cơ quan có liên quan;
+ Gặp gỡ, trao đổi với các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan trọng tài để bảo vệ tốt nhất cho quyền và nghĩa vụ hợp pháp của khách hàng;
+ Tham gia tranh tụng tại toà án, cơ quan trọng tài để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng;
+ Đại diện theo ủy quyền ngoài tố tụng.
Luật sư tư vấn giải quyết tranh chấp và thủ tục tố tụng
Dịch vụ tư vấn giải quyết tranh chấp tại Luật Minh Gia như sau
+ Tư vấn, đại diện và tham gia tố tụng nhằm bảo vệ quyền lợi và tham gia giải quyết tranh chấp dân sự (tranh chấp tài sản, đất đai, thừa kế, hợp đồng, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, hôn nhân gia đình).
+ Tư vấn, đại diện và tham gia tố tụng nhằm bảo vệ quyền lợi và tham gia giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, thương mại, dân sự, thu hồi công nợ;
+ Tư vấn, đại diện và tham gia tố tụng nhằm giải quyết tranh chấp nội bộ doanh nghiệp;
+ Tư vấn, đại diện và tham gia tố tụng nhằm bảo vệ quyền lợi cho khách hàng trong các tranh chấp lao động (chấm dứt hợp đồng lao động, kỷ luật sa thải …);
+ Tư vấn, đại diện và tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi và tham gia giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ;
+ Tư vấn, đại diện và tham gia tố tụng tại tòa án các vụ việc khác.
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu bạn sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.
Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm là đối tác tư vấn pháp luật rất nhiều năm, thường xuyên, liên tục trả lời phỏng vấn trên Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank, Huyền Như, Viettinbank, Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
|
Mẫu Đơn Khiếu Nại Quyết Định Khởi Tố Vụ Án |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bình Dương, ngày … tháng … năm 2018
ĐƠN KHIẾU NẠI VÀ KÊU OAN
(V/v: Khiếu nại Quyết định khởi tố vụ án hình
sự số 23 ngày 12/2/2018; Quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can số
86/QĐ-VKS ngày 10/8/2018; Quyết định khởi tố bị can số 92 ngày 07/8/2018 và Lệnh cấm đi khỏi
nơi cư trú số 67 ngày 07/8/2018)
Kính
gửi: VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ GIÁO TỈNH BÌNH DƯƠNG
CƠ QUAN CẢNH
SÁT ĐIỀU TRA CÔNG AN HUYỆN PHÚ GIÁO – TỈNH BÌNH DƯƠNG
CƠ QUAN CẢNH
SÁT ĐIỀU TRA CÔNG AN TỈNH BÌNH DƯƠNG
VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
ĐOÀN ĐẠI BIỂU
QUỐC HỘI TỈNH BÌNH DƯƠNG
Đồng kính gửi: BÍ THƯ
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Người khiếu nại:
Tôi tên là:
Địa chỉ thường trú:
Người bị khiếu nại:
Nội dung khiếu nại:
Khoảng 10 giờ, ngày 27/11/2016. Xảy ra vụ xô xát giữa những người trong
giữa gia đình tôi với gia đình ông Hoàng Minh Cường.
Trước đó, giữa hai gia đình đã có mâu thuẫn
về đất đai và đang trong quá trình xem xét, giải quyết.
Trước ngày xảy ra vụ việc, anh Cường tự ý vào nhổ phá cọc rào bê tông trong
vườn nhà gia đình tôi. Khi mẹ tôi ra can ngăn thì anh Cường tát và bóp cổ mẹ
tôi, em trai của tôi là Thạch (đang học lớp 10) chạy ra cầm điện thoại định chụp lại cảnh anh Cường
đánh mẹ, thì bị anh Cường giật lấy điện thoại, ném vỡ. Khi công an xã vào đến
nơi thì anh Cường đã ung dung bỏ về.
Sự việc ông Cường nhổ cọc, lấn đất nhà tôi...đã được UBND xã lập biên bản
và có đơn của gia đình tôi (đính kèm hồ sơ).
Trưa cùng ngày, anh Cường vẫn qua nhà gia đình tôi uống nước. Và nói
chuyện với giọng thách thức mẹ tôi. Anh
Cường nói: Pháp luật cũng có năm bảy kiểu, có báo pháp luật thì cứ báo. Tôi rất bức xúc yêu cầu mẹ làm đơn nhờ chính quyền giải quyết nhưng mẹ kêu thương tích không
đáng kể, ngại nên không làm đơn trình báo, yêu cầu giải quyết hơn nữa cũng là anh em với nhau nên thôi.
Ngày 27/11/2016, (thứ 7), em
gái tôi tên Hà ở nhà trút mủ cao su giúp mẹ. Nhà anh Cường cũng thuê người cạo, trút mủ. Tới giờ trưa, lúc anh Cường
chạy xe máy vào chở mủ cao su, em gái tôi tên Hà có gọi anh
ra chỗ hiện trường anh đã nhổ phá cọc và hành hung mẹ. Hỏi tại sao anh tự ý vào
vườn nhổ phá cọc nhà em, còn đánh mẹ em. Lúc này anh Cường nói rằng: tao thích
nhổ thì tao nhổ. Mày thích tao đánh cả mày.
Mẹ tôi đang tưới tiêu trong vườn, nghe tiếng thì chạy lại. Lúc này anh
Cường có nói “Mày muốn ăn đòn hay con mày?” và nhào sang tính hành hung mẹ,
trên tay mẹ tôi lúc này có xách một cái xô nhỏ, chứa nước tưới cây còn dở. Vì
bức xúc, mẹ tôi có quăng cái xô về
phía anh Cường. Sau này, anh Cường khai trong biên bản rằng nước trong xô là
hóa chất, khiến anh Cường bị mù cả
hai mắt. Nhưng anh ta cũng có 1 bức ảnh chụp ngay tại hiện trường sau khi vụ
việc xảy ra, mắt vẫn sáng bình thường, anh ta vẫn đi làm như bao ngày trước đó,
đây là sự vu khống lần thứ 1 của anh Cường với gia đình tôi.
