HOẠT ĐỘNG LUẬT SƯ
- Luật sư giải quyết thuận tình ly hôn tại tphcm
- Luật sư chuyên đại diện ủy quyền ly hôn
- Luật sư chuyên soạn thảo các loại hợp đồng
- Luật sư ly hôn tại Tân Bình, Gò Vấp
- Luật sư chuyên đại diện cho doanh nghiệp tại tòa án
- Văn phòng luật sư tư vấn
- Luật sư chuyên tranh chấp nhà đất với người nước ngoài
- Luật sư chuyên tranh chấp nhà đất cho việt kiều tại sài gòn
- Luật sư chuyên khởi kiện tranh chấp thừa kế
- Luật sư chuyên khởi kiện thu hồi nợ
- Luật sư chuyên làm giấy tờ nhà đất tại tphcm
- Luật sư giỏi tại thành phố hồ chí minh
- Dịch vụ sang tên sổ đỏ sổ hồng
- Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng thuê nhà xưởng
- Tư vấn người nước ngoài ly hôn với người việt nam
- Luật sư giỏi về thừa kế tại tphcm
- Luật sư tư vấn luật đất đai
- Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị hại trong vụ án hình sự
- Luật sư chuyên tư vấn chia tài sản sau khi ly hôn
- Luật sư pháp chế doanh nghiệp
- Phí thuê luật sư ly hôn tại tphcm
- Tư vấn thủ tục nhận thừa kế nhà đất
- Luật sư cho việt kiều và người nước ngoài
- Luật sư giỏi chuyên tố tụng
- Luật sư cho công ty tại quận 6, bình tân
- Luật sư cho công ty tại quận 5, quận 11, quận 10
- Luật sư tư vấn kiện đòi nhà cho thuê
- Luật sư chuyên nhà đất quận 9, quận 12
- Luật sư tư vấn cho cá nhân
- Luật sư chuyên soạn thảo, review hợp đồng
- Luật sư chuyên bào chữa các vụ án hình sự
- Luật sư tại thành phố Thủ Đức
- Luật sư tư vấn vu khống nói xấu xúc phạm danh dự trên facebook
- Luật sư tư vấn soạn thảo văn bản, hợp đồng
- Luật sư tư vấn soạn đơn khởi kiện
- Luật sư hình sự tại thành phố hồ chí minh
- Luật sư nhà đất tại thành phố thủ đức
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội lây lan dịch bệnh
- Luật sư giỏi chuyên về lao động
- Việt kiều có được thừa kế nhà đất tại việt nam không?
- Luật sư chuyên giải quyết tranh chấp mua bán nhà đất
- Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng thuê nhà mùa covid
- Luật sư tư vấn phân chia tài sản chung của vợ chồng
- Luật sư tư vấn thu hồi công nợ
- Luật sư chuyên giải quyết tranh chấp
- Luật Sư Làm Ly Hôn Nhanh Tại Tphcm
- Tư Vấn Kiện Đòi Lại Nhà Cho Ở Nhờ
- Luật sư tư vấn kiện đòi nhà
- Luật sư tư vấn mua bán nhà đất
- Luật sư tư vấn hợp đồng vô hiệu
- Tư vấn hợp đồng giả cách
- Luật Sư Hòa Giải Tranh Chấp Đất Đai
- Tư Vấn Tranh Chấp Ly Hôn
- Luật Sư Chuyên Ly Hôn Nhanh Trọn Gói
- Tư Vấn Chuyển Nhượng Cổ Phần Vốn Góp
- Luật Sư Bảo Hộ Doanh Nghiệp
- Luật Sư Giải Quyết Ly Hôn Nhanh Tại Tphcm
- Tư Vấn Kiện Đòi Nợ
- Luật Sư Tranh Chấp Nhà Ở
- Luật Sư Chuyên Soạn Đơn Khởi Kiện Khiếu Nại
- Luật sư tư vấn soạn đơn ly hôn
- Luật Sư Tư Vấn Thành Lập Doanh Nghiệp
- Luật Sư Tư Vấn Tại Công Ty
- Luật Sư Chuyên Nhà Đất Tại Quận 6, Bình Tân, Bình Chánh
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Nuôi Con Khi Ly Hôn
- Luật Sư Tư Vấn Cho Người Hoa Tại tphcm/Hoa Kiều
- Luật Sư tư Vấn Đơn Phương Chấm Dứt Hợp Đồng Lao Động
- Luật Sư Tư Vấn Cho Việt Kiều Úc, Mỹ, Canada
- Luật Sư Tư Vấn Luật Thường Xuyên Cho Doanh Nghiệp
- Công Chứng Khai Nhận Thừa Kế
- Văn Phòng Luật Sư Tư Vấn Chia Tài Sản Khi Ly Hôn
- Luật Sư Tư Vấn Bất Động Sản
- Luật Sư Tư vấn Thừa Kế Tại Quận 6, Bình Tân
- Luật Sư Tranh Chấp Kinh Doanh Thương Mại
- Luật Sư Chuyên Đại Diện Ủy Quyền Tại Tòa Án
- Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Tại Bình Tân
- Luật Sư Ly Hôn Tại Quận 6
- Luật Sư Chuyên Ly Hôn Tại Bình Thạnh, Gò Vấp
- Luật Sư Hình Sự Tại Biên Hòa
- Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Tại Quận 10, Quận 11
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Cố Phần Vốn Góp
- Luật Sư Bảo Vệ Bào Chữa Tại Trung Tâm Trọng Tài
- luật sư giỏi uy tín tại tphcm
- Luật Sư tại Quận Tân Phú
- Luật Sư Quận tại Phú Nhuận
- Luật Sư tại Quận Gò Vấp
- Dịch Vụ Hợp Thức Hóa Nhà Đất
- Luật Sư Tư Vấn Thừa Kế Nhà Đất Cho Việt Kiều
- Luật Sư Tư Vấn Cho Công Ty
- Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Tại Bình Chánh
- Luật Sư Chuyên Khởi Kiện Án Hành Chính
- Luật Sư Tư Vấn Lấn Chiếm Đất
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Nhà Đất
- Tư Vấn Cấp Sổ Đỏ, Sổ Hồng
- Luật Sư Tư Vấn Phân Chia Thừa Kế
- Luật Sư Tư Vấn Cho Công Ty Bất Động Sản
- Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Đất Đai Tại Bình Chánh
- Luật Sư Bào Chữa Hình Sự
- Luật Sư Tư Vấn Ngoài Giờ
- Tranh Chấp Thừa Kế Có Yếu Tố Nước Ngoài
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Đòi Lại Tài Sản
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Đứng Tên Dùm Nhà Đất
- Luật sư chuyên tư vấn doanh nghiệp
- luật sư chuyên thuận tình ly hôn cho việt kiều, người nước ngoài
- Luật sư tư vấn đơn phương ly hôn với việt kiều
- Tư vấn ly hôn chia tài sản với việt kiều
- Luật sư tư vấn kháng cáo
- Luật sư chuyên về tranh chấp đất đai tại tphcm
- Luật sư cho ca sĩ, diễn viên
- Tư vấn thay đổi trụ sở, giấy phép công ty
- Luật sư tư vấn tranh chấp nhà thuộc sở hữu chung
- Luật sư tư vấn lập di chúc
- Luật sư giỏi về hình sự tại thành phố hồ chí minh
- Luật sư giỏi về nhà đất tại tphcm
- Luật sư giỏi di chúc thừa kế tại tphcm
- Luật sư chuyên tranh chấp nhà chung cư
- Luật sư giỏi về hình sự tại sài gòn
- Luật sư chuyên tranh chấp hợp đồng góp vốn
- Luật sư chuyên thừa kế di chúc
- Luật sư chuyên tranh chấp vay tiền
- Luật sư tư vấn luật đất đai
- Kê khai thừa kế
- tư vấn công chứng mua bán nhà đất
- luật sư tư vấn thành lập công ty
- luật sư chuyên tư vấn ly hôn chia tài sản
- dịch vụ luật sư di sản thừa kế
- Dịch vụ luật sư nhà đất tại TPHCM
- luật sư tại quận 1
- luật sư tại quận 2
- luật sư tại quận 3
- luật sư tại quận 4
- luật sư tại quận 5
- Luật Sư Tại Quận 6
- luật sư tại quận 7
- luật sư tại quận 8
- luật sư tư vấn, bào chữa tội chống người thi hành công vụ
- Luật sư tại quận 10
- Luật sư tại quận 11
- luật sư tại quận 12
- Luật sư tại quận bình thạnh
- Luật sư tại huyện bình chánh
- Luật sư huyện Nhà Bè
- luật sư huyện hóc môn
- Văn phòng Luật sư Nhà Đất
- Luật sư huyện Cần Giờ
- Văn phòng luật sư tại TPHCM
- Luật Sư Tại Sài Gòn
- luật sư việt nam
- Luật sư Uy Tín
- Luật sư Công Ty
- luật sư tư vấn ly hôn tại thủ đức
- Luật sư chuyên tranh chấp thừa kế
- luật sư bào chữa tại tòa án
- luật sư tại quận bình tân
- Dịch thuật công chứng tại tphcm
- luật sư giỏi và uy tín
- luật sư tư vấn tại nhà
- luật sư tư vấn hợp đồng mua bán nhà đất
- mẫu hợp đồng mua bán nhà
- mẫu hợp đồng đặt cọc mua bán nhà
- luật sư chuyên hình sự
- luật sư tư vấn thu hồi nợ
- luật sư chuyên nhà đất
- luật sư chuyên về khiếu nại, khởi kiện
- luật sư giỏi về nhà đất
- luật sư chuyên hợp đồng kinh tế
- luật sư tư vấn hợp đồng mua bán hàng hóa
- luật sư tư vấn tại bình dương
- luật sư tại biên hòa đồng nai
- Văn phòng luật sư tư vấn ly hôn
- Luật Sư tư vấn tại Long An
- Luật sư tư vấn tại cần thơ
- Văn Phòng Luật Sư Chuyên Thừa Kế
- Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn
- Luật Sư Làm Chứng
- Tư Vấn Công Chứng Nhà Đất
- Luật Sư Tư Vấn Cho Người Nước Ngoài
- Luật Sư Riêng Cho Công Ty
- Luật Sư Tư Vấn Thừa Kế Nhà Đất
- Luật Sư Tư Vấn Về Thuế Kế Toán
- Tư Vấn Công Chứng Tại Nhà
- Luật Sư Thừa Kế Tại Tphcm
- Tư Vấn Luật Cho Việt Kiều Mỹ
- Luật Sư Tư Vấn Cho Việt Kiều Mua Nhà Tại Việt Nam
- Luật Sư Tại Thành Phố Hồ Chí Minh
- Luật Sư Tư Vấn Luật Lao Động
- Luật Sư Riêng Cho Các Công Ty Tại Sài Gòn
- Luật Sư Quận Tân Bình
- Luật Sư Cho Doanh Nghiệp
- luật sư riêng cho các công ty
- luật sư tư vấn thừa kế nhà đất cho việt kiều
- luật sư riêng cho công ty nước ngoài tại việt nam
- Đoàn luật sư tphcm - VPLS Gia Đình
- Tư vấn chia tài sản khi ly hôn
- luật sư tư vấn tranh chấp tại toà án
- Luật sư tư vấn ly hôn có yếu tố nước ngoài
- luật sư bào chữa tại tòa án tphcm
- luật sư tại quận 1
- tin tức nóng
- luật sư tại quận 3
- Luật sư tư vấn bảo hiểm nhân thọ
- luật sư tại quận 5
- luật sư bào chữa tư vấn tội cưỡng đoạt tài sản
- luật sư tại quận 7
- luật sư tại quận 8
- Luật sư chuyên tranh chấp nhà đất quận 9, quận 2
- luật sư tại quận 10
- luật sư tư vấn bào chữa tội tham ô
- Thuê luật sư bào chữa hình sự
- luật sư nhà đất thừa kế tại quận tân bình
- luật sư thừa kế tại huyện bình chánh
- luật sư chuyên thừa kế nhà đất tại quận bình tân
- luật sư bào chữa tội làm con dấu, tài liệu, hồ sơ giả
- luật sư chuyên thừa kế tại quận phú nhuận
- luật sư bào chữa tư vấn tội cố ý gây thương tích
- Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng xây dựng
- Luật Sư Chuyên Về Di Chúc
- luật sư giỏi về nhà đất tại quận bình thạnh
- Tư vấn du học xin visa
- Luật sư tranh chấp nhà đất
- Luật sư tư vấn di chúc
- Luật sư thừa kế nhà đất tại gò vấp
- luật sư tranh tụng tại tòa án
- luật sư tư vấn hợp đồng đặt cọc mua bán nhà đất
- luật sư chuyên tư vấn hợp đồng thuê nhà
- Văn Phòng Luật Sư Chuyên Hình Sự Tại Tphcm
- Luật sư chuyên tranh chấp hợp đồng
- Luật sư tranh chấp bất động sản
- Văn phòng luật sư doanh nghiệp
- Luật Sư Bào Chữa Tại TPHCM
- Luật sư tư vấn hợp đồng vay tiền
- Thủ tục tuyên bố 1 người tâm thần
- Luật sư tư vấn tranh chấp công ty
- luật sư tư vấn thu hồi nợ
- luật sư tư vấn thuận tình ly hôn
- luật sư tư vấn đơn phương ly hôn
- Luật sư tư vấn tranh chấp đất đai
- Dịch vụ luật sư làm sổ hồng sổ đỏ
- Luật Sư Tố Tụng
- Dịch Vụ Luật Sư Ly Hôn Nhanh
- Luật sư tư vấn ly hôn tại quận 5, quận 11
- Luật Sư Tư Vấn Nghĩa Vụ Cấp Dưỡng
- luật sư tư vấn thừa kế theo di chúc
- Luật sư tư vấn phân chia thừa kế quận 6, quận 11, quận 10, quận 5
- Luật sư thừa kế tại quận 1, quận 2, quận 3, quận 4, quận 7
- Luật sư tư vấn phân chia thừa kế tại quận 8, quận 9, quận 12
- Luật sư phân chia thừa kế tại bình chánh, Tân Phú, Bình Thạnh, nhà bè
- Luật Sư Cho Doanh Nghiệp
- Luật Sư Chuyên Tư Vấn Thừa Kế Tại Quận 5
- Tổng đài tư vấn pháp luật hình sự, ly hôn, thừa kế, nhà đất, doanh nghiệp
- Luật sư tư vấn bào chữa tội cá độ, đánh bạc, đá gà
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Mua Bán Nhà
- Tư Vấn Công Chứng Thừa Kế
- Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Kinh Doanh
- Luật Sư Tư Vấn Soạn Thảo Hợp Đồng
- Thừa Kế Nước Ngoài
- Luật Sư Tư Vấn Đòi Lại Nhà Đất
- Dịch Vụ Luật Sư Thu Hồi Nợ Khó Đòi
- Luật sư tư vấn tranh chấp cổ đông công ty
- Khởi Kiện Bồi Thường Danh Dự Nhân Phẩm
- Luật Sư Tranh Chấp Thừa Kế Nhà Đất
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Nhà
- Luật Sư Chuyên Tư Vấn Khởi Kiện
- Luật Sư Hôn Nhân Gia Đình
- Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng Góp Vốn
- Tranh Chấp Tài Sản Chung Của Vợ Chồng
- Luật Sư Giỏi Uy Tín Tại Việt Nam
- Luật Sư Tại Sài Gòn Việt Nam Tư Vấn Cho Việt Kiều
- Giải Quyết Tranh Chấp Bằng Trọng Tài
- Dịch Vụ Thành Lập Công Ty Trọn Gói Tại Tphcm
- Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Doanh Nghiệp
- Tổng Đài Tư Vấn Pháp Luật
- Luật Sư Tư Vấn Mua Nhà Đang Thế Chấp Ngân Hàng
- Quyền Thừa Kế Nhà Đất Người Việt Nam Định Cư Ở Nước Ngoài
- Luật Sư Tư Vấn Tặng Cho Nhà Đất
- Luật Sư Tư Vấn Đứng Tên Dùm Nhà Đất Căn hộ Chung Cư
- Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Cho Việt Kiều
- Luật Sư Tư Vấn Mua Bán Căn hộ
- Luật sư tư vấn Thỏa Thuận Tài Sản Của Vợ Chồng
- Tư Vấn Pháp Luật Thừa Kế
- Luật Sư Tư Vấn Trọn Gói Cho Doanh Nghiệp
- Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Tại Bình Thạnh, Bình Tân, Quận 6, Gò Vấp
- Luật Sư Sài Gòn Chuyên Bào Chữa Ở Miền Tây
- Dịch Vụ Luật Sư Đòi Nợ
- Luật Sư Tư Vấn Mua Đất Nền
- Luật Sư Tư Vấn Đơn Phương Ly Hôn Tại Quận 6
- Luật Sư Giải Quyết Tranh Chấp Tài Sản Với Người Nước Ngoài
- Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Đất
- Tư vấn Thành Lập Chi Nhánh Văn Phòng Đại Diện
- Luật Sư Tư Vấn Công Ty Cổ Phần
- Luật Sư Chuyên Tư Vấn Khai Di Sản Thừa Kế
- Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Thừa Kế Nhà Đất Tại Biên Hòa
- Tranh Chấp Hợp Đồng Thuê Nhà
- Điều Kiện Việt Kiều Mua Nhà Sài Gòn
- Tư Vấn Bồi Thường Khi Bị Thu Hồi Đất
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Nội Bộ Doanh Nghiệp
- Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Mua Bán Căn Hộ Chung Cư
- Luật sư trên truyền hình và báo chí
- Luật sư tư vấn đăng ký nhãn hiệu logo độc quyền
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Lao Động
- Luật Sư Tư Tranh Chấp Mua Bán Đất Nền
- Luật Sư Tại Chợ Lớn
- Luật Sư Tư Vấn Về Án Phí
- Tư Vấn Khởi Kiện Tranh Chấp Đất Đai
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Hợp Đồng Đặt Cọc
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Ranh Giới Đất
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Lối Đi Chung
- Luật sư tư vấn giữ quốc tịch cho việt kiều
- Luật sư tư vấn xác nhận nguồn gốc việt nam
- Luật sư tư vấn thủ tục ly hôn cho việt kiều
- Luật sư tư vấn thủ tục ly hôn tại sài gòn việt nam
- Luật sư tư vấn kiện đòi nhà cho việt kiều
- Dịch vụ luật sư nhà đất dành cho việt kiều
- Luật sư tư vấn thủ tục ly hôn tại việt nam
- Luật sư chuyên bào chữa cho bị can bị cáo
- Luật sư tư vấn đơn phương ly hôn và thuận tình ly hôn
- Cần Tìm Thuê Luật Sư Giỏi Tại Tphcm
- Luật sư tư vấn ly hôn nhanh tại bình tân, quận 6
- Luật sư tư vấn luật thừa kế tại tphcm
- Làm sao để dành được quyền nuôi con khi ly hôn
- Luật sư tư vấn lập vi bằng
- Luật sư tư vấn tố cáo vi phạm hình sự
- Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng do bất khả kháng
- Luật sư tư vấn ly hôn đơn phương
- luật sư chuyên tư vấn đòi nợ
- Luật sư chuyên tranh tụng hình sự
- Luật sư tư vấn tranh chấp giáp ranh nhà đất
- Luật sư tư vấn kiện hủy giấy chứng nhận sổ hồng sổ đỏ
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa cho người bị hiếp dâm trẻ em
- Luật sư chuyên tư vấn luật đất đai nhà ở
- Luật sư tư vấn thời hiệu khởi kiện thừa kế
- Luật sư tư vấn bào chữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- Luật sư chuyên bào chữa hình sự tại tphcm
- Luật sư chuyên về kinh tế
- Luật sư chuyên tư vấn khởi kiện vụ án hành chính quyết định hành chính
- Luật sư chuyên tư vấn kiện đòi đất
- Luật sư giỏi chuyên về tranh chấp hợp đồng kinh tế thương mại kinh doanh
- Luật sư tư vấn nhà đất
- Luật sư tư vấn làm mới và gia hạn visa - Renew and extend visa
- Luật sư tư vấn làm thẻ tạm trú – Renew/extend temporary residence
- Luật sư tư vấn giấy phép lao động cho người nước ngoài/Working permit
- Luật sư tư vân kết hôn với người nước ngoài
- Luật sư chuyên bào chữa tội mua bán vận chuyển tàng trữ ma túy
- Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng thuê nhà hàng, khách sạn, mặt bằng
- Luật sư tư vấn tranh chấp ranh đất
- Luật sư tư vấn luật hình sự
- Luật sư tư vấn tại ngoại, bảo lãnh
- Luật sư tư vấn qua điện thoại, online, trực tuyến
- Luật sư tư vấn thừa kế do chết vì covid
- Luật sư tư vấn hợp đồng nhà xưởng, văn phòng
- Lawyer at Ho Chi Minh City, Viet nam
- divorce lawyer at Ho Chi Minh City
- Luật sư tư vấn thừa kế sổ tiết kiệm, tài sản
- Luật sư tư vấn thừa kế cổ đông cổ phần vốn góp cổ phiếu trong công ty
- Luật sư tư vấn thừa phát lại
- Văn phòng luật sư tại quận 1
- Luật sư tư vấn ly hôn với người nước ngoài
- Luật sư tư vấn tố cáo, khiếu nại
- Luật sư tư vấn thừa kế nhà đất tại bình thạnh
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội phạm công nghệ cao, mạng internet, facebook
- Luật sư chuyên tư vấn mua bán đất dự án
- Luật sư chuyên tư vấn mua bán nhà đất bằng tay
- Luật sư chuyên bào chữa tội tham ô, hối lộ, lợi dụng chức vụ
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội buôn lậu
- Luật sư tư vấn bào chữa tội trốn thuế
- Luật sư giỏi tại tphcm
- Luật sư công giáo
- Luật sư tư vấn làm đơn giám đốc thẩm
- Luật sư giỏi chuyên đòi nhà đất
- Luật sư chuyên tư vấn thi hành án
- Luật sư tư vấn đòi lại tiền mua đất nền dự án
- Luật sư chuyên tư vấn kiện đòi giấy chứng nhận, sổ đỏ, sổ hồng
- Thế nào là tội cho vay nặng lãi
- Luật sư giỏi chuyên bào chữa án ma túy
- Tư vấn về hành vi ngoại tình vợ chồng
- Luật sư tư vấn bào chữa về tai nạn giao thông
- Luật sư tư vấn bào chữa về tội mua bán hàng cấm
- Luật sư tư vấn tranh chấp tín dụng ngân hàng
- Luật sư tư vấn hợp đồng hợp tác kinh doanh
- Luật sư tư vấn kiện thẩm mỹ viện
- Luật sư chuyên tư vấn mua bán doanh nghiệp
- Luật sư tư vấn bào chữa tội mua bán ma túy
- Luật sư tư vấn hộ kinh doanh cá thể
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa về tiền bitcoin
- Luật sư chuyên tư vấn ủy quyền
- Các án lệ
- Luật sư chuyên tư vấn đầu tư nước ngoài
- Luật sư giỏi chuyên bào chữa án kinh tế
- Luật sư tư vấn bào chữa khi bị bắt
- Luật sư giỏi chuyên tư vấn bào chữa tại đà nẵng
- Tư vấn đòi nhà đất đứng tên dùm
- Luật sư giỏi tại long thành đồng nai
- Luật sư chuyên giải quyết các loại tranh chấp
- Làm sao để được án treo?
- Luật sư tư vấn đòi nợ cho công ty
- luật sư tư vấn hoàn công, giấy phép xây dựng
- Luật sư tư vấn bào chữa tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
- Luật sư nhận ủy quyền đại diện
- Tư vấn bào chữa để được án treo tại ngoại
- Luật sư tư vấn kiện thừa kế cho việt kiều
- Luật sư chuyên bào chữa tội phạm kinh tế
- Luật sư tư vấn ủy quyền cho việt kiều bên nước ngoài
- Có cần mời luật khi bị bắt không?
- Luật sư giỏi chuyên bào chữa tội lừa đảo
- Luật sư giỏi chuyên tư vấn luật giao thông?
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội buôn bán thuốc lá
- Luật sư tư vấn hình phạt tử hình
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội mua bán hàng giả hàng nhái
- Luật sư giỏi chuyên về án dân sự tại tphcm
- Luật sư chuyên tư vấn lừa đảo qua mạng
- Luật sư chuyên tư vấn luật lao động cho công ty
- Luật sư tư vấn bào chữa tội mua bán hóa đơn trái phép
- Luật sư tư vấn bào chữa làm sao để được giảm án?
- Luật sư chuyên tư vấn tranh chấp mua bán hàng hóa
- Luật sư tư vấn bào chữa cho người nước ngoài
- Luật sư tư vấn bào chữa tội mua bán pháo lậu
- Luật sư tư vấn đòi tiền nhà cho thuê
- Luật sư chuyên tư vấn khởi kiện tranh chấp nhà đất cho việt kiều
- Luật sư chuyên về dân sự tại thành phố hồ chí minh
- Luật sư tư vấn bào chữa tội lợi dụng quyền tự do dân chủ
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa đánh bài bạc online trên mạng
- VIDEO LS TRẦN MINH HÙNG TƯ VẤN LUẬT TRÊN TRUYỀN HÌNH
- Luật Sư tư vấn bào chữa tội giết người
- Luật Sư Thừa kế
- Luật Sư Riêng Cho Gia Đình Và Doanh Nghiệp
- Báo Chí Và Chúng Tôi
- Luật Sư Doanh Nghiệp
- Luật Sư Nhà Đất
- Luật Sư Di Trú
- Luật sư Dân sự
- Luật Sư Hình Sự
- Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn
- Luật Sư Tranh Tụng
- Luật sư tư vấn luật lao động
- Văn phòng luật sư tư vấn cho việt kiều
- Luật sư Chuyên Kinh Tế
- Luật Sư Giỏi Về Hình Sự
- Luật Sư Tư Vấn Thừa Kế Nhà Đất
- Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Doanh Nghiệp
- Luật Sư Thi Hành Án
- Luật Sư Tư Vấn Miễn Phí
- Dịch Thuật Công Chứng
- Luật Sư Riêng Cho Công Ty Nước Ngoài
- Luật Sư Tư Vấn
- Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng
- Luật Sư Công Nợ
- Luật Sư Chuyên Tranh Tụng Tại Tphcm
- Luật Sư bào chữa tư vấn tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
- Luật Sư Kinh Nghiệm
|
|
Luật Sư Bào Chữa Tư Vấn Tội Giết Con Mới Đẻ |
Tội giết con mới đẻ là trường hợp phạm tội của người
mẹ do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc
biệt mà giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ đứa trẻ đó dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết. Hình
phạt cao nhất chỉ có hai năm tù, chưa kể hậu quả pháp lý về xã hội đối với người
phạm tội rất nặng nề.
Ngoài người mẹ của nạn nhân ra, không ai có thể là chủ thể của tội phạm này.
Nhưng ngay cả là mẹ của nạn nhân cũng chỉ coi là chủ thể của tội này khi người
mẹ vì ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc
biệt mà buộc phải giết hoặc vứt bỏ đứa con do mình mới đẻ ra. Nếu vì lý do khác
mà giết hoặc vứt bỏ con do mình mới đẻ ra thì không thuộc trường hợp phạm tội
này.
Ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu là ảnh hưởng của tư tưởng cũ đã lỗi thời,
không còn phù hợp với quan niệm về cuộc sống, lối sống hiện tại. Hay nói một
cách khác, nó không còn phù hợp với ý thức xã hội đương thời. ra.
Thông thường, những đứa trẻ bị người mẹ giết hoặc vứt bỏ lúc mới đẻ là con
ngoài giá thú. Tuy nhiên, cũng có trường hợp do tập quán lạc hậu của một vài địa
phương ở miền núi cho rằng đứa con đầu lòng không phải là con chung của vợ chồng
nên sau khi đứa trẻ ra đời, người mẹ đã bóp chết con mình. Cá biết, có những
nơi do tư tưởng phân biệt con trai và con gái nên đã có trường hợp người mẹ đã
đẻ đến lần thứ 7 vẫn là con gái nên sau khi đứa trẻ ra đời đã bóp chết.
Trường hợp đứa trẻ bị người mẹ giết hoặc vứt bỏ dẫn tới bị chết trong hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn là trường hợp sau khi sinh con, người mẹ không có khả năng để
nuôi con mình, như: bị mất sữa lại bị bệnh nặng hoặc trong hoàn cảnh khách quan
ngặt nghèo khác.
Pháp luật quy định đứa trẻ sinh ra được bao nhiều ngày thì gọi là mới đẻ. Thực
tiễn xét xử ở nước ta coi đứa trẻ mới đẻ bị người mẹ giết hoặc vứt bỏ là đứa trẻ
sau khi ra đời dài nhất là 7 ngày. Kể từ ngày thứ 8 trở đi, nếu người mẹ giết
con mình thì không được coi là giết con mới đẻ nữa.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây do kinh tế - xã hội phát triển, các phương
tiện thông tin đại chúng đã tuyên truyền chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật
của Nhà nước đến tận làng xa xôi hẻo lánh. Trình độ dân trí ngày càng được nâng
cao, các vụ giết trẻ sơ sinh hoặc vứt bỏ con mới đẻ đã hầu như không xảy ra.
Đứa trẻ mới đẻ bị giết hoặc bị vứt bỏ phải bị chết thì người mẹ mới bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội giết con mới đẻ, nếu người mẹ có hành vi trước đoạt
tính mạng đứa trẻ hoặc có hành vi vứt con mới đẻ, nhưng đứa trẻ không bị chết
thì chưa cấu thành tội giết con mới đẻ và như vậy tội giết con mới đẻ không có
trường hợp phạm tội chưa đạt.
Mặc dù tôi lên án hành động của người mẹ này nhưng về pháp lý thì do đứa con
chưa chết nên người mẹ chưa đủ yếu tố cấu thành tội giết con mới đẻ.
|
Bào Chữa Tội Lạm Dụng Tín Nhiệm Chiếm Đoạt tài Sản |
ĐOÀN LUẬT
SƯ TP.HCM
VĂN PHÒNG
LUẬT SƯ GIA ĐÌNH
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập
– Tự Do – Hạnh Phúc
Trụ sở chính:
402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Quận 6
Chi nhánh: 5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai
Điện thoại: 08.38779958; Fax: 08.38779958
Trưởng văn phòng: LS Trần Minh Hùng
Email: luatsuthanhpho@gmail.com
|
BÀI BÀO CHỮA CHO BỊ CÁO NGUYỄN HOÀNG THU NGUYỆT BỊ VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN TP VŨNG TÀU TRUY TỐ VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN.
Tôi luật sư: Trần Minh Hùng, Trưởng Văn phòng Luật sư Gia
Đình, Thành viên Đoàn Luật sư TP.HCM, Thuộc Liên đoàn Luật Sư Việt Nam.