Cũng trong buổi xô xát này anh Cường tấn công mẹ tôi khi đấm vào bụng mẹ
tôi. Sau đó quay lại lên xe tính bỏ đi, nói “để
tao bán mủ xong tao vào làm việc với mẹ con mày”,
nhưng sau đó anh Cường lại quay lại.
Lúc
này, anh Xuân là người mua mủ cao su nhà anh Cường chạy xe máy vào để chở mủ cao su ra cho anh Cường nên cũng chứng
kiến sự việc, có vài lời khuyên can.
Anh Xuân vào được vài phút thì chị Kim (vợ Cường) cũng chạy xe máy vào. Vừa chống xe máy xuống là chị Kim cầm cây xông vào đánh em gái tôi, nhưng mẹ tôi giật
được cây gậy và quăng đi. Mẹ tôi và chị Kim giằng co với nhau, lúc này cả hai
đều chỉ có tay không, đẩy qua đẩy lại. . Lúc này anh
Cường xông vào có hành động dùng tay đấm, bóp cổ, móc mắt em gái tôi là Hà. Tôi
đang trút mủ cao su gần đó thấy vậy nên đến can ngăn sự việc này, tôi vẫn còn
đứng bên phần đất của gia đình tôi, thì lúc này anh Cường chủ động nhặt cục bê
tông lao vào tấn công tôi từ phía sau, đập vào vai tôi, đè ngã xuống hố đất,
hai người vật lộn nhau, ông Cường ngồi đè lên người, tay bóp cổ, tay kia vẫn
cầm cục bê tông lõi thép đánh tôi và đập nhiều lần vào đầu và vào lưng tôi
nhưng tôi dùng tay đỡ được nên chỉ bị thương vùng bàn tay và ngón tay, may mắn
tôi đẩy được anh Cường ra. Tôi đã đi khám bệnh và được Trung tâm y tế Phú Giáo
chứng nhận thương tích theo giấy chứng nhận thương tích số:134/CN ngày 31/11/2016,
kết luận tôi bị: “Trày xương mu hàm tay phải, Bầm tím vùng ngón 1 tay phải, trầy
xước vừng lưng diện tích: 10x16cm...”.
Như vậy, giấy chứng nhận thương tích này phù hợp với những
lời khai của tôi tại hồ sơ.
Em gái tôi chạy vào can các bên ra, nhưng không được. Khi đó, anh Xuân đã
can được mẹ tôi và chị Kim ra. Cả anh Xuân và mẹ tôi cùng chạy lại tách anh Cường khỏi anh Hải. Em gái tôi, anh Xuân,
mẹ tôi, tất cả mọi người lúc này đều là can ngăn, cố gắng tách 2 người đàn ông
là ông Cường và ông Hải ra.
Khi
tôi vừa đứng dậy được, thì anh Cường bất ngờ cầm cục bê tông và đánh anh Hải tiếp
tôi từ phía sau. - Cường đã tấn công trước
đó như trình bày phía trên.
Lúc này, Sơn (em trai tôi, từ
dưới nhà đi lên) cùng mọi người can ngăn ra.
Còn anh Xuân, chị
Kim kéo anh Cường ra. Anh Xuân lấy bao mủ cao su của anh Cường, chở đi.
Tôi và em gái tôi cũng đi về. Anh Cường nhặt khúc gậy đuổi theo gia đình
tôi vào sâu trong vườn nhà tôi, được khoảng 30m thì chị Kim đứng ở ngoài đường
kêu anh Cường quay lại và Anh Cường chạy xe máy về nhà cách đó khoảng 4km, còn chị Kim đi ra chỗ bán mủ cao
su của gia đình để gặp anh Xuân. Sau đó, sau đó em gái tôi gọi báo công an về
sự việc xảy ra như trên.
Chuyện không có gì nghiêm trọng và lỗi hoàn toàn thuộc về anh Cường và
chị Kim. Nhưng tôi quá bất ngờ khi nhiều lần làm việc tôi bị vu oan và ông
Cường, bà Kim muốn vu oan để truy tố hình sự tôi.
Vừa
qua, vào ngày 20 tháng 08 năm 2018, tôi có nhận được Quyết định phê chuẩn quyết
định khởi tố bị can số 86/QĐ-VKS ngày 10/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện
Phú Giáo khởi tố tôi về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 1 Điều
134 Bộ luật hình sự, Quyết định khởi tố bị can số 92 ngày 07/8/2018 và Lệnh cấm
đi khỏi nơi cư trú số 67 ngày 07/8/2018. Tôi hoàn toàn không đồng ý với toàn bộ
nội dung Quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can số 86/QĐ-VKS ngày
10/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo và Quyết định khởi tố bị
can số 92 ngày 07/8/2018 và Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 67 ngày 07/8/2018 của
Công an huyện Phú Giáo (tôi chưa nhận được quyết định khởi tố vụ án hình sự số
23 và quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố vụ án hình sự) với các lý do sau
đây:
Thứ nhất: hành vi xô xát giữa tôi và ông
Cường chỉ là xô xát nhẹ, chưa đủ yếu tố để cấu thành tội phạm như Cơ quan điều
tra và Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo quy kết cho tôi. Cơ quan điều tra
và Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo chỉ căn cứ vào lời khai một phía của
ông Cường để khởi tố tôi mà không dựa vào lời khai khách quan, cụ thể của tôi
và người làm chứng. Hơn nữa, khi xô xát ông Cường là người cầm hung khí nguy hiểm
là một cục đá có lõi sắt tấn công tôi (đây được xem là hung khí nguy hiểm theo
quy định tại tiểu mục 2.2 Mục 2 Phụ lục I Nghị quyết 02/2003 của Hội đồng thẩm
phán tòa án nhân dân tối cao), cụ thể: Tôi
xin trích dẫn một phần của Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng
thẩm phán tòa án nhân dân tối cao như sau:
“…2.2. "Phương tiện nguy hiểm" là
công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của con người
(trong sản xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà người phạm tội chế tạo ra nhằm
làm phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật có sẵn trong tự nhiên mà người phạm
tội có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc vật đó tấn công người khác thì
sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khoẻ của người bị tấn công.
a. Về công cụ, dụng cụ
Ví dụ: búa đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn...
b. Về vật mà người phạm tội chế tạo ra
Ví dụ: thanh sắt mài nhọn, côn gỗ...
c. Về vật có sẵn trong tự nhiên
Ví dụ: gạch, đá,
đoạn gậy cứng, chắc, thanh sắt...”