Qua tranh luận, hỏi tại
phiên tòa, qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, quá các buổi hỏi cung và làm việc với bị
cáo Nguyệt kể cả giai đoạn điều tra, qua lời trình bày của bị cáo, nguyên đơn
dân sự, người liên quan tại phiên tòa, qua nghiên cứu tổng hợp, khách quan, mối
quan hệ nhân quả về vụ án… Tôi đưa ra các ý kiến bào chữa cho thân chủ tôi dựa
trên các quy định pháp luật kể cả luật chuyên ngành kế toán, các chứng cứ và sự
khách quan, công tâm…kính mong Hội đồng xét xử xem xét, lắng nghe, thiện chí tiếp
thu các quan điểm của tôi như sau:
Về tố tụng:
-
Đối với luật sư:
Tại giai đoạn điều tra Cơ
quan điều tra đã mời tôi tham dự hỏi cung, nhưng không cho tôi trao đổi riêng với
bị cáo Nguyệt. Khi tham dự hỏi cung tôi cũng ngỏ ý được hỏi Nguyệt nhưng không
được chấp nhận.
Sau khi có kết luận điều
tra tôi không được thông báo nhận kết luận điều tra,cơ quan điều tra không gửi
kết luận điều tra cho tôi.
Sau khi chuyển hồ sơ quan
Viện Kiểm sát thì Cơ quan điều tra cũng không thông báo cho tôi biết.
Sau khi hồ sơ được chuyển
qua Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát cũng không thông báo cho tôi, sau khi Viện
kiểm sát ban hành cáo trạng cũng không thông báo và gửi cho tôi mặc dù tôi đã
làm văn bản yêu cầu thông báo các giai đoạn tố tụng cho tôi, gửi các quyết định/cáo
trạng tố tụng cho tôi hoặc thông báo cho tôi nhưng Viện kiểm sát cũng không
thông báo và gửi cho tôi.
Như vậy cơ quan tố tụng cụ
thể là cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân TP. Vũng Tàu đã hạn chế quyền
bào chữa của tôi theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành, theo luật
luật sư và các văn bản liên quan. Điều này làm ảnh hưởng đến quá trình nghiên cứu
hồ sơ của tôi và ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo Nguyệt mà
pháp luật bảo vệ.
Kính mong Hội đồng xét xử
xem xét các hành vi tố tụng này, vì điều này ảnh hưởng đến cả cho tôi và cả quyền
lợi cho cả bị cáo Nguyệt.
Đối với bị cáo:
Cơ quan điều tra tiến
hành bắt tạm giam Nguyệt khi Nguyệt khi chưa có bản án có hiệu lực kết tội Nguyệt
khi Nguyệt là lao động chính nuôi mẹ già đã về hưu, nuôi 02 con nhỏ (1 cháu
sinh năm 2009, 1 cháu sinh năm 2012), chồng đã ly hôn và Nguyệt trực tiếp nuôi
02 cháu, chồng không cấp dưỡng nuôi con, có công việc ổn định, có nơi thường
trú rõ ràng từ nhỏ đến khi bị bắt, ở với gia đình, không có dấu hiệu bỏ trốn,
chưa có tiền án tiền sự, nhân thân tốt, gia đình có công với cách mạng, Nguyệt
có thành tích trong chiến đấu, sản xuất, sinh hoạt, luôn có mặt lấy lời khai
khi cơ quan điều tra mời (bằng chứng trước đó đã có rất nhiều lời khai của bị
cáo Nguyệt). Đây chỉ là tội phạm liên quan đến quyền sở hữu không phải liên
quan đến giết người hay các tội phạm nguy hiểm khác và Nguyệt là phụ nữ- một đối
tượng được pháp luật ưu tiên và bảo vệ riêng biệt do đặc tính và chức năng của
người phụ nữ luôn được nhà nước ta thể hiện tính nhân văn và nhân đạo với người
phụ nữ. Nhưng thật ngạc nhiên Nguyệt vẫn bị Cơ quan điều tra Công an TP Vũng
Tàu bắt công khai tại quán cà phê làm cho gia đình Nguyệt chao đảo và bi đát
trong khi Nguyệt mang tiền sử bệnh sưng ống cổ tay và nghi ung thư tử cung đang
điều trị (có giấy bệnh viện Từ Dũ), khi đang hỏi cung là phụ nữ Nguyệt kêu mệt
thì cơ quan điều tra ép Nguyệt phải làm việc và đưa cả ý sĩ khám ngay…gây uất ức
cho Nguyệt. Hai con thơ của Nguyệt lâm cảnh không cha, không mẹ, mẹ già không
ai nương tựa, số tiền 200 triệu Công ty nói không phải là vấn đề tiền…. Điều đó
cho thấy sự thiếu nhân văn và không vận dụng các quy định nhân đạo, nhân văn của
pháp luật nhà nước ta đối với phụ nữ mà Cơ qua tố tụng tại đây đã thẳng tay bắt
còng 1 người phụ nữ giữa ban mặt ban ngày khi không cần thiết như vậy. Sau đó
gia đình đã làm đơn xin tại ngoại theo quy định nhưng cơ quan tố tụng vẫn không
giải quyết cho bị cáo dù bị cáo đủ các tình tiết để được tại ngoại.
Chính trong quá trình hỏi
cung cơ quan điều tra đã một số lần đưa Nguyệt với tư cách là bị đơn dân sự. Đề
nghị HĐXX xem xét tư cách này là giao dịch dân sự hay hình sự vì chính cơ quan
điều tra cũng đã xác định Nguyệt là bị đơn dân sự.
Đây là những vấn đề mà cơ
quan tố tụng và Hội đồng xét xử cần cân nhắc xem xét để áp dụng đối với bị cáo
Nguyệt mà pháp luật đã quy định để sau phiên tòa này HĐXX cần có quyết định có
lợi cho Nguyệt khi quyết định.
Về người làm chứng:
Cơ quan cảnh sát điều tra
TP. Vũng Tàu mời những người đã nghỉ việc, cộng tác viên thậm chí là nhân viên
của Công ty TNHH Kiến Trúc VT để làm
chứng chữ viết của Nguyệt, làm chứng Nguyệt là Kế toán trưởng….là chưa bảo đảm
về tính khách quan theo quy định về người làm chứng trong tố tụng hình sự. Vì
tất cả họ đều làm cho Công ty Kiến Trúc VT thì họ bị lệ thuộc và phải khai sao
có lợi cho công ty và bất lợi cho Nguyệt. Trong khi ông Trà Mùa thì lại mời với
tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Điều này là chưa bảo đảm về mặt khách quan khi xem xét các lời
khai của người làm chứng. Đề nghị HĐXX làm rõ về liệu những người ngày tham gia
vụ án với tư cách làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã đúng về
mặt tư cách tố tụng chưa? Đã khách quan chưa và có mời họ tham gia phiên tòa
hôm nay hay không? Có thông báo cho họ về việc mở phiên tòa này hay không? Vì
không phải và chưa chắc lời khai của họ tại cơ quan điều tra là chính xác và
đáng tin tưởng.
Về nội dung:
Yếu tố cấu thành tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản:
Theo quy
định tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là vay, mượn, thuê tài sản của
người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi
dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản tài sản đó, hoặc sử dụng
tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
Tại Điều 175 và đặc điểm của tội lạm dụng chiếm
đoạt tài sản, nên hành vi khách quan của tội phạm này có những điểm: Vay, mượn,
thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình
thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời
hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận
được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản
đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
Như vậy cần lưu ý, việc chuyển giao tài sản từ
người bị hại sang người phạm tội xuất phát từ một hợp đồng hợp pháp như vay,
mượn, thuê tài sản.
Phải
dung tài sản chiếm đoạt được vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả
năng trả lại tài sản thì mới cấu thành tội này.
Căn cứ
hành vi phạm tội trên thì Nguyệt chưa đủ yếu tố cấu thành tội này vì Nguyệt
không làm hợp đồng thuê, mượn, vay tài sản hay nhận tài sản của người khác bằng
hợp đồng rồi dung thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản.
Việc Kết
quả giám định chỉ giám định dựa trên phỏng đoán chữ viết trong liên 2 giấy nộp
tiền ngày 15/3/2015 có nét giống với 1 số chứ viết khác của Nguyệt chứ không khẳng
định đó là chữ viết của Nguyệt. Hơn nữa giấy nộp tiền liên 2 này là giấy than
nên theo nguyên tắc không thể giám định được. Cho nên cả Phòng kỹ thuật hình sự
công an tỉnh bà rịa vũng tàu và đặc biệt Phân viện khoa học hình sự tại TPHCM đều
khẳng định giấy than nên không giám định được chữ “ba” trước chữ “một” trong giấy
nộp tiền liên 2 này. Không giám định được có số 3 đè lên số 1 hay không mà chỉ
kết luận là nguyên thủy là số 1. Cả 2 kết luận giám định của 02 cơ quan này đều
không khẳng định chữ “ba” là do Nguyệt viết thêm mà chỉ kết luận là có dấu hiệu
viết thêm chứ không kết luận Nguyệt Viết. Như vậy không thể giám định được ai
đã thêm chữ “ba” và số “3” đè lên số “1”.
Đồng thời
theo sổ chi cá nhân năm 2016-2017 mà ông Nam cung cấp cho cơ quan điều tra thì
đây là một sổ tập A4 cá nhân giữa ông Nam và cô Nguyệt và 1 số cá nhân khác
(chính ông Nam cũng thừa nhận điều này). Đây không phải là sổ sách chi theo quy
định Luật kế toán 2003, theo quy định của Thông tư 200/2014TT-BTC của Bộ tài
chính theo mẫu đúng quy định. Trong đơn tố cáo, các bản tự khai và biên bản đối
chất ông Nam thừa nhận chuyện sửa chứng từ hai bên đã tự thương lượng với nhau,
không lập biên bản, không cho ai biết. Hơn nữa, trong kết luận điều tra, cáo trạng
đều ghi nhận và thừa nhận ông Nam đã tự thương lượng cho Nguyệt trả dần…nên đây
là cá nhân giữa ông Nam và Nguyệt chứ không phải Nguyệt chiếm đoạt 200 triệu của
pháp nhân là Công ty Kiến trúc VT. Cho nên nếu có phát trinh tranh chấp 200 triệu
này thì bản chất đây là 1 giao dịch dân sự giữa ông Nam và bà Nguyệt, không thể
hình sự hóa quan hệ dân sự này.
Theo Điều 118 của
TT200/2015/TT-BTC ngày 22/12/2014 của Bộ tài chính về hướng dẫn lập chứng từ kế
toán doanh nghiệp quy định về: Lập và ký chứng từ kế toán như sau:
1. Mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát
sinh liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp đều phải lập chứng từ kế
toán. Chứng từ kế toán chỉ lập 1 lần cho một nghiệp vụ kinh tế, tài chính
phát sinh. Nội dung chứng từ kế toán phải đầy đủ các chỉ
tiêu, phải rõ ràng, trung thực với nội dung nghiệp vụ kinh tế, tài
chính phát sinh. Chữ viết trên chứng từ phải rõ ràng, không tẩy xoá, không viết tắt. Số tiền viết bằng
chữ phải khớp, đúng với số tiền viết bằng số.
2. Chứng từ kế toán phải được lập đủ số
liên theo quy định cho mỗi chứng từ. Đối với chứng từ lập nhiều liên
phải được lập một lần cho tất cả các liên theo cùng một nội dung.
Trường hợp đặc biệt phải lập nhiều liên nhưng không thể viết một lần tất cả các
liên chứng từ thì có thể viết hai lần nhưng phải đảm bảo thống nhất nội dung và
tính pháp lý của tất cả các liên chứng từ.(theo khoản 7, khoản 8, điều 4 luật kế toán
2003 quy định:.Chứng từ kế toán là những giấy tờ và vật mang
tin phản ánh nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh và đã hoàn thành, làm căn
cứ ghi sổ kế toán. Tài liệu kế toán là chứng từ kế toán, sổ kế toán, báo cáo
tài chính, báo cáo kế toán quản trị, báo cáo kiểm toán, báo cáo kiểm tra kế
toán và tài liệu khác có liên quan đến kế toán.)
3.
Mọi chứng từ kế toán phải có đủ chữ ký theo chức danh quy định trên chứng từ mới
có giá trị thực hiện. Riêng
chứng từ điện tử phải có chữ ký điện tử theo quy định của pháp luật. Tất cả các
chữ ký trên chứng từ kế toán đều phải ký bằng bút bi hoặc bút mực, không được
ký bằng mực đỏ, bằng bút chì, chữ ký trên chứng từ kế toán dùng để chi tiền phải
ký theo từng liên. Chữ ký trên chứng từ kế toán của một người phải thống nhất
và phải giống với chữ ký đã đăng ký theo quy định, trường hợp không đăng ký chữ
ký thì chữ ký lần sau phải khớp với chữ ký các lần trước đó.
4. Các
doanh nghiệp chưa có chức danh kế toán trưởng thì phải cử người phụ trách kế
toán để giao dịch với khách hàng, ngân hàng, chữ ký kế toán trưởng được thay bằng
chữ ký của người phụ trách kế toán của đơn vị đó. Người phụ trách kế toán phải
thực hiện đúng nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền quy định cho kế toán trưởng.
7. Các doanh nghiệp phải mở sổ đăng ký mẫu
chữ ký của thủ quỹ, thủ kho, các nhân viên kế toán, kế toán trưởng (và người được
uỷ quyền), Tổng Giám đốc (và người được uỷ quyền). Sổ đăng ký mẫu chữ ký phải
đánh số trang, đóng dấu giáp lai do Thủ trưởng đơn vị (hoặc người được uỷ quyền)
quản lý để tiện kiểm tra khi cần. Mỗi người phải ký ba chữ ký mẫu trong sổ đăng
ký.
8. Những cá
nhân có quyền hoặc được uỷ quyền ký chứng từ, không được ký chứng từ kế
toán khi chưa ghi hoặc chưa ghi đủ nội dung chứng từ theo trách nhiệm của người
ký.
Như
vậy, Công ty TNHH Kiến Trúc BR VT đã không thực hiện đúng, đầy đủ các quy định
trên. Tức không có chứng từ kế toán mà cụ thể là Phiếu chi số tiền 315.070.000
đồng và cũng không có kế toán trưởng.
Hơn nữa,
qua tìm hiều tôi được biết giữa ông Nam và bà Nguyệt có mối quan hệ tình cảm
nên đây là xuất phát tình cảm mà hai bên tự giải quyết với nhau vụ tiền bạc không
rõ ràng này. Tương tự như vụ Hoa hậu Phương Nga và CaoToàn Mỹ mà Cơ quan tố tụng
TPHCM đã phải tạm đình chỉ vụ án, và đã cho Phương Nga tại ngoại.