Như vậy, nếu khách quan,
đúng luật thì Cơ quan công an và Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo phải căn
cứ vào những tình tiết này để xác định tôi đang phòng vệ chính đáng theo quy định
tại Điều 15 Bộ luật hình sự 1999:
“Điều 15. Phòng
vệ chính đáng
1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người
khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các
lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ
ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải
chịu trách nhiệm hình sự.”.
Theo như quy định trên thì khi xem xét một hành vi có được coi là phòng vệ chính
đáng hay không cần hội tụ đủ các yếu tố:
1/. Về phía nạn nhân: là người đang có hành vi
xâm phạm đến các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của cá nhân người phòng vệ hoặc của người khác (người thứ ba). Hành vi xâm phạm này phải là hành vi có
tính chất nguy hiểm đáng kể. Mức độ đáng kể ở đây là tuỳ thuộc vào tính
chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm phạm, tính chất, mức độ nguy hiểm của
hành vi tấn công của nạn nhân (người có hành vi xâm phạm). Trong tình huống của
tôi, ông Cường sau khi đánh ngã tôi xuống hố vẫn tấn công tiếp, đe dọa trực
tiếp đến tính mạng và sức khỏe của tôi.
2/. Hành vi chống trả là cần thiết. Cần thiết là
sự thể hiện tính không thể không chống trả, không thể bỏ qua trước một hành vi
xâm phạm đến các lợi của xã hội. Khi đã xác định hành vi chống trả là cần
thiết thì thiệt hại gây ra cho người có hành vi xâm phạm dù có lớn hơn
thiệt hại mà người có hành vi xâm phạm gây ra cho người phòng vệ vẫn được coi
là phòng vệ chính đáng. Như vậy việc ông Cường cầm đá có sắt phía trông tấn
công tôi và tôi phải chống trả bằng tay không là cần thiết và phù hợp quy định,
đây điều này là cần thiết để bảo vệ sức khỏe đang bị đe dọa của mình.
Như
vậy, hành vi của tôi không phải là tội phạm mà phòng vệ chính đáng.
Và nếu đúng luật và khách quan
thì phải khởi tố ông Cường về hành vi dùng hung khí gây thương tích cho tôi.
Khi ông Cường dùng hung khí tấn công tôi thì tôi có bị thương trên tay,
lưng...nhưng vì nghĩ dầu sao cũng là anh em và khi tôi đến bác sĩ thì bác sĩ
nói không nghiêm trọng nên tôi không lấy chứng nhận thương tích để tố cáo ông
Cường làm gì còn nếu tôi muốn tố cáo đã tố cáo hành vi ông Cường từ đầu.
Ông Cường và vợ
ông ta tấn công mẹ tôi, đấm vào bụng mẹ tôi tiếp tục quay sang tấn công em gái
trước tôi và còn cầm đá có lõi sắt tấn công tôi thì bắt buộc tôi phải thực hiện
việc phòng vệ chính đáng để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình cũng
như cho mẹ tôi và em gái tôi, hành vi phòng vệ chính đáng của tôi bằng tay
không, phòng vệ trong tâm thế bị động, không có bất kỳ một sự nguy hiểm nào cho
xã hội. Ông Cường bị thương là do quá trình tấn công tôi bị thương chứ tôi
không tấn công ông Cường như ông Cường khai và Cơ quan công an, Viện kiểm sát
quy kết cho tôi. Hơn nữa, ông Cường khai rằng xô nước mẹ tôi hất vào người ông
Cường và em gái tôi (cô Hà) là nước hóa chất, gây mù mắt cho ông Cường, tuy
nhiên, ông Cường cố tình khai gian dối như vậy để quy kết, vu khống cho mẹ tôi,
bằng chứng là từ lúc đó đến nay mắt ông Cường không bị tổn hại một chút nào.
Ông Cường khai gian dối như vậy nhưng Cơ quan công an và Viện kiểm sát nhân dân
huyện Phú Giáo không xem xét đến sự trung thực của ông Cường là không khách
quan, không đúng sự thật của vụ án. Trong khi vụ án này người làm chứng đã khai
là ông Cường cầm đá tấn công tôi và tôi chỉ chống trả bằng tay không.
Thứ hai:
sự việc xô xát giữa tôi và ông Cường xảy ra từ tháng 11/2016 đến nay đã gần 02
(hai) năm nhưng đến tháng 2/2018, cơ quan Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo
mới tiến hành khởi tố vụ án, đến ngày 10/8/2018 mới khởi tố bị can là không
khách quan, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và xâm phạm đến quyền và lợi
ích của tôi. Vụ án có dấu hiệu không khách quan ngay từ ban đầu vì tôi không có
anh em làm cán bộ công an nhưng gia đình ông Cường và vợ ông Cường có anh em,
cháu làm cán bộ công an tại địa phương và Bình Phước làm tôi hết sức hoang mang
và lo lắng tôi bị xử lý một cách oan ức, bị ép.
Thứ ba:
hai khúc gỗ mà Cơ quan cảnh sát điều tra thu thập đem về không phải là công cụ
được sử dụng trong quá trình xảy ra sự việc của tôi mà khúc gỗ này do ông Cường
dùng để định tấn công chúng tôi.
Thứ tư:
ông cường là người đánh mẹ tôi trước, đánh em gái tôi là Hà trước – họ là những
phụ nữ chân yếu tay mềm nhưng ông Cường lại đánh và hành hung họ, sau khi đánh
mẹ tôi và em tôi, tôi chỉ vào can thì ông Cường cầm đá đánh tôi rơi xuống hố
rồi tiếp tục tấn công tôi. Địa điểm tấn công tôi là nằm trên phần đất gia đình
tôi. Như vậy, bằng chứng rõ ràng ông Cường đã qua đất nhà tôi gây sự và đánh mẹ
tôi, em tôi và tôi trước bằng hung khí là cục đá.