Theo quy định của tội danh này thì mục đích của
người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Mục đích chiếm đoạt tài
sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản. Nhưng trong bản tự khai của Nguyệt, trong bản khai của Nam, và người làm
chứng tên Trần Đình Hải thì trong vụ việc này mục đích của Nguyệt không phải chiếm
đoạt 200 triệu. Nguyệt không thừa nhận điều này. Chính ông Hải thừa nhận có nói
chuyện và nhắn zalo cho Nguyệt là “nếu em không sửa, không lấy tiền thì nếu
người nào sửa thì cũng là người thân của em, em không thương họ sao..”, hay ông
Hải tự khai là “Nguyệt nói là một người khác sửa chứng từ để lấy tiền chữa bệnh
cho bố”…
Từ khi ông Nam bị cho là phát hiện cho rằng
Nguyệt sửa chứng từ chiếm đoạt 200 triệu nhưng ông Nam chưa cung cấp được bất
cứ chứng cứ, tài liệu nào, tin nhắn nào thể hiện ông Nam đòi Nguyệt trả 200
triệu cả. Mà ông Nam chỉ nhắn tin đòi lại hồ sơ, sổ sách. Chính ông Hải cũng
thừa nhận ông Nam không nhắc gì đến chuyện tiền bạc mà chỉ nhắc đến chuyện đòi
lại sổ sách. Điều đó chứng tỏ bên bị hại không bị thiệt hại về số tiền 200
triệu chỉ khi thấy không có căn cứ đòi được hồ sơ, tài liệu nghi cho Nguyệt
chiếm đoạt thì mới tố cáo Nguyệt chiếm đoạt 200 triệu dựa trên các chứng cứ
thiếu thuyết phục.
Không có bất cứ 1 chứng cứ, tài liệu nào thể
hiện Nguyệt chiếm đoạt 200 triệu của Công ty Kiến Trúc VT. Bởi liên 2 giấy nộp
tiền ngày 15/3/2016 thì không giám định được Nguyệt sửa hay không, không kết
luận được.
Còn cuốn sổ cá nhân mà ông Nam và Nguyệt và 1 số
cá nhân khác ghi là giao dịch cá nhân giữa ông Nam và bà Nguyệt nó không liên
quan gì đến công ty Kiến TrúcVT vì cuốn sổ này không tuân thủ theo Luật kế toán
và theo quy định của bộ tài chính.
Công ty không cung cấp hay Không có bất kỳ 1
phiếu chi nào theo quy định của Luật kế toán là Công ty chi cho Nguyệt
315.070.000 đồng (hay phiếu chi 394.200.000 đồng) của công ty Kiến Trúc VT. Vậy
bằng chứng nào buộc tội Nguyệt chiếm đoạt 200 triệu của Công ty này? Đây là
điều hết sức vô lý và thiếu chứng cứ.
Trong suốt quá trình vụ án, và kể cả theo lời
khai ông Nam chưa có bất kỳ 1 bằng chứng, tài liệu nào ông Nam đòi Nguyệt đưa
200 triệu. Điều này phù hợp với lời khai của ông Nam trong suốt hồ sơ vụ án và
cũng như cáo trạng và kết luận điều tra là việc chỉnh sửa chứng từ ông Nam và
Nguyệt đã thương lượng xong. Nếu có tranh chấp chỉ là dân sự. vụ việc kéo dài
từ 15/3/2016 cho đến 30/3/2017 Nguyệt vẫn còn làm báo cáo thuế cho ông Nam,
đóng thuế năm 2015-2016 lúc tháng 8/2016 cho Công ty. Điều đó chứng tỏ sau vụ
việc mà ông Nam cho là phát hiện tháng 7/2016 thì công ty là ông Nam đứng đầu
vẫn giao cho Nguyệt đi đóng tiền BHXH, làm kế toán bình thường. Do vậy nếu cho
rằng Nguyệt chiếm đoạt 200 triệu mà Nam vẫn giao công việc như vậy là vô lý,
không có sức thuyết phục.
Trong vụ án này, cần xác định người bị hại là cá
nhân ông Nam hay Công ty Kiến Trúc VT. Bởi trong suốt quá trình tố tụng ông Nam
không có bất kỳ văn bản như là Quyết định của HĐTV, Biên bản họp HĐTV về việc
đồng ý cho ông Nam tham gia tố tụng từ giai đoạn điều tra. Bởi ông Nam lúc thì
làm việc với tư cách cá nhân, lúc thì làm việc với tư cách công ty và đóng dấu
công ty. Nếu là cá nhân thì không đóng dấu còn nếu là tư cách công ty thì phải
có dấu công ty (trừ khi có ủy quyền) khi hỏi cung, lấy lời khai. Nhưng ông Nam
lại ký và ghi họ tên tư cách cá nhân trong khi làmg việc với cơ quan điều tra.
Lưu ý Công ty Kiến Trúc VT là loại hình công ty TNHH 2 thành viên trở lên nên khi
quyết định các vấn đề đều phải lập Biên bản họp hội đồng thành viên và Quyết
định của Hội đồng thành viên chứ không thể nhân danh cá nhân ông Nam. Trong khi
theo thông tin của Sở kế Hoạch đầu tư tỉnh Bà rịa Vũng Tàu thì công ty này hiện
nay có 2 thành viên nên quyết định gì đều phải có sự đồng ý của thành viên còn
lại và phải có biên bản, quyết định.
Hơn nữa, vụ việc này nếu Nam tố cáo với tư cách
là pháp nhân tức là Công ty Kiến Trúc VT thì tôi đề nghị Công ty cung cấp bằng
chứng, chứng cứ, Phiếu chi (chứng từ kế toán) theo luật kế toán 2003 là bà Nguyệt
chiếm đoạt công ty 200 triệu. Bởi kết luận giám định của Phân viện khoa học
hình sự tại TPHCM đã không kết luận được chứng từ sửa là do Nguyệt sửa trong khi sổ chi 2016-2017 là sổ chi cá
nhân, ông Nam thừa nhận chứ không phải của công ty theo Luật kế toán 2003, Nghị
định số 129/2004/NĐ-CP ngày
31/5/2004 của Chính phủ và Thông tư số 200/2015/TT-BTC ngày 22/12/2014 hướng dẫn
về về chế độ kế toán doanh nghiệp của Bộ tài chính.
Cụ thể Luật kế toán 2003 quy định:
Tại Điều 40 quy định về Bảo quản,
lưu trữ tài liệu kế toán như sau:
2.
Tài liệu kế toán lưu trữ phải là bản chính. Trường hợp tài liệu kế toán bị tạm
giữ, bị tịch thu thì phải có biên bản kèm theo bản sao chụp có xác nhận; nếu bị
mất hoặc bị huỷ hoại thì phải có biên bản kèm theo bản sao chụp hoặc xác nhận.
(Nếu cho rằng Nguyệt chiếm đoạt thì ông Nam –
đại diện pháp luật phải có bản lưu, sao…)
3. Tài liệu kế toán phải đưa vào lưu trữ trong
thời hạn mười hai tháng, kể từ ngày kết thúc kỳ kế toán năm hoặc kết thúc công
việc kế toán. (tài liệu kế toán Công ty TNHH Kiến Trúc Vũng Tàu mới từ năm 2015
nhưng đến nay đã không còn những tài liệu 2015 trở về trước, trách nhiệm này
thuộc về công ty, thuộc về ông Nam như khoản 4, điều luật này quy định).
4.
Người đại diện theo pháp luật của đơn vị kế toán chịu trách nhiệm tổ chức bảo
quản, lưu trữ tài liệu kế toán. (Luật quy định trách nhiệm này thuộc về Người
đại diện pháp luật là ông Nam chứ không phải Nguyệt nên không thể đổ lỗi Nguyệt
chiếm đoạt tài liệu kế toán, phiếu chi 315.070.000 đồng, Liên 2 giấy nộp tiền
ngày 15/3/2016 là không đúng vì công ty cho rằng Nguyệt cầm giữ là sai, vì
trách nhiệm này thuộc về ông Nam lưu, bản gốc liên 2 nộp ngân hàng do ông Nam
lưu, Nguyệt không có thẩm quyền cầm giữ theo quy định này).
5.
Tài liệu kế toán phải được lưu trữ theo thời hạn sau đây:
a)
Tối thiểu năm năm đối với tài liệu kế toán dùng cho quản lý, điều hành của đơn
vị kế toán, gồm cả chứng từ kế toán không sử dụng trực tiếp để ghi sổ kế toán
và lập báo cáo tài chính;
b)
Tối thiểu mười năm đối với chứng từ kế toán sử dụng trực tiếp để ghi sổ kế toán
và lập báo cáo tài chính, sổ kế toán và báo cáo tài chính năm, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác;
c) Lưu trữ vĩnh viễn đối với tài liệu kế toán có
tính sử liệu, có ý nghĩa quan trọng về kinh tế, an ninh, quốc phòng.
6. Chính phủ quy định cụ thể từng loại tài liệu
kế toán phải lưu trữ, thời hạn lưu trữ, thời điểm tính thời hạn lưu trữ quy
định tại khoản 5 Điều này, nơi lưu trữ và thủ tục tiêu huỷ tài liệu kế toán lưu
trữ.
Như vậy, vụ việc này thì
ông Nam nói các tài liệu trước năm 2016 không còn lưu và cho rằng Nguyệt chiếm
đoạt tài liệu kế toán 2015,2016,2017 vậy thì những tài liệu kế toán trở về
trước công ty cũng không có thì sao chứng Minh Nguyệt chiếm đoạt, không chứng
minh được, như vậy mới chỉ có 1 , 2 năm nhưng tài liệu kế toán công ty này
không còn, trách nhiệm và sai phạm này công ty tự chịu và có căn cứ Công ty
không lập số sách kế toán theo quy định Luật kế toán và Bộ tài chính quy định.
Nguyệt không phải là kế toán trưởng theo quy định nên Nguyệt không phải chịu và
cho rằng Nguyệt chiếm các tài liệu trong đó phiếu chi 315.070.000 đồng là không
có căn cứ. Trong khi đó chứng cứ quan trọng nhất theo Luật kế toán là phải có
phiếu chi của Công ty chi cho Nguyệt 315.070.000 đồng thì lại không có. Vậy căn
cứ nào/chứng cứ nào buộc tội Nguyệt chiếm đoạt chiếm đoạt 200 triệu?
Theo quy định Luật kế
toán thì Chứng từ kế toán là những giấy tờ, vật mang tin thể hiện các nghiệp vụ
kinh tế phát sinh đã hoàn thành, làm căn cứ ghi sổ.
2) Các loại chứng từ kế toán
2.1. Liên quan đến Tiền Mặt Chứng từ kế toán được
thể hiện qua: Phiếu Thu/ Phiếu Chi/ Giấy đề nghị Thanh toán/ Giấy đề nghị tạm ứng/…
2.2. Liên quan đến Ngân hàng Chứng từ kế toán được
thể hiện qua: Giấy Báo Nợ/ Báo Có của Ngân hàng; Sec/ Ủy nhiệm chi,..
2.3. Liên quan đến Mua hàng/ Bán hàng Chứng từ kế
toán được thể hiện qua: Hóa đơn GTGT đầu vào/ Hóa đơn GTGT đầu ra/ Tờ khai hải
quan/ Phiếu Nhập Kho/ Phiếu Xuất Kho/ Biên bản bàn giao/ Bảng Báo giá/ Đơn đặt
hàng/ Hợp đồng kinh tế/ Biên Bản Thanh lý Hợp đồng kinh tế.
2.4. Liên
quan đến Tiền Lương Chứng từ kế toán: Bảng chấm công; Bảng tính lương; Bảng
thanh toán tiền lương, Hợp đồng lao động; các Quy chế, quy định,…
2.5. Liên
quan đến Chi phí, Doanh thu Chứng từ kế toán thể hiện qua Phiếu kế toán/…
Ngoài ra theo Điều 11 quy định về Nguyên tắc kế toán tiền ( theo Thông
tư 200/2014/TT-BTC hướng dẫn chế độ kế toán doanh nghiệp)
1. Kế toán phải mở sổ kế
toán ghi chép hàng ngày liên tục theo trình tự phát sinh các khoản thu, chi,
xuất, nhập tiền, ngoại tệ và tính ra số tồn tại quỹ và từng tài khoản ở Ngân
hàng tại mọi thời điểm để tiện cho việc kiểm tra, đối chiếu.
2. Các khoản tiền do doanh
nghiệp khác và cá nhân ký cược, ký quỹ tại doanh nghiệp được quản lý và hạch
toán như tiền của doanh nghiệp.
3. Khi thu, chi phải có phiếu thu, phiếu chi và có đủ chữ
ký theo quy định của chế độ chứng từ kế toán.
Nhưng công ty TNHH KT VT không tuân theo các quy định trên, không lập các
phiếu chi nêu trên.
Điều 12. Tài khoản 111 – Tiền mặt
1. Nguyên tắc kế toán
a) Tài khoản này dùng để
phản ánh tình hình thu, chi, tồn quỹ tại quỹ doanh nghiệp bao gồm: Tiền Việt
Nam, ngoại tệ và vàng tiền tệ. Chỉ phản ánh vào TK 111 “Tiền mặt” số tiền mặt,
ngoại tệ, vàng tiền tệ thực tế nhập, xuất, tồn quỹ. Đối với khoản tiền thu được
chuyển nộp ngay vào Ngân hàng (không qua quỹ tiền mặt của doanh nghiệp) thì
không ghi vào bên Nợ TK 111 “Tiền mặt” mà ghi vào bên Nợ TK 113 “Tiền đang
chuyển”.
b) Các khoản tiền mặt do
doanh nghiệp khác và cá nhân ký cược, ký quỹ tại doanh nghiệp được quản lý và
hạch toán như các loại tài sản bằng tiền của doanh nghiệp.
c) Khi tiến hành nhập, xuất quỹ tiền mặt phải có phiếu
thu, phiếu chi và có đủ chữ ký của người nhận, người giao, người có thẩm quyền
cho phép nhập, xuất quỹ theo quy định của chế độ chứng từ kế toán. Một số
trường hợp đặc biệt phải có lệnh nhập quỹ, xuất quỹ đính kèm.
d) Kế toán quỹ tiền mặt
phải có trách nhiệm mở sổ kế toán quỹ tiền mặt, ghi chép hàng ngày liên tục
theo trình tự phát sinh các khoản thu, chi, xuất, nhập quỹ tiền mặt, ngoại tệ
và tính ra số tồn quỹ tại mọi thời điểm.
đ) Thủ quỹ chịu trách nhiệm quản lý và nhập, xuất quỹ
tiền mặt. Hàng ngày thủ quỹ phải kiểm kê số tồn quỹ tiền mặt thực tế, đối chiếu
số liệu sổ quỹ tiền mặt và sổ kế toán tiền mặt. Nếu có chênh lệch, kế toán và
thủ quỹ phải kiểm tra lại để xác định nguyên nhân và kiến nghị biện pháp xử lý
chênh lệch.
Tại Điều 30 quy định về Tài
liệu kế toán phải lưu trữ tối thiểu 5 năm ( quy định tại Nghị định Số: 129/2004/NĐ-CP ủa
chính phủ quy định về QUY ĐỊNH CHI TIẾT VÀ HƯỚNG DẪN THI HÀNH MỘT SỐ ĐIỀU CỦA
LUẬT KẾ TOÁN ÁP DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH)
Căn cứ Điều
40 của Luật Kế toán, tài liệu kế toán phải lưu trữ tối thiểu 5 năm, gồm:
1.
Tài liệu kế toán dùng cho quản lý, điều hành thường xuyên của đơn vị kế toán,
không sử dụng trực tiếp để ghi sổ kế toán và lập báo cáo tài chính được lưu trữ
tối thiểu 5 năm tính từ khi kết thúc kỳ kế toán năm như phiếu thu, phiếu chi,
phiếu nhập kho, phiếu xuất kho không lưu trong tập tài liệu kế toán của Phòng
Kế toán.
2.
Tài liệu kế toán khác dùng cho quản lý, điều hành và chứng từ kế toán khác
không trực tiếp ghi sổ kế toán và lập báo cáo tài chính.
Điều 31. Tài liệu kế toán
phải lưu trữ tối thiểu 10 năm………….