Thứ năm: Tôi chỉ
phòng vệ bằng tay không, qua xô xát với nhau. Tại thời điểm xô xát không có
biên bản quả tang, lập biên bản tại lúc đó vết thương ông Cường do tôi gây nên nên
tôi khẳng định tôi tay không không thể gây thương tích mẽ 2 răng, gãy mũi gây nên
thương tích 11% cho ông Cường được. Do vậy, tôi yêu cầu giám định lại, không
đồng ý với kết quả giám định và phải xác định được vết thương, thương tích do
tôi gây nên.
Thứ sáu: Cho đến
nay tôi vẫn chưa nhận được quyết định khởi tố vụ án hình sự số 23 ngày 12/2/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra huyện
Phú giáo. Chính điều này đã làm mất đi quyền khiếu nại của tôi đối với quyết
định khởi tố vụ án hình sự này mà Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định về quyền
của người khiếu nại theo quy định tại Điều 472, 473 BLTTHS 2015.
Đề nghị của người khiếu nại:
Còn rất nhiều sai
phạm trong quá trình tố tụng của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân
huyện Phú Giáo mà tôi không tiện nêu ra ở văn bản này. Tuy nhiên, từ những sai
phạm cơ bản nêu trên, nhằm tránh oan sai cho tôi và trách nhiệm đối với Cơ quan
có thẩm quyền, căn cứ theo quy định của Điều 157, 158 Bộ luật tố tụng Hình sự
2015. Bằng đơn này tôi yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo ra quyết
định hủy bỏ Quyết định phê chuẩn khởi tố vụ án hình sự số 86/QĐ-VKS ngày 10/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân
huyện Phú Giáo phê chuẩn quyết định khởi tố tôi về tội “Cố ý gây thương tích”.
Đồng thời, yêu cầu Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Phú Giáo hủy bỏ Quyết
định khởi tố vụ án hình sự số 23 ngày 12/2/2018, Quyết
định khởi tố bị can số 92 ngày 07/8/2018 và hủy bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú
số 67 ngày 07/8/2018 và đình chỉ vụ án này.
Thiết nghĩ, đối với sự việc
này, suy xét lại toàn bộ sự việc không có gì nghiêm trọng. Việc Cơ quan công an
và Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo không suy xét đầy đủ toàn bộ nội dung
sự việc đã ra các Quyết định khởi tố tôi, làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự,
nhân phẩm của tôi và gia đình tôi. Gây oan sai cho tôi và gia đình tôi.
Nay bằng văn bản này, kính đề
nghị Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Phú Giáo và Viện kiểm sát nhân dân
huyện Phú Giáo thận trọng xem xét lại toàn bộ nội dung vụ án, trả lại công bằng
cho tôi và gia đình tôi. Sự việc xảy ra tôi khẳng định gia đình ông Cường có
lỗi trước và gây sự trước, dùng hung khí đánh chúng tôi gây bức xúc cho gia
đình tôi. Liệu phải chăng gia đình ông Cường, bà Kim có anh em làm cán bộ công
an nên ép gia đình tôi và tôi? Nếu không được giải quyết công bằng buộc gia
đình tôi phải nhờ Cơ quan trung ương bảo vệ cho tôi và gia đình tôi.
Tôi và gia đình tôi luôn chấp
hành các quy định pháp luật nhà nước, em tôi là cán bộ nhà nước, cha tôi là bộ
đội hiện nay bị bại liệt, tâm thần không ổn định và nhận thức hạn chế nhưng ông
Cường vẫn luôn chửi bới cha tôi dù ông Cường vai cháu ít tuổi hơn cha tôi, hơn thế, bà Kim- vợ ông Cường còn viết gửi đến công an xã vu
cáo cha, mẹ, anh chị em tôi xúc phạm, chửi bới gia đình ông Cường, tài sản của
nhà ông Cường hư hỏng do gia đình tôi phá mà không có căn cứ nhằm hạ thấp danh
dự của gia đình tôi- đơn này tôi vẫn còn giữ.
Trên đây nội dung khiếu nại
của tôi, kính mong Qúy cơ quan xem xét chấp nhận và bảo vệ gia đình tôi, bảo vệ
sự thật, bảo vệ người yếu thế như tôi và gia đình tôi. Tôi tin vào sự thật, sự
khách quan của Qúy cơ quan không bị tác động từ bất kỳ từ ai.
Rất mong Quý cơ quan xem xét.
Tôi xin chân thành cảm ơn và
trân trọng kính chào./.
Đính kèm đơn khiếu nại:
CMND, Hộ khẩu của tôi (bản photo);
Quyết
định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can số 86/QĐ-VKS ngày 10/8/2018 (bản photo);
Quyết
định số 92 ngày 07/8/2018 (bản photo);
Lệnh
cấm đi khỏi nơi cư trú số 67 ngày 07/8/2018 (bản photo).
Các hồ sơ tranh chấp đất đai.
|
Người
làm đơn
|
Giấy chứng
nhận thương tích 134.
|
Quy Định Về Tội Cố Ý Gây Thương Tích |
Quy định của Luật sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2017 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác.
Theo quy định tại Điều 134 BLHS sửa đổi năm 2017 thì. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác:
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;
b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;
c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;
đ) Có tổ chức;
e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;
i) Có tính chất côn đồ;
k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều này;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 14 năm:
a) Làm chết người;
b) Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
5. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Làm chết 02 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
6. Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”. |
Những Quy Định Có Lợi Cho Bị Cáo |
- Từ ngày 1-1-2018, Bộ luật Hình sự 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14) chính thức có hiệu lực thi hành. Theo đó, việc áp dụng các quy định trong bộ luật này được thực hiện theo hướng dẫn của Nghị quyết số 41/2017/QH14 đã được kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa XIV thông qua. Đáng chú ý, nhiều điều khoản có lợi cho người phạm tội vẫn được áp dụng...