Căn
cứ Điều 40 của Luật Kế toán, tài liệu kế toán phải lưu trữ tối thiểu 10
năm, gồm:
1.
Chứng từ kế toán sử dụng trực tiếp để ghi sổ kế toán và lập báo cáo tài chính,
các bảng kê, bảng tổng hợp chi tiết, các sổ kế toán chi tiết, các sổ kế toán
tổng hợp, báo cáo tài chính tháng, quý, năm của đơn vị kế toán, biên bản tiêu
huỷ tài liệu kế toán và tài liệu khác có liên quan đến ghi sổ kế toán và lập
báo cáo tài chính, trong đó có báo cáo kiểm toán và báo cáo kiểm tra kế toán.
Căn cứ theo quy định
trên, Công ty TNHH Kiến Trúc VT không lập các chứng từ kế toán thu chi như quy
định nêu nên trên và cũng không có các chứng từ kế toán theo như Luật kế toán
quy định định, cụ thể ở đây là phiếu chi cho Nguyệt 315.070.000 đồng không có.
Điều đó chứng tỏ không có bất kỳ bằng chứng nào Công ty chi cho Nguyệt
315.070.000 đồng. Sổ chi năm 2016- 2017 của cá nhân ông Nam với Nguyệt không phải
là một chứng từ kế toán theo quy định tại điều 4, Khoản 7, Khoản 8 Luật kế toán
2003.
Hơn nữa, đề nghị Công ty TNHH Kiến Trúc Vũng Tàu
cung cấp chứng cứ hợp lệ chứng minh Nguyệt là Kế toán trưởng theo Quy định tại
điều 52,53 Luật kế toán năm 2003. Bởi theo quy định này thì “kế toán trưởng
phải là người có trình độ trung cấp trở lên có chuyên môn, nghiệp vụ về kế toán
từ bậc trung cấp trở lên” (điểm b, điều 53 Luật kế toán 2003). Nguyệt chỉ có
chứng chỉ kế toán trưởng do Trường đại học kinh tế TPHCM cấp ngày 6/4/2006 và
Nguyệt chỉ học chứng chỉ này chưa được 4 tháng không có chuyên môn, nghiệp vụ,
không phải học trung cấp kế toán sao Công ty có thể bổ nhiệm Nguyệt từ ngày
1/1/2006 như cáo trạng nêu khi mới học xong (học từ ngày 20/10/2005 đến ngày
15/1/2006) nhưng cáo trạng của Viện kiểm sát ghi bổ nhiệm ngày 1/1/2016 là
không đúng sự thật, không phù hợp với chứng cứ vụ án. Như vậy. Nguyệt chưa học
xong chứng chỉ kế toán trưởng, chưa được cấp chứng chỉ kế toán trưởng nhưng vẫn
được bổ nhiệm kế toán trưởng của Công ty THNN KT VT là vi phạm pháp luật. Ngoài
ra, Nguyệt học Đại học giao thông vận tải ngành………………………..không phải ngành kế
toán và Nguyệt cũng chưa được học về kế toán từ bậc trung cấp trở lên theo quy
định tại điểm b, khoản 1 điều này Nguyệt không đủ tiêu chuẩn, điều kiện làm kế
toán Trưởng cho Công ty TNHH Kiến trúc Bà Rịa Vũng Tàu. Do vậy nếu có việc bổ
nhiệm làm kế toán trưởng của Công này là trái luật. Từ đó việc kết luận điều
tra, cáo trạng kết luận Nguyệt lạm dụng chức danh kế toán trưởng công ty bổ
nhiệm, tin tưởng giao để chiếm đoạt 200 triệu là không có căn cứ, sai luật và
oan cho Nguyệt rất rõ ràng.
Tại điểm c, điều 50 Luật kế toán 2003 còn quy
định:
“ Thời gian công tác thực tế về kế toán ít nhất
là hai năm đối với người có chuyên môn, nghiệp vụ về kế toán từ trình độ đại
học trở lên và thời gian công tác thực tế về kế toán ít nhất là ba năm đối với
người có chuyên môn, nghiệp vụ về kế toán bậc trung cấp.”
Nguyệt làm từ 2004 cho
đến 2006 là nhân viên tổng hợp, phô tô tài liệu, đánh máy (chính Nguyệt và Nam
đều thừa nhận như vậy) nhưng đến đầu năm 2006 Công ty Kiến Trúc BR VT đã bổ
nhiệm Nguyệt làm kế toán Trưởng là không
tuân theo pháp luật và theo quy định Nguyệt không phải là kế toán trưởng.
Nguyệt chưa đủ bằng cấp, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và thâm niên để bổ
nhiệm làm kế toán trưởng.
Đồng thời nếu tố cáo với tư cách pháp nhân thì
suốt quá trình làm việc, lấy lời khai, đối chất, đơn tố cáo, tường trình, cung
cấp chứng cứ ông Nam phải lấy tư cách pháp nhân là công ty nhưng trong hồ sơ vụ
án này ông Nam chỉ ký và ghi tên cá nhân ông Nam không có con dấu công ty trong
rất nhiều văn bản tố tụng.
Dịch vụ Luật sư chuyên tranh tụng, Bào chữa cho Bị can, Bị cáo, Người bị tạm giữ. |
Ở góc độ khoa học và thực tiễn, không thể có nền tư pháp nào đảm bảo 100% không có án oan, sai. Bởi do rất nhiều nguyên nhân sẽ xuất hiện những sai sót trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên việc để xảy ra oan sai trong tố tụng hình sự là điều khó thể chấp nhận được. Bởi lẽ, oan, sai một người làm tổn thương cả hệ thống tư pháp.
Theo các Luật sư và chuyên gia pháp lý, nguyên nhân của án oan, sai trước hết là do năng lực, trình độ của những cơ quan, cá nhân tham gia tiến hành tố tụng. Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán còn hạn chế; có biểu hiện bệnh thành tích, nôn nóng trong giải quyết vụ án, tin tưởng hoàn toàn vào lời nhận tội của bị can, bị cáo; việc thu thập, đánh giá chứng cứ chưa thật đầy đủ, khách quan, toàn diện, từ đó có thái độ đối xử với người bị bắt, bị can, bị cáo như là người có tội (nhận định cảm quan, duy ý chí, suy đoán)…
Khi những vụ án oan “chấn động lịch sử tố tụng Việt Nam” của ông Nguyễn Thanh Chấn, Huỳnh Văn Nén, Lương Ngọc Phi… được công khai, một nguyên nhân của án oan, sai được “phát lộ” là những dấu hiệu của tình trạng ép cung, dùng nhục hình làm sai lệch sự thật khách quan của vụ án, dẫn đến những nỗi oan thấu trời xanh như vậy.
Ngay bên cạnh vụ án Nguyễn Thanh Chấn bị oan sai, cùng trên địa bàn Bắc Giang cũng xảy ra một vụ oan sai tày đình khác. Ông Hàn Đức Long, sinh năm 1959, bị khép tội hiếp dâm và giết chết một bé gái 5 tuổi và nhận 2 bản án tử hình từ cấp sơ thẩm đến phúc thẩm. Tử tù này bị bắt chỉ sau một lá đơn tố cáo sau khi án mạng đã xảy ra nhiều tháng của người có mâu thuẫn đất đai. Bị nhục hình, bức cung, ông Long phải nhận là mình đã hiếp dâm và giết chết bé gái, thậm chí còn hiếp dâm cả hai mẹ con nhà hàng xóm. Khi các bản án bị hủy để điều tra lại, thì chính những người tố cáo lại xin rút đơn. Hai nạn nhân của việc dùng nhục hình, bức cung này đủ để vẽ nên bức tranh khủng khiếp của “biện pháp nghiệp vụ” này: Từ những người vô tội, không biết gì về án mạng xảy ra, nhưng tại hiện trường, họ đã được đạo diễn để diễn lại y như thật, thực hiện xuất sắc chỉ đạo diễn xuất, khai báo tình tiết đúng với ý muốn của cán bộ điều tra.
Từ những vụ án oan như trên, cùng ngẫm đến vai trò của luật sư trong cuộc sống hiện tại. Nếu có sự can thiệp của luật sư ngay từ đầu, có lẽ sẽ ngăn chặn được phần nào tình trạng ép cung, dùng nhục hình để ép người vô tội phải nhận tội. Trong hoàn cảnh đa số người dân hiện nay hiểu biết về pháp luật còn yếu kém, khi vướng vào vòng lao lý thì không đủ khả năng để minh oan và đưa ra chứng cứ cũng như luận điểm để chứng minh mình vô tội. Vì vậy nếu có sự xuất hiện của luật sư trong các giai đoạn tố tụng sẽ giảm thiểu việc không minh bạch khi điều tra.
Chống bức cung, nhục hình đơn giản chỉ cần mở rộng cánh cửa phòng hỏi cung với sự chứng kiến của luật sư, người giám hộ và những gì diễn ra sau cánh cửa của trại tạm giam phải có người biết đến. Hạn chế quyền có mặt của luật sư không khác gì một sự tiếp tay cho hành vi bức cung, nhục hình, gây ra ngày càng nhiều các vụ án oan, sai.
Thiết nghĩ, người dân cần nâng cao ý thức về vai trò của luật sư trong cuộc sống hàng ngày, trong mọi hoạt động của đời sống chứ không chỉ là khi đã vướng vào vòng lao lý. Cần nâng cao hiểu biết của pháp luật mới là giải pháp lâu dài để giải quyết triệt để được tình trạng oan sai đang diễn ra nhiều như hiện nay. |
Luật Sư Chuyên Bào Chữa Tại Tòa Án Các Cấp |
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ GIA ĐÌNH – là văn phòng luật sư mạnh và có kinh nghiệm trong lĩnh vực tranh tụng với các luật sư giỏi tham gia bào chữa các vụ án hình sự, dân sự, các luật sư giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực tham gia tố tụng, bào chữa tại tòa và các dịch vụ pháp lý khác. Chúng tôi cung cấp đầy đủ và chuyên nghiệp các yêu cầu của khách hàng như sau:
- Luật sư Bào chữa, Đại diện pháp luật baảo vệ quyền lợi cho các Cá nhân, Tổ chức và Doanh nghiệp theo các quy định của Pháp luật tại các cấp Tòa;
- Luật sư vấn pháp luật, cung cấp hệ thống văn bản pháp luật thường xuyên cho các cá nhân, tổ chức và Doanh nghiệp;
- Thẩm định pháp lý các hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp, thanh tra giám sát hoạt động của bộ máy tổ chức doanh nghiệp theo ủy quyền;
- Tham gia đàm phán thương thảo quyền lợi của Khách hàng, Tranh tụng tại tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng theo yêu cầu;
- Thẩm định tư cách pháp lý, thông tin kinh doanh, và các hoạt động khác của các đối tác của Khách hàng theo yêu cầu;
- Đại diện cho khách hàng để thực hiện các thủ tục hành chính với các cơ quan Nhà nước theo đúng các quy định của pháp luật;
- Soạn thảo văn bản hợp đồng liên quan đến các giao dịch dân sự, hợp tác kinh doanh;
- Mua bán, chuyển nhượng, hợp thức hóa, hóa giá, cấp đổi chủ quyền nhà, đất;
- Khai di sản thừa kế, lập di chúc, ủy quyền và tất cả các dịch vụ pháp lý về nhà đất;
- Thủ tục nhận con nuôi, con ngoài giá thú;
- Kết hôn, ly hôn có yếu tố nước ngoài.
- Dịch thuật các ngôn ngữ.
CÁC LƯU Ý KHI TIẾN HÀNH VỤ KIỆN TẠI TÒA
Xác định thời hạn khởi kiện: Yêu cầu vụ việc còn trong thời hiệu khởi kiện
Theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2011 thì thời hiệu khởi kiện là 02 năm, kể từ ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
Trong trường hợp vụ việc đã quá thời hạn thì đương sự cần lưu ý đến trường thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 161 Bộ luật dân sự hoặc thời hiệu khởi kiện được bắt đầu lại theo Điều 158 và Điều 162 Bộ luật dân sự.
Xác định thẩm quyền nộp hồ sơ khởi kiện
Theo quy định tại Điều 33, Điều 34, Điều 35 thì đương sự có quyền yêu cầu Tòa án cấp Huyện nơi bị đơn cư trú, làm việc để khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết nếu đương sự không ở nước ngoài, tài sản tranh chấp không ở nước ngoài và không cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan ở nước ngoài. Nếu đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản tranh chấp ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan ở nước ngoài thì đương sự phải yêu cầu Tòa án cấp Tỉnh nơi bị đơn cư trú, làm việc để khởi kiện.
Chuẩn bị hồ sơ khởi kiện
Hồ sơ khởi kiện bao gồm:
Đơn khởi kiện: Theo đúng mẫu số 01 ban hành kèm theo Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Giấy tờ vay nợ và các tài liệu khác.
Giấy xác nhận của cơ quan nhà nước về địa chỉ cư trú, làm việc của bị đơn
Chứng minh nhân dân và Hộ khẩu của người khởi kiện
Giấy tờ chứng minh vụ việc vẫn còn thời hiệu khởi kiện (nếu có).
Thụ lý và thời hạn giải quyết của Tòa án sau khi thụ lý vụ án
Thủ tục thụ lý vụ án
Sau khi nhận hồ sơ khởi kiện nếu vụ việc thuộc trường hợp trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện cho người khởi kiện. Nếu vụ việc không thuộc trường hợp trả lại đơn khởi kiện nhưng Đơn khởi kiện chưa đúng mẫu quy định hoặc không đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 164 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án thông báo cho người khởi kiện sửa đổi, bổ sung theo thời hạn ấn định.
Nếu vụ việc đủ điều kiện khởi kiện và đơn khởi kiện đã làm đúng theo quy định thì Tòa án cho người khởi kiện nộp tạm ứng án phí trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo.
Sau khi nhận được biên lai nộp tạm ứng án phí của người khởi kiện thì Tòa án thụ lý vụ án và giải quyết.
Về thời gian giải quyết vụ án
Thời hạn hòa giải và chuẩn bị xét xử là từ 4-6 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án
Thời hạn mở phiên tòa: Trong thời hạn tối đa 02 tháng, kể từ ngày đưa vụ án ra xét xử.
Thời hạn hoãn phiên toà: không quá 30 ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa.
LÀM GÌ CHO QUÝ KHÁCH
Là một công những công ty luật đứng đầu về luật sư tranh tụng bởi lẻ với đội ngũ hiện có như: Các tiến sĩ, thạc sĩ luật sư có kinh nghiệm tranh tụng trong nhiều năm và giàng thắng lợi nhiều vụ sự kiện lớn và đem lại quyền lợi - lợi ích hợp pháp cho các ĐƯƠNG SỰ. Luật SƯ GIA ĐÌNH chúng tôi thường đảm nhận với các vụ kiện liên quan đến: Hình Sự, Dân sự, kinh tế, lao động, đất đai, hành chính, hôn nhân và gia đình. Ngoài ra Chúng tôi còn cung cấp đầy đủ các dịch vụ luật sư tranh tụng theo ý kiến phía quý khách khách yêu cầu như:
- Tư vấn về chiến lược giải quyết tranh chấp; phân tích và đánh giá về điểm mạnh, điểm yếu của các bên trong tranh chấp.
- Tư vấn về cách thức, biện pháp giải quyết tranh chấp; đại diện cho khách hàng trong việc đàm phán giải quyết tranh chấp với đối tác.
- Tham gia điều tra, thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ, tài liệu; tư vấn và hỗ trợ khách hàng soạn thảo, chuẩn bị hồ sơ xuất trình trước tòa án, trọng tài.
- Tư vấn về thủ tục và quy trình liên quan đến thi hành án; nhận đại diện trong thủ tục thi hành án dân sự.
- Đại diện theo ủy quyền và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho đương sự trong các vụ án/việc dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính.
- Bào chữa cho người bị nghi là tội phạm trong vụ án hình sự.
- Cử luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự trong các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, hôn nhân gia đình.
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Luật sư Gia Đình đang mở rộng và luôn nỗ lực hoàn thiện nhiều loại hình dịch vụ đa dạng trong khu vực, trong nước và trên thế giới nhằm mang lại cho khách hàng của mình những dịch vụ tư vấn hoàn hảo nhất.
Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hỗ trợ luật sư là đối tác tư vấn pháp luật trên Đài tiếng nói Bình Dương, Đài truyền hình Bình Dương, Đài Truyền hình HTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của chúng tôi.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
|
Luật Sư Tư Vấn Về Điều Kiện Được Hưởng Án Treo |
Thứ nhất, về điều kiện được hưởng án treo.
Theo quy đinh tại Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTPngày 02/10/2007, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn, chỉ cho người bị xử phạt tùhưởng án treokhi có đủ các điều kiện sau đây:
"a) Bị xử phạt tù không quá ba năm, không phân biệt về tội gì;
b) Có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân; chưa có tiền án, tiền sự; có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng;
c) Có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và không có tình tiết tăng nặng, trong đó có ít nhất làquy định tại khoản 1 Điều 46 của BLHS. Trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ vừa có tình tiết tăng nặng, thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng từ hai tình tiết trở lên;
d) Nếu không bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì không gây nguy hiểm cho xã hội hoặc không gây ảnh hưởng xấu trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm…
Đồng thời, khoản 1, Điều 46, BLHS quy định như sau:
1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
a) Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi tráipháp luật của người bị hại hoặcngười khác gây ra;
e) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
g) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
h)Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
i) Phạm tội vì bị người khác đe doạ, cưỡng bức;
k) Phạm tội do lạc hậu;
l) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
m) Người phạm tội là người già;
n) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
o) Người phạm tội tự thú;
p) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
q) Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm;
r) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
s) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặccông tác”.
Như vậy, nếu học sinh của bạn có đầy đủ các điều kiện trên thì sẽ được Tòa án xem xét cho hưởng án treo.
Thứ hai, về hồ sơ kháng cáo xin được hưởng án treo.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (đối với bị cáo không có mặt tại phiên toà thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết) thì bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo phải gửi đơn kháng cáo đến Tòa án hoặc Tòa phúc thẩm.Trong trường hợp này, người gửi đơn có thể là bị cáo, mẹ của bị cáo( nếu bị cáo chưa thành niên) hoặc người được ủy quyền . |
Quyền Của Bị Can, Bị Cáo, Bị Hại |
Bị can
1. Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này.
2. Bị can có quyền:
a) Được biết lý do mình bị khởi tố;
b) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
c) Nhận quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
d) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
g) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
h) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
i) Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu;
k) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
3. Bị can có nghĩa vụ:
a) Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trường hợp vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị áp giải, nếu bỏ trốn thì bị truy nã;
b) Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
4. Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết trình tự, thủ tục, thời hạn, địa điểm bị can đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa khi bị can có yêu cầu quy định tại điểm i khoản 2 Điều này.
Bị cáo
1. Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này.
2. Bị cáo có quyền:
a) Nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
b) Tham gia phiên tòa;
c) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
d) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người tham gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa;
đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
g) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
h) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
i) Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa;
k) Nói lời sau cùng trước khi nghị án;
l) Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa;
m) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;
n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
o) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
3. Bị cáo có nghĩa vụ:
a) Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Trường hợp vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã;
b) Chấp hành quyết định, yêu cầu của Tòa án.
Bị hại
1. Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.
2. Bị hại hoặc người đại diện của họ có quyền:
a) Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
b) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
c) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
d) Đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật;
đ) Được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án;
e) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
g) Đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường;
h) Tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa;
i) Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
k) Tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này;
l) Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa;
m) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;
n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
o) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
3. Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người đại diện của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa.
4. Bị hại có nghĩa vụ:
a) Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải;
b) Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
5. Trường hợp bị hại chết, mất tích, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại quy định tại Điều này.
Cơ quan, tổ chức là bị hại có sự chia, tách, sáp nhập, hợp nhất thì người đại diện theo pháp luật hoặc tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó có những quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều này.
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Luật sư Gia Đình đang mở rộng và luôn nỗ lực hoàn thiện nhiều loại hình dịch vụ đa dạng trong khu vực, trong nước và trên thế giới nhằm mang lại cho khách hàng của mình những dịch vụ tư vấn hoàn hảo nhất.
Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hỗ trợ luật sư là đối tác tư vấn pháp luật trên Đài tiếng nói Bình Dương, Đài truyền hình Bình Dương, Đài Truyền hình HTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của chúng tôi.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
|
Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật |
1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Không ra quyết định trả tự do cho người được trả tự do theo quy định của luật;
b) Ra lệnh, quyết định bắt, giữ, giam người không có căn cứ theo quy định của luật;
c) Không chấp hành quyết định trả tự do cho người được trả tự do theo quy định của luật;
d) Thực hiện việc bắt, giữ, giam người không có lệnh, quyết định theo quy định của luật hoặc tuy có lệnh, quyết định nhưng chưa có hiệu lực thi hành;
đ) Không ra lệnh, quyết định gia hạn tạm giữ, tạm giam hoặc thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giữ, tạm giam khi hết thời hạn tạm giữ, tạm giam dẫn đến người bị tạm giữ, tạm giam bị giam, giữ quá hạn.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Giam, giữ trái pháp luật từ 02 người đến 05 người;
b) Làm người bị giam, giữ trái pháp luật bị tổn hại về sức khỏe với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
c) Làm người bị giam, giữ hoặc gia đình họ lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn;
d) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Giam, giữ trái pháp luật 06 người trở lên;
b) Làm người bị giam, giữ trái pháp luật tổn hại về sức khỏe với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc chết;
c) Làm người bị giam, giữ tự sát;
d) Làm gia đình người bị giam, giữ ly tán.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Phân tích cấu thành tội phạm theo quan điểm luật sư bào chữa, luật sư hình sự: luật sư bào chữa, luật sư hình sự.
1. Mặt khách quan của tội phạm luật sư bào chữa giỏi
Tội phạm này chỉ đòi hỏi người phạm tội có hành vi khách quan là hành vi dưới dạng không hành động sau:
– Không ra quyết định trả tự do cho người được trả tự do theo quy định của pháp luật: là trường hợp người có đủ thẩm quyền và có đủ căn cứ pháp lý để ra quyết định trả tự do cho người đang bị giam, giữ nhưng đã không ra quyết định trả tự do cho người đó.
– Không thực hiện quyết định trả tự do cho người được trả tự do theo quy định của pháp luật: là trường hợp người có trách nhiệm thi hành các quyết định trả tự do cho người bị giam, giữ đã không thực hiện quyết định trả tự do của cấp có thẩm quyền.
Đối tượng của hành vi phạm tội của tội này là người được trả tự do theo quy định của pháp luật. Như trường hợp đã hết thời gian tạm giam, tạm giữ,….
2. Mặt chủ quan của tội phạm luật sư hình sự giỏi
Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật được thực hiện với lỗi cố ý. Động cơ phạm tội của việc không ra quyết định hoặc không thực hiện quyết định trả tự do cho người bị giam, giữ có thể khác nhau nhưng đây không phải là dấu hiệu định tội.
3. Khách thể của tội phạm
Tội phạm này xâm phạm đến sự hoạt động đúng đắn của cơ quan thi hành án, quyền và lợi ích của công dân.
4. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt. Ngoài việc phải đáp ứng yêu cầu về độ tuổi (từ đủ 16 tuổi trở lên) và năng lực trách nhiệm hình sự, người phạm tội của chủ thể này phải là người có chức vụ, quyền hạn trong việc bắt giữ hay trả tự do cho người bị giam, bị giữ như: Viện trưởng, phó viện trưởng viện kiểm sát nhân dân; Chánh án, Phó chánh án Toà án nhân dân,… |
Luật Sư Chuyên Bào Chữa Tại Tòa Án |
CÁC LƯU Ý KHI TIẾN HÀNH VỤ KIỆN TẠI TÒA
Xác định thời hạn khởi kiện: Yêu cầu vụ việc còn trong thời hiệu khởi kiện
Theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2011 thì thời hiệu khởi kiện là 02 năm, kể từ ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
Trong trường hợp vụ việc đã quá thời hạn thì đương sự cần lưu ý đến trường thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 161 Bộ luật dân sự hoặc thời hiệu khởi kiện được bắt đầu lại theo Điều 158 và Điều 162 Bộ luật dân sự.
Xác định thẩm quyền nộp hồ sơ khởi kiện
Theo quy định tại Điều 33, Điều 34, Điều 35 thì đương sự có quyền yêu cầu Tòa án cấp Huyện nơi bị đơn cư trú, làm việc để khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết nếu đương sự không ở nước ngoài, tài sản tranh chấp không ở nước ngoài và không cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan ở nước ngoài. Nếu đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản tranh chấp ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan ở nước ngoài thì đương sự phải yêu cầu Tòa án cấp Tỉnh nơi bị đơn cư trú, làm việc để khởi kiện.
Chuẩn bị hồ sơ khởi kiện
Hồ sơ khởi kiện bao gồm:
Đơn khởi kiện: Theo đúng mẫu số 01 ban hành kèm theo Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Giấy tờ vay nợ và các tài liệu khác.
Giấy xác nhận của cơ quan nhà nước về địa chỉ cư trú, làm việc của bị đơn
Chứng minh nhân dân và Hộ khẩu của người khởi kiện
Giấy tờ chứng minh vụ việc vẫn còn thời hiệu khởi kiện (nếu có).
Thụ lý và thời hạn giải quyết của Tòa án sau khi thụ lý vụ án
Thủ tục thụ lý vụ án
Sau khi nhận hồ sơ khởi kiện nếu vụ việc thuộc trường hợp trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện cho người khởi kiện. Nếu vụ việc không thuộc trường hợp trả lại đơn khởi kiện nhưng Đơn khởi kiện chưa đúng mẫu quy định hoặc không đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 164 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án thông báo cho người khởi kiện sửa đổi, bổ sung theo thời hạn ấn định.
Nếu vụ việc đủ điều kiện khởi kiện và đơn khởi kiện đã làm đúng theo quy định thì Tòa án cho người khởi kiện nộp tạm ứng án phí trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo.
Sau khi nhận được biên lai nộp tạm ứng án phí của người khởi kiện thì Tòa án thụ lý vụ án và giải quyết.
Về thời gian giải quyết vụ án
Thời hạn hòa giải và chuẩn bị xét xử là từ 4-6 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án
Thời hạn mở phiên tòa: Trong thời hạn tối đa 02 tháng, kể từ ngày đưa vụ án ra xét xử.
Thời hạn hoãn phiên toà: không quá 30 ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa.
CHÚNG TÔI LÀM GÌ CHO QUÝ KHÁCH
- Tư vấn về chiến lược giải quyết tranh chấp; phân tích và đánh giá về điểm mạnh, điểm yếu của các bên trong tranh chấp.
- Tư vấn về cách thức, biện pháp giải quyết tranh chấp; đại diện cho khách hàng trong việc đàm phán giải quyết tranh chấp với đối tác.
- Tham gia điều tra, thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ, tài liệu; tư vấn và hỗ trợ khách hàng soạn thảo, chuẩn bị hồ sơ xuất trình trước tòa án, trọng tài.
- Tư vấn về thủ tục và quy trình liên quan đến thi hành án; nhận đại diện trong thủ tục thi hành án dân sự.
- Đại diện theo ủy quyền và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho đương sự trong các vụ án/việc dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính.
- Bào chữa cho người bị nghi là tội phạm trong vụ án hình sự.
- Cử luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự trong các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, hôn nhân gia đình.
Trân trọng
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Luật sư Gia Đình đang mở rộng và luôn nỗ lực hoàn thiện nhiều loại hình dịch vụ đa dạng trong khu vực, trong nước và trên thế giới nhằm mang lại cho khách hàng của mình những dịch vụ tư vấn hoàn hảo nhất.
Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hỗ trợ luật sư là đối tác tư vấn pháp luật trên Đài tiếng nói Bình Dương, Đài truyền hình Bình Dương, Đài HTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của chúng tôi.
Trân trọng cảm ơn. ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
|
Luật Sư Tư Vấn Về Cho Vay Nặng Lãi |
Theo quy định tại khoản 1, Điều 476 quy định: " Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng".
Như vậy, theo quy định trên của Bộ luật dân sự thì nếu lãi suất cho vay vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng thì gọi là "cho vay nặng lãi".
Hậu quả pháp lý: Khi có tranh chấp xảy ra thì pháp luật không bảo vệ quyền lợi của bên cho vay đối với phần lãi suất vượt quá 150% lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước.
Tuy nhiên, không phải trường hợp cho vay nặng lãi nào cũng cấu thành tội cho vay nặng lãi. Ngoài ra khi tiến hành việc cho vay thông thường người cho vay không ghi mức lãi cụ thể vào việc đòi số lãi nói trên dựa vào uy tín và một số biện pháp xã hội. Không có cung thì không có cầu, do đó không cần bàn tới việc tốt xấu việc hạn chế hoạt động này cũng gặp rất nhiều khó khăn do việc cho vay chỉ cần ghi nhận viết tay cho nhau.
Vậy khi cấu thành tội cho vay nặng lãi thì căn cứ pháp luật được trích dẫn tại đâu và như thế nào?
Điều 163 Bộ luật Hình sự quy định về Tội cho vay nặng lãi như sau:
"1. Người nào cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên có tính chất chuyên bóc lột, thì bị phạt tiền từ một lần đến mười lần số tiền lãi hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm.
2. Phạm tội thu lợi bất chính lớn thì bị phạt tù từ 6 tháng đến ba năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một đến năm lần số lợi bất chính, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm."
Theo quy định của Điều luật trên, việc cho vay nặng lãi sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn hai dấu hiệu sau đây:
Thứ nhất: Lãi suất cho vay cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên. Theo quy định của khoản 1 Điều 476 Bộ Luật Dân sự về lãi suất thì lãi suất vay do các bên thỏa thuận không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng, nếu lãi suất cho vay gấp 10 lần mức lãi suất này thì có dấu hiệu của tội cho vay nặng lãi. Ví dụ: Ngân hàng nhà nước quy định lãi suất cao nhất đối với cho vay tiền Việt Nam (đồng) kỳ hạn 3 tháng là 1%/tháng, lãi suất tối đa mà các bên có thể thỏa thuận là 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố là 1,5%/tháng thì hành vi cho vay tiền (VN Đồng) kỳ hạn 3 tháng với mức lãi trên 15%/tháng (gấp từ 10 lần mức lãi suất tối đa pháp luật cho phép trở lên) sẽ bị coi là cho vay lãi nặng.
Thứ hai: Có tính chất chuyên bóc lột được hiểu là người phạm tội lợi dụng việc cho vay, lợi dụng hoàn cảnh khó khăn cấp bách của người đi vay để cho vay với lãi suất cao (lãi nặng) nhằm thu lợi bất chính mà thực chất là bóc lột người đi vay. Tính chất chuyên bóc lột của hành vi cho vay lãi nặng thể hiện ở chỗ: người phạm tội thực hiện hành vi cho vay lãi nặng nhiều lần, hành vi mang tính chuyên nghiệp, người phạm tội lấy việc cho vay lãi nặng làm một nghề kiếm sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.