Nhiều điều khoản có lợi
Ngày 20-6-2017, Nghị quyết số 41/2017/QH14 về thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 (Bộ luật Hình sự năm 2015) đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 đã được Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ ba thông qua.
|
Phiên tòa xét xử các bị cáo phạm tội hình sự. |
Theo đó, kể từ ngày 1-1-2018, tất cả các điều khoản của Bộ luật Hình sự năm 2015 được áp dụng để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với người có hành vi phạm tội. Điểm đáng chú ý là các điều khoản của Bộ luật Hình sự 2015 có lợi cho người phạm tội như: Xóa bỏ một hình phạt, quy định hình phạt nhẹ hơn; miễn trách nhiệm hình sự... được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ ngày 1-1-2018 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích. Các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, “số lượng lớn”, “số lượng rất lớn”, “số lượng đặc biệt lớn”… của Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được áp dụng để khởi tố bị can trước ngày 1-1-2018 thì vẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử.
Đối với hành vi hoạt động phỉ, quy định tại Điều 83; hành vi đăng ký kết hôn trái pháp luật, quy định tại Điều 149; hành vi kinh doanh trái phép, quy định tại Điều 159; hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, quy định tại Điều 165 của Bộ luật Hình sự năm 1999 xảy ra trước ngày 1-1-2018 mà sau thời điểm đó vụ án đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì tiếp tục áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 để xử lý. Trường hợp chất thu giữ được nghi là chất ma túy ở thể rắn đã được hòa thành dung dịch, chất ma túy ở thể lỏng đã được pha loãng, sái thuốc phiện hoặc thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần quy định tại các Điều 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì phải xác định hàm lượng chất ma túy làm cơ sở để xác định khối lượng hoặc thể tích chất ma túy thu giữ được...
Trường hợp chuyển hình phạt tử hình đã tuyên sang chung thân
Kể từ ngày Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 (Luật số 12/2017/QH14) được công bố, tiếp tục thực hiện các quy định: Không áp dụng hình phạt tử hình khi xét xử người phạm tội mà Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bỏ hình phạt tử hình hoặc đối với người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử. Hình phạt tử hình đã tuyên đối với người phạm tội đủ 75 tuổi trở lên nhưng chưa thi hành án thì không thi hành và chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt tù chung thân. Đối với người đã bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành án mà có đủ các điều kiện quy định tại Điểm c Khoản 3 Điều 40 Bộ luật Hình sự 2015 thì không thi hành án và chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt tù chung thân. Không xử lý về hình sự đối với người thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định là tội phạm nhưng Bộ luật Hình sự năm 2015 không quy định là tội phạm, bao gồm: Tảo hôn; báo cáo sai trong quản lý kinh tế;… Không xử lý về hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về tội phạm không được quy định tại Khoản 2 Điều 12 và Khoản 3 Điều 14 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đối với người thực hiện hành vi chuẩn bị phạm các tội mà không được quy định tại Khoản 2 Điều 14 của Bộ luật Hình sự năm 2015; nếu vụ án đã khởi tố, đang điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ.
Nghị quyết số 41/2017/QH14 giao Chính phủ, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, quy định chi tiết các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự quy định tại Mục 2 Chương XII của Bộ luật Hình sự năm 2015; Đồng thời giao Tòa án nhân dân Tối cao thông qua tổng kết việc áp dụng pháp luật, giám đốc việc xét xử bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử các quy định về “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, “số lượng lớn”, “số lượng rất lớn”,…
Chính phủ, Tòa án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, phối hợp tổ chức rà soát các văn bản liên quan để kịp thời hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới hoặc đề nghị Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Nghị quyết này có hiệu lực từ ngày 5-7-2017.
Hồng Cương
Nguồn: hà Nội Mới |
Quy Định Mới Có Lợi Cho Bị Cáo |
MỘT SỐ QUY ĐỊNH CÓ LỢI CHO NGƯỜI PHẠM TỘI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015
(Ban hành kèm theo Công văn số 276/TANDTC-PC ngày 13 tháng 9 năm 2016 của Tòa án nhân dân tối cao)
Stt |
Nội dung quy định có lợi |
Điều, Khoản, Điểm |
1 |
Đồng phạm
“4. Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành” |
Khoản 4 Điều 17 |
2 |
Che giấu tội phạm
“2. Người che giấu tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 1 Điều này, trừ trường hợp che giấu các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 của Bộ luật này.” |
Khoản 2 Điều 18 |
3 |
Không tố giác tội phạm
“3. Người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 1 Điều này trong trường hợp không tố giác tội phạm do chính người mà mình bào chữa đã thực hiện hoặc đã tham gia thực hiện mà người bào chữa biết được khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa, trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 của Bộ luật này.” |
Khoản 3 Điều 19 |
4 |
Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội
“1. Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm.
2. Trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự.” |
Điều 24 |
5 |
Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ
“Hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm.
Người nào không áp dụng đúng quy trình, quy phạm, không áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.” |
Điều 25 |
6 |
Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên
“Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự.
Quy định này không áp dụng đối với trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 421, Khoản 2 Điều 422 và Khoản 2 Điều 423 của Bộ luật này.” |
Điều 26 |
7 |
Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự
“2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành Điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi tiến hành Điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;...
3. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.” |
Các Điểm a, b Khoản 2 và Khoản 3 Điều 29 |
8 |
Phạt tiền
“1. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp sau đây:
a) Người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định;
b) Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do Bộ luật này quy định.” |
Khoản 1 Điều 35 |
9 |
Cải tạo không giam giữ
“3... Không khấu trừ thu nhập đối với người chấp hành án là người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự.
4. Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.
Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần.
Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.
Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật thi hành án hình sự.” |
Khoản 3 và Khoản 4 Điều 36 |
10 |
Tù có thời hạn
“2. Không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng.” |
Khoản 2 Điều 38 |
11 |
Tử hình
“2. Không áp dụng hình phạt tử hình đối với... người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.
3. Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
...b) Người đủ 75 tuổi trở lên;
c) Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, Điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn”. |
Khoản 2 và các Điểm b, c Khoản 3 Điều 40 |
12 |
Căn cứ quyết định hình phạt
“2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều này, Tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội.” |
Khoản 2 Điều 50 |
13 |
Các tình Tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
“1...