Với tập quán kinh doanh, giao dịch hiện tại của Việt Nam việc hiểu thêm các quy định pháp luật sẽ giúp người tham gia giao dịch nắm được nhiều lợi thế hơn và tránh được các rủi ro pháp lý. |
Luật sư bào chữa về tội cố ý gây thương tích |
Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc.
BÀI
BÀO CHỮA CHO BỊ CÁO ĐẶNG SINH VÀ LƯỢNG MINH TIẾN
Tôi: LS TRẦN MINH HÙNG- TRƯỞNG VPLS GIA ĐÌNH, ĐOÀN LS
TPHCM, xin bào chữa cho bị Đặng Sinh và Lượng Minh Tiến bị Viện kiểm sát nhân dân huyện
Xuyên Mộc truy tố về tội Cố ý gây thương tích theo khoản 2, điều 104 Bộ luật
hình sự như sau:
Nội dung bào chữa cho bị cáo Tiến:
Theo
Tiến thì vào khoảng 13h 30 ngày 03 tháng 12 năm 2016 tại Bàu Đen xã Bưng Riềng khu
vực trồng cao su thuộc Phân trường Lâm nghiệp tỉnh BRVT. ông Tiến chạy thuê chở
tràm cho ông Hàn có đi ngang qua lô cao su thuộc phân trường nói trên, lúc đang đi ngang qua khu vực trồng cao su,
có hai người đàn ông đi 1 chiếc xe máy chạy đến chặn đầu xe Tiến lại và đòi bắt Tiến và bắt xe Tiến, hỏi tại sao
bắt thì 02 ông này cho rằng bảo vệ Phân Trường nhưng ông Tiến không thấy mặc quần
áo hay thẻ bảo vệ. Tiến có nói: “Tôi chỉ chở thuê Tràm không làm gì tôi sẽ chạy
đường khác về không về lại đường này nữa nếu các anh không cho, tôi đã chạy 1
lần trước đó mà không thấy ai nhắc nhở cấm gì”, hai người đó là ông
Phan Việt Hùng và 1 người đi chung là anh Đạt vẫn tiếp tục đòi bắt Tiến và đe dọa
Tiến, Tiến đã trả lời: “em đang đi trên đường mòn từ xưa đến nay, con đường này
tư xưa đến này có sẵn, anh không có quyền bắt Tôi. Hơn nữa con đường này
không thấy ghi bảng cấm vào, cấm đi”, theo Tiến thì lúc này 2 anh chạy đến
nắm tay Tiến và lôi Tiến xuống xe, hai anh liên tục đánh vào người và mặt Tiến và
khống chế, khóa tay Tiến ra phía sau gần 1 tiếng đồng hồ.
Tiến đã van xin năn nỉ thả nhưng họ
không đồng ý và vẫn tiếp tục khống chế và ép Tiến xuống đất làm thở không được
và đau cả người… 1 lúc sau hai anh đã đồng ý thả Tiến và Tiến đã gọi cho cho
Thành là cháu Tiến nhờ cháu gọi cho công
an xã Bưng Riềng ( anh Hận) vào chứng kiến và lập biên bản, nhưng anh Hận không vào và cháu Lượng Công Thành (SN 1989) đã điện
thoại cho mấy ông cậu vào để can ngăn sự
việc ( Lượng Văn Cường SN 1970, Lượng
Văn Hùng SN 1968, Lượng Minh Tuấn SN 1975, Bùi Văn Cường
SN1965, Đặng Sinh SN 1985) và Tiến kể lại
sự việc cho anh Lượng Văn Cường nghe. Lúc các anh đến thì giữa các bên có
cãi nhau rất kịch liệt, ông Hùng vẫn tỏ ra thách thức anh em Tiến,
lúc này phía bên ông Hùng cũng có thêm 2 người vào. Tiến có nói với mấy
anh em là ông Phan Việt Hùng và anh Đạt đã đánh Tiến nên Lúc này anh Phan Việt
Hùng bỏ chạy và Tiến chạy theo, đánh vài
cái bằng tay không , anh Phan Việt Hùng nói:” tụi bay không được quyền đánh Tao”,
trong lúc dằng co xô xát cháu Sinh đã lấy đoạn tre làm nhà chòi của quán đánh
anh Phan Việt Hùng và ông Hùng lấy tay đỡ. Anh Lượng Văn Hùng can kêu Tiến và Sinh không
đánh nữa và đã bỏ về….
Vào khoản 15h cùng ngày Tiến và anh Lượng Văn
Cường có lên UBND xã Bưng Riềng trình báo, anh Luận công an viên tiếp Tiến và
anh Lượng Văn Cường, nhưng 1 lúc sau anh Luận gọi một anh khác cũng là công an
viên ra lập biên bản vụ việc trình báo của Tiến chứ không như kết luận điều tra
là công an mời các bị cáo lên làm việc.
Khoản
2 đến 3 ngày sau Tiến có thuê cháu Thành vào tiếp tục chở tràm cho nhà ông Hàn vì lí do
Tiến bị đánh hôm rồi còn đau nên không thể
chở tràm được, Tiến chạy xe máy vào con đường xảy ra vụ việc vừa rồi để đi vào coi tràm cháu Thành chở , thì Tiến phát hiện thấy 1 cây cao su ngã
đỗ, và có chạy về trình báo với trưởng công an xã là anh Tu với anh Luận vô xác minh
hiện trường, anh Vũ là an ninh của huyện cũng có mặt buổi hôm đó, chụp hình lại.
Khoảng 5
ngày sau anh Lượng Văn Hùng với anh Lượng
Văn Cường có thay mặt Tiến đến nhà anh
Phan Việt Hùng để thăm sức khỏe và có
chút quà gửi anh bồi bổ nhưng anh Phan Việt Hùng từ chối không nhận. Và tiếp tục
mấy lần sau Tiến vẫn nhờ anh Lượng Văn Cường
để qua thăm nom xin lỗi về vụ đánh nhau nhưng vẫn bị cự tuyệt không chấp nhận lời
xin lỗi của Tiến. Và lần gần vào ngày 25
tháng 02 năm 2017 Tiến đi một mình vào nhà anh Phan Việt Hùng gặp vợ và con
anh Hùng, anh Phan Việt Hùng không có ở nhà, Tiến đã nói chuyện xin lỗi vợ con anh Phan Việt Hùng, nhờ chị
nói giúp anh Phan Việt Hùng bỏ qua vì chuyện nóng nảy xảy ra xô xát không ai muốn,
và Vợ của anh Phan Việt Hùng cũng đã đồng
ý chuyển lời lại giúp cho tồi về việc này.
Sự việc xảy ra xô xát ngày ngày 03 tháng 12 năm 2016
bên nào cũng có lỗi, con đường mòn nhiều người đi thì Tiến đi chỉ đi chở Tràm
thuê cho ông Hàn - ông Hàn làm chứng sự việc Tiến chạy chở thuê Tràm, con đường
này nhiều người đi và chính Cáo trạng kết luận đây là con đường mòn nhiều người
đi tạo thành lối mòn việc ông Hùng và ông Đạt tự đòi bắt xe ông Tiến là không
có căn cứ sau đó xưng là bảo vệ nhưng không mặc quần áo bảo vệ và không đưa thẻ
nên ông Tiến cũng không biết 02 ông này có phải bảo vệ không mà đòi bắt Tiến,
đè Tiến xuống rồi đánh Tiến, Tiến không vi phạm luật sao lại đánh ghè Tiến xuống
đất và khóa tay Tiến ra phía sau cả tiếng đồng hồ làm Tiến rất bức xúc và bị
kích động rõ rệt. Tiến đã vào con đường này 1 lần trước đó sau đó quay
lại đi lần thứ 2, vậy sao lần 1 không yêu cầu Tiến ra mà cho Tiến đi
lần 2? Con đường thì không có bảng cấm, biển hiệu gì, trong khi Theo luật giao thông
đường bộ thì nếu là đường cấm thì phải có biển hiệu cấm (điều 10, k4, điểm a Luật
giao thông đường bộ đã quy định rõ. Ông Hùng, ông Đạt đã có lỗi trước và làm
cho Tiến bị kích động rất nhiều dù Tiến đã cố gắng kiếm chế. Liệu ông Hùng, Đạt
có được phân công trực làm bảo vệ hôm đó không khi Tiến yêu cầu cung cấp thẻ bảo
vệ cho Lâm Trường thì 02 ông này không cung cấp được, Tiến không biết họ là ai?
Con đường vào Lâm Trường này là con đường mòn đã có từ lâu đời và nhiều người
dân ra vào đây liên tục không bị cấm và không hề có bảng cấm? Sau sự việc xảy
ra với Tiến thì Công ty này mới đưa cây rào sơ sài lại để buổi xác minh hiện
trường ghi là có cây để ngang. Theo từ điển tiếng việt thì đường mòn là đường
do nhiều người đi lại nhiều lần mà hình thành, có từ lâu không được làm mới.
Như vậy, con đường này đã có từ xưa, ai cũng đi ngang qua và chính cáo trạng Viện
kiểm sát cũng thừa nhận. Vậy tại sao Kết luận điều tra cho rằng Nguyên nhân xảy
ra vụ án trên do lỗi của Tiến tự ý điều khiển xe máy cày đi sai vào giữa 2 hàng
cây....đây là điều hết sức mâu thuận và kết tội Tiến thiếu căn cứ.
Cơ quan điều tra Công an huyện Xuyên Mộc kết luận Tiến
phạm tội theo khoản 2, điều 134 và áp dụng điểm o, a là chưa đúng, và cho rằng
Tiến phạm tội với
vai trò là đồng phạm xúi dục, kích động là chưa đúng.
Cụ thể điểm o, khoản 2, điều 134 là “Đối với người đang thi hành
công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân”
Trong khi Theo Luật Trách nhiệm bồi thường nhà nước
2009, quy định tại điều 3, khoản 1 như
sau: “Người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ
nhiệm vào một vị trí trong cơ quan nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý hành
chính, tố tụng, thi hành án hoặc người khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
giao thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến hoạt động quản lý hành chính, tố tụng,
thi hành án”.
Luật cán bộ, công chức 2008 quy định.
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng
áp dụng
Luật này quy định về cán bộ, công chức; bầu cử, tuyển
dụng, sử dụng, quản lý cán bộ, công chức; nghĩa vụ, quyền của cán bộ,
công chức và điều kiện bảo đảm thi hành công vụ.
Điều 2. Hoạt động công vụ của cán bộ,
công chức
Hoạt động công vụ của cán bộ, công chức là việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy định của Luật này và
các quy định khác có liên quan.
Điều 4. Cán bộ, công chức
1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn,
bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước.
2. Công chức là công dân Việt
Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp
tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là
sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và
trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự
nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với
công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương
được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp
luật.
3. Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp
xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu
tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng
giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong
biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Căn cứ quy định
trên như vậy,
ông Hùng chỉ là nhân viên bảo vệ của Công ty, không phải là cán bộ công chức
thi hành công vụ theo Luật cán bộ công chức và Luật trách nhiệm bồi thường nhà
nước nên không thể quy kết ông Tiến phạm tội thuộc trường điểm O.
Ngoài ra, ông Tiến không dùng hung
khí nguy hiểm mà cũng không đánh ai bị thương nên cũng không thể kết tội Tiến
theo điểm a điều 134 là dùng hung khí nguy hiểm là không chính xác.
Khoản 2 Điều 2 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi,
bổ sung năm 2009 có quy định về người xúi giục như sau:
"Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy
người khác thực hiện tội phạm.”
Như vậy ông Sinh trên 18 tuổi, đủ năng lực hành vi dân
sự không thể ông Tiến kích động hay dụ dỗ, thú đẩy được với chỉ 1 câu nói “đánh
đi rồi tính sau” thì không thể kết tội Tiến với vai trò đồng phạm là người xúi
dục như cáo trạng và kết luận điều tra. Hành vi xúi giục phải trực tiếp, nghĩa
là kẻ xúi giục phải nhằm vào một hoặc một số người nhất định. Việc kêu gọi, hô
hào mà không hướng tới những người xác định thì không phải là hành vi xúi giục.
Hành vi xúi giục phải cụ thể, nghĩa là phải nhằm gây
ra việc thực hiện tội phạm nhất định. Việc truyền bá, phổ biến, gieo rắc những
tư tưởng xấu cho một người hoặc một số người và khiến những người này đi vào
con đường phạm tội cũng không phải là hành vi xúi giục trong đồng phạm .
Về mặt chủ quan, cần xác định người xúi giục cần có ý
định rõ ràng thúc đẩy người phạm tội. Những người có lời nói hoặc việc làm có
thể gây ảnh hưởng đến việc phạm tội của người khác nhưng không có ý định thúc đẩy
người này phạm tội thì cũng không phải là người xúi giục.
Không phải cứ có nhiều người tham gia là đồng phạm, mà
nhiều người tham gia đó phải cố ý cùng thực hiện một tội phạm, nếu có nhiều người
phạm tội nhưng không cùng thực hiện một tội phạm thì không gọi là đồng phạm. Tiến
không gây thương tích cho ai, không cầm hung khí, không chỉ đạo Sinh đánh ai
hay hô Sinh đánh, mà chỉ hô chung chung nên không thể là đồng phạm.
Đồng phạm giản đơn: là tất cả những người cùng thực hiện
một tội phạm đều là người thực hành, Tiến không thực hiện hành vi gây thương
tích nên không thể là đồng phạm giản đơn.
Tiến không gọi ông Sinh mang cây đến đánh ông Hùng,
ông Đạt vậy tại sao xử ký hình sự Tiến? Tiến chỉ đánh ông Hùng bằng tay không
và chưa bị thương tích gì thì làm sao Tiến có thể là đồng phạm tội cố ý gây
thương tích? Tại sao ông Hùng, Đạt đánh, bắt, giữ Tiến trước hàng tiếng đồng hồ
thì không xem xét lỗi của những người này.
Tiến yêu cầu thực nghiệm điều tra theo quy định pháp
luật nhưng không được cơ quan tố tụng chấp nhận trong khi vụ án cần phải thực
nghiệm điều tra mới khách quan.
Cáo trạng khi kết tội Tiến theo khoản 2, điều 104 là
chưa áp dụng những tình tiết có lợi cho người bị buộc tội. Cụ thể Quốc hội khóa
XIII đã ban hành Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 về việc lùi hiệu lực
thi hành của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, Bộ luật Tố tụng hình sự số
101/2015/QH13.........
Mà theo đó:
-Tại khoản 3 Điều 1 của Nghị quyết này quy định:“Tiếp
tục áp dụng Bộ luật Hình sự số 15/1999/QH10 (được sửa đổi, bổ sung một số
điều theo Luật số 37/2009/QH12); Bộ luật tố tụng hình sự số 19/2003/QH11; Pháp
lệnh tổ chức điều tra hình sự số 23/2004/PL-UBTVQH11 (được sửa đổi, bổ sung một
số điều theo Pháp lệnh số 30/2006/PL-UBTVQH11 và Pháp lệnh số
09/2009/PL-UBTVQH12); Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ban hành Quy chế về tạm giữ, tạm
giam (được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 98/2002/NĐ-CP và Nghị
định số 09/2011/NĐ-CP của Chính phủ) cho đến ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 có hiệu lực thi hành.”.
-Tại điểm b khoản 4 Điều 1 của Nghị quyết
144/2016/QH13 có quy định:“Áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự số
101/2015/QH13 để thi hành các quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật
Hình sự số 100/2015/QH13 và Nghị quyết số 109/2015/QH13 tại điểm a khoản này;”.