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc đặc biệt nặng;
x) Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng.” |
Các Điểm đ, o, p và x Khoản 1 Điều 51 |
14 |
Các tình Tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
1. Chỉ các tình Tiết sau đây mới là tình Tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
a) Phạm tội có tổ chức;
b) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
d) Phạm tội có tính chất côn đồ;
đ) Phạm tội vì động cơ đê hèn;
e) Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;
g) Phạm tội 02 lần trở lên;
h) Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;
i) Xâm phạm tài sản của Nhà nước;
k) Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;
i) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai, người đủ 70 tuổi trở lên;
k) Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;
l) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;
m) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, tàn ác để phạm tội;
n) Dùng thủ đoạn, phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội;
o) Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội;
p) Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm. |
Khoản 1 Điều 52 |
15 |
Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng
“2. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của Điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.” |
Khoản 2 Điều 54 |
16 |
Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
“2. Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, hình phạt được quyết định trong phạm vi khung hình phạt được quy định trong các Điều luật cụ thể
3. Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu Điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà Điều luật quy định.” |
Khoản 2 và Khoản 3 Điều 57 |
17 |
Thời hiệu thi hành bản án
“2. Thời hiệu thi hành bản án hình sự đối với người bị kết án được quy định như sau:
...d) 20 năm đối với các trường hợp xử phạt tù chung thân hoặc tử hình.” |
Điểm d Khoản 2 Điều 60 |
18 |
Miễn chấp hành hình phạt
“2. Người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn đến 03 năm chưa chấp hành hình phạt thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
...c) Chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
...5. Người bị kết án phạt tiền đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt còn lại hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần tiền phạt còn lại.” |
Điểm c Khoản 2 và Khoản 5 Điều 62 |
19 |
Giảm mức hình phạt đã tuyên
“...3. Trường hợp người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu xuống 30 năm tù sau khi đã chấp hành được 15 năm tù và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành là 25 năm.
...6. Đối với người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc người bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại Điểm b hoặc Điểm c Khoản 3 Điều 40 của Bộ luật này thì thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm.” |
Khoản 3 và Khoản 6 Điều 63 |
20 |
Tha tù trước thời hạn có Điều kiện
“1. Người đang chấp hành án phạt tù có thể được tha tù trước thời hạn khi có đủ các Điều kiện sau đây:
a) Phạm tội lần đầu;
b) Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt;
c) Đã được giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với người bị kết án về tội phạm nghiêm trọng trở lên;
d) Có nơi cư trú rõ ràng;
đ) Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, án phí và các nghĩa vụ bồi thường dân sự;
e) Đã chấp hành được ít nhất là một phần hai mức thời hạn tù đối với hình phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất 15 năm đối với tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn.
Trường hợp người phạm tội là thương binh, bệnh binh, thân nhân gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng, người đủ 70 tuổi trở lên, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì thời gian đã chấp hành ít nhất là một phần ba hình phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất 12 năm đối với tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn;
e) Không thuộc một trong các trường hợp phạm tội quy định tại Khoản 2 Điều này.
2. Không áp dụng quy định của Điều này đối với người bị kết án thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Người bị kết án về tội xâm phạm an ninh quốc gia; tội khủng bố; tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh hoặc người bị kết án từ 10 năm tù trở lên đối với tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm của con người; 07 năm tù trở lên đối với các tội cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản và sản xuất trái phép, mua bán trái phép, chiếm đoạt chất ma túy;
b) Người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc thuộc trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 40 của Bộ luật này.
3. Theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án quyết định tha tù trước thời hạn có Điều kiện đối với người bị kết án. Người được tha tù trước thời hạn có Điều kiện phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách. Thời gian thử thách bằng thời gian còn lại của hình phạt tù.
4. Người được tha tù trước thời hạn có Điều kiện cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính 02 lần trở lên trong thời gian thử thách, thì Tòa án có thể hủy bỏ quyết định tha tù trước thời hạn có Điều kiện đối với người đó và buộc họ phải chấp hành phần hình phạt tù còn lại chưa chấp hành.
Nếu người đó thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời gian thử thách thì Tòa án buộc người đó chấp hành hình phạt của bản án mới và tổng hợp với phần hình phạt tù chưa chấp hành của bản án trước theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.
5. Người được tha tù trước thời hạn có Điều kiện đã chấp hành được ít nhất là một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.” |
Điều 66 |
21 |
Xoá án tích
“2. Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích.” |
Khoản 2 Điều 69 |
22 |
Đương nhiên được xóa án tích
“2. Người bị kết án đương nhiên được xoá án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
...b) 02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;
c) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;
d) 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại các Điểm a, b và c khoản này thì thời hạn đương nhiên được xoá án tích sẽ hết vào thời Điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.
3. Người bị kết án đương nhiên được xoá án tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại các Điểm a, b, c và d Khoản 2 Điều này.” |
Các Điểm b, c và d Khoản 2 và Khoản 3 Điều 70 |
23 |
Xoá án tích theo quyết định của Tòa án
“2. Người bị kết án được Tòa án quyết định xoá án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
a) 03 năm trong trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 05 năm;
b) 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;
c) |
Địa Chỉ Các Tòa Án Quận Huyện Tại Tphcm |
TẤT CẢ ĐỊA CHỈ TÒA ÁN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH |
Chúng ta đều biết rằng việc tới Tòa án để xem xét xử là rất bổ ích với mọi người. Từ sinh viên Luật, những người đã hành nghề Luật cho tới những người không hành nghề Luật.
Như vậy, với mục đích tạo thuận lợi cho mọi người khi đi xem Tòa, tác giả xin liệt kê danh sách tất cả địa chỉ của Tòa án tại Thành phố Hồ Chí Minh.
1. Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
Địa chỉ: 124 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
2. Tòa án Quân sự
Địa chỉ: 06, Lê Quý Đôn, Phường 6, Quận 3, Hồ Chí Minh
3. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
Tên Tòa án |
Địa chỉ |
Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh |
124 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
|
Tòa Hình sự, Dân sự |
131 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường Bến Thành, Quận 1 |
Tòa Kinh tế, Tòa Hành chính, Tòa Lao động, Tòa gia đình và người chưa thành niên
|
26, Lê Thánh Tôn, phường Bến Nghé, Quận 1 |
4. Tòa án nhân dân cấp huyện
Tên Tòa án |
Địa chỉ |
Tòa án nhân dân Quận 1 |
Số 6, Lý Tự Trọng, phường Bến Nghé, quận 1
|
Tòa án nhân dân Quận 2 |
1400, Liên tỉnh lộ 25, phường Thạnh Mỹ Lợi, quận 2 |
Tòa án nhân dân Quận 3 |
139 Nguyễn Đình Chiểu, quận 3 |
Tòa án nhân dân Quận 4 |
22/1 Hoàng Diệu, phường 12, quận 4 |
Tòa án nhân dân Quận 5 |
642 Nguyễn Trãi, phường 11, quận 5 |
Tòa án nhân dân Quận 6 |
388 Nguyễn Văn Luông, phường 12, quận 6 |
Tòa án nhân dân Quận 7 |
1362 Huỳnh Tấn Phát, phường Phú Mỹ, quận 7 |
Tòa án nhân dân Quận 8 |
126 đường 12, phường 5, quận 8 |
Tòa án nhân dân Quận 9 |
Đường Lò Lu, phường Trường Thạnh, quận 9 |
Tòa án nhân dân Quận 10 |
27 đường Thành Thái, phường 14, quận 10 |
Tòa án nhân dân Quận 11 |
172 Ông Ích Khiêm, phường 5, quận 11 |
Tòa án nhân dân Quận 12 |
755/50 khu phố 3, phường Tân Thới Hiệp, quận 12 |
Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh |
457 Bạch Đằng, phường 2, quận Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh |
Tòa án nhân dân Quận Bình Tân |
422/1 Hồ Ngọc Lãm, phường An Lạc, quận Bình Tân, Tp. Hồ Chí Minh |
Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp |
05 Nguyễn Văn Lượng, phường 16, quận Gò Vấp, Tp. Hồ Chí Minh |
Tòa án nhân dân Quận Phú Nhuận |
34 Nguyễn Văn Trỗi, quận Phú Nhuận, Tp. Hồ Chí Minh |
Tòa án nhân dân Quận Tân Bình |
9 Phú Hòa, phường 7, quận Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh |
Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức |
18 đường 6, phường Linh Chiểu, quận Thủ Đức, Tp. Hồ Chí Minh |
Tòa án nhân dân Quận Tân Phú |
200/27 Nguyễn Hữu Tiến, phường Thạnh Tây, quận Tân Phú, Tp. Hồ Chí Minh |
Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh |
A 13 – 14 Nguyễn Hữu Trí, thị trấn Tân Túc, huyện Bình Chánh |
Tòa án nhân dân huyện Cần Giờ |
Đường Lương Văn Nho, thị trấn Cần Thạnh, huyện Cần Giờ, Tp. Hồ Chí Minh |
Tòa án nhân dân huyện Củ Chi |
khu phố 7, thị trấn Củ Chi, huyện Củ Chi, Tp. Hồ Chí Minh |
Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn |
94/7 Quang Trung, thị trấn Hóc Môn, huyện Hóc Môn, Tp Hồ Chí Minh |
Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè |
Nguyễn Bình, xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè |
|
|
Luật Sư Bào Chữa Hình Sự |
Hiện nay, Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 đang được tạm dừng để điều chỉnh một số lỗi kỹ thuật. Tuy nhiên, nghiên cứu Điều 260 BLHS năm 2015 quy định tội “Vi phạm các quy định về tham gia giao thông” chúng tôi có một số ý kiến như sau:
“Điều 260. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;
b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng chất ma túy hoặc các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;
c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;
đ) Làm chết 02 người;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
g) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
h) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Làm chết 03 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
d) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
4. Người tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
5. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người khác nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
6. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
Thứ nhất, tại Điều 202 BLHS 1999 quy định tội phạm này với tên gọi “Tội vi phạm quy định vềđiều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Theo tên gọi của điều luật thì chỉ những người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Trong khi đó, khoản 22 Điều 3 Luật giao thông đường bộ năm 2008 quy định “ Người tham gia giao thông gồm người điều khiển, người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ”. Với tên gọi tội danh như Điều 202 của BLHS 1999 thì không thể xử lý trách nhiệm hình sự đối với “ người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ” mặc dù họ cũng tham gia giao thông và gây thiệt hại đến tính mạng, gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe, gây thiệt hại về tài sản của người khác. Điều 260 BLHS năm 2015 đã sửa đổi tên điều luật theo hướng bao quát hơn, phản ánh đúng phạm vi và đối tượng điều chỉnh của điều luật, tức là người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về đảm bảo an toàn giao thông thì đều có thể bị xử lý trách nhiệm hình sự về tội này.
Thứ hai, đây là tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất, tức là vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra đối với hành vi phạm tội khi có hậu quả xảy ra. Khoản 1 Điều 260 quy định cấu thành tội phạm cơ bản xác định hậu quả của hành vi phạm tội có thể là:
- Làm chết một người;
- Gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
Như vậy chỉ khi có hậu quả xảy ra và hậu quả đó phải là gây thiệt hại cho tính mạng cho người khác, gây thương tích hoặc sức khỏe cho người khác với một tỷ lệ nhất định hoặc gây thiệt hại về tài sản ở mức độ nhất định thì người phạm tội mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Khoản 2, 3 của điều luật quy định các tình tiết định khung tăng nặng.
Tuy nhiên, điểm b khoản 1 quy định hành vi phạm tội dẫn đến hậu quả “ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%” tức là tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 62% đến 120% thì “ bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”. Điểm c khoản 1 điều này lại quy định hậu quả của hành vi phạm tội “ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%”cũng chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự như quy định tại điểm b khoản 1 điều này. Tức là giữa điểm b và điểm c có sự phân biệt là gây thương tích hoặc gây tổn hai sức khỏe cho số người khác nhau, nhưng tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể thì như nhau (trong khoảng từ 61% đến 121%) và cùng chịu một khung hình phạt như nhau . Chúng tôi cho rằng quy định như vậy là không cần thiết bởi nó có sự trùng lặp về tỷ lệ thương tích và cùng khung hình phạt. Vì vậy cần sửa đổi theo hướng bỏ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 260 BLHS 2015 và sửa đổi điểm b theo hướng “ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 02 người trở lên với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 62% đến 121%” thì vẫn đảm bảo yếu tố định lượng trong khoản này và không có sự trùng lặp như quy định tại BLHS 2015.
Tương tự như vậy, tại điểm e khoản 2 Điều 260 quy định “ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên” tức là tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% trở lên thì “ thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm”. Điểm g khoản 2 điều này quy định “ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%” thì cũng chỉ phải chịu mức hình phạt như quy định tại điểm e khoản này. Quy định như vậy là không thực sự cần thiết, gây rườm rà khi xây dựng kết cấu của điều luật. Trong khi đó, điểm b khoản 3 quy định “ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên” tức là tổng tỷ lệ thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của 03 người từ 183% trở lên thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Chúng ta thấy rằng quy định như vậy là bất hợp lý bởi vì nếu một người vi phạm quy định về an toàn giao thông gây thương tích cho 03 người với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này ở mức 190% thì sẽ bị xử lý hình sự theo quy định tại điểm g khoản 2 hay theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 260 BLHS 2015. Do vậy, chúng tôi cho rằng bỏ quy định tại điểm g khoản 2 và sửa quy định tại điểm e khoản 2 điều luật này theo hướng “ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%”, đồng thời bỏ quy định tại điểm b khoản 3sẽ tránh được sự chồng chéo quy định giữa các khoản nhưng vẫn đảm bảo nội dung điều chỉnh của điều luật.
Khoản 4 của điều luật lại quy định hậu quả của tội phạm cũng như khung hình phạt nhẹ hơn nhiều so với cấu thành tội phạm cơ bản. Khoản 4 quy định: “Người tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm”.
Ở đây, nhà làm luật quy định đối với hành vi phạm tội chỉ gây thiệt hại ở mức độ như quy định tại khoản 4 thì chỉ có thể áp dụng hình phạt cao nhất là cải tạo không giam giữ đến ba năm chứ không được áp dụng hình phạt tù. Tuy nhiên, điểm bất cập là nếu thiệt hại xảy ra chỉ ở phạm vi quy định của khoản 4 nhưng thuộc trường hợp không có giấy phép lái xe thì hình phạt được áp dụng như thế nào? Nếu áp dụng quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 để xử phạt người phạm tội từ 03 năm đến 10 năm tù thì quá nặng và mức hình phạt được áp dụng không hợp lý. Chúng tôi cho rằng quy định cấu thành tội phạm định khung giảm nhẹ tại khoản 4 là không logic với kết cấu của điều luật. Các BLHS trước đây (BLHS 1985 và BLHS 1999) được xây dựng theo mô hình cấu thành tội phạm cơ bản đến cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc cấu thành tội phạm giảm nhẹ đảm bảo tính logic, khoa học, dễ nắm bắt và áp dụng. Điều 260 BLHS 2015 được xây dựng cấu thành tội phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng và cấu thành tội phạm giảm nhẹ không theo một trật tự nhất định mặc dù không gây khó khăn khi áp dụng nhưng về mặt kỹ thuật lập pháp theo chúng tôi là thiếu tính logic. Mặt khác, sẽ là vướng mắc khi áp dụng hình phạt nếu hành vi phạm tội rơi vào trường hợp vừa phân tích ở trên. Nếu muốn thực hiện chính sách hình sự trong trường hợp này thì có thể quy định bằng những văn bản dưới luật hoặc các hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao. Vì vậy cần sửa đổi theo hướng chuyển khoản 4 thành một điểm trong khoản 1 Điều 260 BLHS năm 2015 để vừa đảm bảo kết cấu logic của điều luật và vừa phù hợp với cấu thành tội phạm và mức hình phạt ở các khoản khác của điều luật.
Thứ ba, như đã phân tích ở trên, đây là điều luật quy định cấu thành tội phạm vật chất tức là đòi hỏi phải có hậu quả do hành vi phạm tội gây ra. Hậu quả đó có thể là gây thiệt hại về tính mạng, gây thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe hoặc tài sản ở một mức độ nhất định thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Hình phạt được áp dụng phải căn cứ vào mức độ hậu quả xảy ra. Tuy nhiên, khoản 5 của điều luật lại quy định theo cấu thành tội phạm hình thức tức hậu quả của tội phạm chưa xảy ra. Chúng tôi cho rằng quy định này không logic với kết cấu của điều luật và thiếu tính khả thi trên thực tế. Để xác định một hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ nào đó có nguy hiểm hay không, nguy hiểm ở mức độ nào, “ có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người khác nếu không được ngăn chặn kịp thời” phụ thuộc rất nhiều vào ý chí chủ quan của con người nhất là của người áp dụng pháp luật. Thực tế cho thấy mặc dù khoản 4 Điều 202 BLHS 1999 cũng có quy định hành vi này nhưng chưa có trường hợp nào bị truy tố, xét xử đối với loại hành vi này. Nguyên nhân là do thiếu căn cứ để xác định mức độ nguy hiểm của hành vi đã đủ để cấu thành tội phạm này hay chưa và giả sử xác định một hành vi nào đó đã phạm tội vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ theo quy định tại khoản 5 Điều 260 BLHS năm 2015 thì dựa vào căn cứ nào để đưa ra mức hình phạt cho hành vi phạm tội đó. Chúng tôi cho rằng không nên quy định loại hành vi này là một hành vi phạm tội trong bộ luật hình sự.
Từ những ý kiến trên, chúng tôi cho rằng cần sửa đổi Điều 260 BLHS 2015 như sau:
“Điều 260. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%
b) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 02 người trở lên với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 62% đến 121%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;
b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng chất ma túy hoặc các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;
c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;
đ) Làm chết 02 người;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
g) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
g) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Làm chết 03 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
5. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người khác nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”. |
|
Hỗ trợ trực tuyến |
ĐIỆN THOẠI GẶP
LUẬT SƯ :
0972238006(zalo, viber, telegram) |
Hỗ trợ trực tuyến: |
|
0972238006 |
|
|
|