Theo những quy định này, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự hiện nay, các
cơ quan tiến hành tố tụng phải đồng thời áp dụng quy định trong Bộ luật Tố tụng
hình sự (BLTTHS) năm 2003 và những quy định có lợi cho người bị buộc tội quy
định trong BLTTHS năm 2015.
Căn cứ quy định trên thì khi giải quyết phải áp dụng
điều luật mới với khung hình phạt tại
khoản 2, điều 134 là có lợi cho bị can bị cáo nên phải áp dụng quy định có lợi
cho bị can bị cáo.
Như vậy, kết luận điều tra và Cáo trạng
không thống nhất nhau khi kết luận điều tra thì áp dụng luật mới để kết tội Tiến
còn Cáo trạng thì áp dụng luật cũ để truy tố Tiến. Đây là điều không thống nhất
và áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án là chưa đúng.
Kết luận điều tra số 53/KLĐT chưa đúng với lời trình
bày Tiến, cụ thể:
Ông Hùng và ông Đạt khi đánh Tiến không mặc trang phục
bảo vệ mà chỉ mặc áo bình thường như Tiến đã khai nhiều lần, Công an huyện
Xuyên Mộc vẫn ghi 02 ông mặc trang phục là không đúng.
Khi Tiến đi vào khu này không có bất kỳ cây cao su nào
gãy như bản kết luận điều tra nêu.
Ông Hùng không có giải thích gì mà ngay sau khi thấy
Tiến đã đánh và vặt tay Tiến ra phía sau
cùng với ông Dũng.
Tiến không thách thức, đạp xe như kết luận điều tra
nêu. Bởi nếu bước lên máy cày cầm tay Tiến lôi xuống thì làm sao Tiến có thể đạp
ga xe bỏ chạy, đây là điều mâu thuẫn của bản kết luận điều tra.
Kết luận cho rằng bị cáo gọi cho Thành báo bị đánh gọi cho ông Hàn báo bị đánh là sai
chưa đúng. Tại các bản khai Tiến kêu gọi cho Thành để nhờ Thành kêu công an ra
vì Tiến không có số ông Hận công an xã.
Việc kết luận cây cao su bị bánh xe đè lên là không có
trong hiện trường, kết luận điều tra lại đưa vào. Khi Tiến đi xe vào không có bảng
cấm, không có cây ngăn mà sau khi sự việc xảy ra thì mới đưa cây ngăn lại.
Lúc Tiến báo với ông Hàn vì Tiến nghe ông Hùng nói là
bảo vệ thì nói lại như thế chứ không biết họ có phải bảo vệ hay không như kết
luận điều tra nêu.
Ở hiện trường ngay khi xảy ra va chạm không có bất ký
cây cao su nào hư hỏng hay gãy như kết luận điều tra. Công an huyện Xuyên Mộc
không thực nghiệm điều tra, không khám nghiệm hiện trường và không lập biên bản
quả tang và không biết gì về vụ việc nhưng lại kết luận dựa trên lời khai là
chưa có căn cứ, và chưa bảo đảm theo đúng trình tự tố tụng hình sự.
Không có căn cứ nào chứng minh ông Đạt, Hùng khai đúng
nhưng kết luận điều tra khẳng định lời khai 2 ông này là chính xác. Như vậy là
trái quy định về luật tố tụng về lời khai, chứng cứ khi buộc tội.
Nếu nói ông Hùng, Đạt không đánh Tiến sao Tiến phải uống thuốc, Tiến
khám bệnh và có hóa đơn uống thuốc, khám bệnh, chụp X-Quang Tiến cung cấp cho
Công an huyện Xuyên Mộc.
Việc Công ty Lâm Nghiệp MTV BRVT cung cấp cho Cơ quan cảnh
sát điều tra huyện Xuyên Mộc 2 cái áo bảo vệ là không đúng sự thật khách quan vụ
án, vì đây là không phải chứng cứ thu thập được tại buổi xảy ra ẩu đã mà mãi
sau này công ty tự đưa lên, ai dám chắc đây là chiếc áo ông Hùng, Đạt mặc vì Tiến không thấy họ mặc chiếc áo, Tiến chưa thấy nhận dạng chiếc áo
bao giờ. Lịch làm việc (lịch trực) sau này công ty tự cung cấp cho cơ quan điều
tra thì cũng khó xem xét chấp nhận theo như quy định về thu thập chứng cứ. Vì
các chứng cứ này chưa được giám định chữ ký, chữ viết và thời gian viết, thời
gian ký...có lùi lại hay không?
Tiến chưa bao giờ thấy người nhà đến thì chỉ tay vào
ông Hùng kêu Đặng Sinh đánh bao giờ, Tiến khai nhiều lần tại cơ quan điều tra
nhưng kết luận điều tra vẫn cho rằng Tiến chỉ đạo Đặng Sinh đánh ông Hùng là
sai sự thật, không đúng sự thật.
Tiến không gọi gia đình đến đánh ông Hùng và ông Đạt
như bản kết luận điều tra, điều này rõ ràng có Thành cháu Tiến biết là Tiến gọi
kêu Công an xã tới nhưng Kết luận điều tra lại cho là Tiến kêu người nhà đến.
Tiến không yêu cầu ông Hùng bồi thường, như Tiến đã
khai là Tiến cũng bị uống thuốc bị đau nhức do ông Hùng, Đạt đánh nhưng thấy chỉ
bầm dập vết thương không nặng nên không yêu cầu bồi thường nhưng kết luận điều
tra lại kết luận Tiến yêu cầu bồi thường hết sức vô lý.
Hành vi của Tiến không cấu thành tội phạm, lỗi xo xát
một phần lớn cho ông Phan Việt Hùng và ông Đạt đánh bắt, giữ trái pháp luật Tiến
trước, không có bảng cấm đi vào đường cao su. Tiến không cầm hung khí,
không gây bất kỳ thương tích nào cho ông Hùng, ông Đạt, Tiến không điện thoại
cho ông Sinh kêu ông Sinh cầm cây đánh người, Tiến chỉ đánh tay không và
không gây thương tích gì cho ông Hùng, vết thương ông Hùng là do Đặng
Sinh cầm cây gây nên. Hành vi ông Tiến là do bị kích động, do lỗi trái pháp luật
của ông Hùng, Đạt.
Từ các căn cứ trên tôi yêu cầu tuyên
hành vi bị cáo Tiến
không cấu thành tội phạm, không đồng phạm của tội cố ý gây thương tích như Cáo
trạng truy tố Tiến.
Nội dung bào chữa cho bị cáo Sinh:
Đặng Sinh phạm tội nhưng do bộc phát,
không có bàn bạc từ trước, chỉ nghe nói Tiến bị đánh nên sẵn đang làm quán thì
lấy cây chạy ra xem. Khi nghe Tiến bị đánh thì bức xúc mà đánh Hùng, Đạt mà
thôi.
Sinh có nhiều tình tiết giảm nhẹ kính mong HĐXX cho
Sinh được hưởng án treo.
Điều 46. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự:
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt
hại, khắc phục hậu quả;
g) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại
không lớn;
h) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
p) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
Khi quyết định hình phạt, Tòa án còn có thể coi các
tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.
Tại Điều 47 quy định về Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ
luật như sau:
“Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại
khoản 1 Điều
46 của Bộ luật này, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp
nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình
phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong trường hợp điều luật chỉ có một khung
hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật,
thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc
chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải
được ghi rõ trong bản án.”
Ngoài ra, tại khoản 2, điều 46 Bộ luật Hình sự quy định:
“Khi quyết định hình phạt, Tòa án còn có thể coi các
tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.”
Quy định này được hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2000
của HĐTP TANDTC quy định tại khoản 5, điểm c quy định các tình tiết khác là
tình tiết giảm nhẹ như như:
“- Người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt (ông Hùng có
đơn xin giảm nhẹ hình phạt).
- Gia đình bị cáo khắc phục, bồi thường.”
- Căn cứ Điều 60 quy định về Án treo như sau:
“Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân
của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt
chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử
thách từ một năm đến năm năm.
Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng
án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương
nơi người đó thường trú để giám sát và giáo dục. Gia đình người bị kết án có
trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc
giám sát, giáo dục người đó.”
- Căn cứ theo quy đinh tại Nghị quyết số
01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao đã hướng dẫn, chỉ cho người bị xử phạt tù hưởng án treo khi có đủ
các điều kiện sau đây:
a) Bị xử phạt tù không quá ba năm, không phân biệt về
tội gì;
b) Có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn chấp hành
đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân; chưa có
tiền án, tiền sự; có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú cụ thể, rõ
ràng;
c) Có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và không có
tình tiết tăng nặng, trong đó có ít nhất là một tình tiết giảm nhẹ quy định tại
khoản 1 Điều 46 của BLHS. Trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ vừa có tình tiết
tăng nặng, thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng từ hai
tình tiết trở lên;
d) Nếu không bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì không gây nguy hiểm cho xã hội
hoặc không gây ảnh hưởng xấu trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm…
Ngoài ra, Bị cáo có cha tham gia quân đội, gia đình
khó khăn nuôi nhiều con nhỏ, là lao động chính....
Căn cứ vào các quy định trên, tôi kính mong HĐXX cho bị
cáo Đặng Sinh được hưởng án treo với thời gian thử thách ngắn nhất để bảo đảm
phù hợp với quy định pháp luật.
Xin chân thành cảm ơn hội đồng xét xử và chấp nhận nội
dung bào chữa của tôi.
Trân trọng cảm ơn.
Ngày 27/9/2017
LS TRẦN MINH HÙNG
|
Luật Sư Tư Vấn Gíam Đốc Thẩm |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc
lập - Tự do - Hạnh phúc
Sóc
Trăng, ngày….. tháng …… năm 2017
ĐƠN
ĐỀ NGHỊ
Xem
xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án
sơ thẩm số 33/2016/DSST ngày 23 tháng 8 năm 2016 của Tòa án nhân dân
huyện Mỹ Xuyên, Sóc Trăng
Kính gửi:
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI TP.HCM
Họ
và tên người đề nghị:
Bà
sinh năm: 1980
Địa
chỉ:
Điện
thoại:..............................
Nguyên
tôi là bị đơn trong vụ án dân sự “ Tranh chấp đòi lại quyền sữ dụng đất ” Tòa
án nhân dân huyện Mỹ Xuyên thụ lý số 88/2014/TLST - DS ngày 03 tháng 11 năm 2014; và bị Tòa án
nhân dân huyện Mỹ Xuyên, Tỉnh Sóc Trăng xét xử ngày 23 tháng 8 năm 2016 theo
quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2016/QĐST-DS ngày 29/6/2016.
Đề nghị xem xét và hủy
bỏ bản án theo thủ tục giám đốc thẩm đới với bản án số sơ thẩm số
33/2016/DSST ngày 23 tháng 8 năm 2016 của
Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, Sóc Trăng.
LÝ
DO ĐỀ NGHỊ:
Khi
tòa án nhân dân Huyện Mỹ Xuyên thụ lý hồ sơ đòi lại quyền sử dụng đất của ông Dương
Khương, có đưa giấy triệu tập mời cha của tôi tức là ông Đinh Ri đến để tham
gia phiên tòa xét xử nhưng vì hôm đó cha tôi bị bệnh nên vợ chồng tôi đến thay
để nghe và tham gia phiên xét xử về vụ án tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, Tòa án và Hội Đồng Xét xử không tiến hành thủ tục xét xử mà thông
báo hoãn phiên tòa lại tháng sau với lý do là phải có mặt của bị đơn mới xét xử
được, Tòa án chỉ nói bằng miệng, không có quyết định hoãn, giấy mời xử lần sau.
Từ đó về sau, tôi không hề nhận được quyết định hay giấy triệu tập, giấy mời gì.
Tuy nhiên, cho đến ngày 29 tháng 8 năm 2016 tôi có nhận được bản án số 33 ngày
23 tháng 8 năm 2016 của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên tuyên xử tôi và ông Thạch
Nhiễu ( cùng là bị đơn ) có nghĩa vụ hoàn trả giá trị quyền sử dụng đất có diện
tích 317m2 tại thửa đất 577, tờ bản đồ số 9, Tọa lạc Tại Ấp Đại Nghĩa Thắng, Xã
Đại Tâm, Huyện Mỹ Xuyên, Tỉnh Sóc Trăng cho ông Dương Khương ( là nguyên đơn )
tương ứng số tiền là 540.510.000 đồng và quyết định cưỡng chế phần đất và tài sản
của tôi. Trong khi đó, nguồn gốc đất tôi đang ở hiện nay là do bà ngoại là cụ
Trần Thị Út và cha mẹ tôi đã sinh sống cố định từ năm 1970 cho đến nay, hơn nữa
tôi có giấy xác nhận việc cha mẹ của tôi là ông Đinh Ri và Bà Dương Thị Xà Vi đã
cư ngụ ở diện tích đất trên và nuôi mẹ vợ là bà Trần Thị Út tới qua đời, thời
gian sinh sống đã trên 20 năm. Việc xác nhận trên được ký xác nhận năm
1997; có nhiều người ký tên xác nhận sự
việc chúng tôi sinh sống ổn định trên thửa đó và đất có nguồn gốc cụ thể, chính
xác. Nhưng ngày 28 tháng 7 năm 1994 ông Dương Khương đã được ủy ban nhân dân
huyện Mỹ Xuyên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên phần đất gia đình của
chúng tôi, mà sự việc ông Dương Khương được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
chúng tôi không ai hay biết sự việc đó, ông Dương Khương cũng không thông báo
hay cần có sự ý kiến thống nhất của phía gia đình chúng tôi về sự việc trên (
vì từ ngày 18/4/1994 cha tôi đã nhận lệnh bắt và bị tạm giam tại trại giam của
công An Mỹ Xuyên, cha tôi bị bắt cũng do nguyên nhân ông Dương Khương thường
xuyên vô cớ kiếm chuyện với cha mẹ tôi, dẫn tới việc xô xát giữa cha mẹ tôi với
ông Khương; sau khi cha tôi bị giam, mẹ tôi mỗi ngày phải đi làm thuê làm mướn
để nuôi con nhỏ ). Khi nhận được bản án của Tòa Án Nhân Dân Huyện Mỹ Xuyên tôi
có gửi đơn khiếu nại về vụ việc trên nhưng không nhận được phản hồi từ Tòa án.
Do kém hiểu biết pháp luật nên tôi không biết thời hạn kháng cáo và trình tự
kháng cáo như thế nào nên đã không kháng cáo bản án nêu trên.
Căn
cứ theo khoản 1 điều 326 BLTTDS, những căn cứ, điều kiện để kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm bao gồm:
“Điều 326. Căn cứ, điều kiện để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
1.
Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:
a)
Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan
của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự;
b) Có vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của
mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định
của pháp luật;
c)
Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định
không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến
lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ
ba.”
Từ những căn cứ pháp luật
và những lẽ trên. Tôi nhận thấy Tòa án ra bản án số 33/2016/DSST ngày 23 tháng 8 năm 2016 của Tòa Án Huyện Mỹ Xuyên không khách quan, gây ra thiệt hại về
quyền và lợi ích của gia đình tôi, vi phạm tố tụng khi xét xử không mời tôi và
chồng tôi là ông Thạch Nhiễu tham gia tố tụng theo trình tự luật định, không mời
cha tôi tham gia phiên tòa.Và nhận thấy tôi cần phải gửi đơn đề nghị giám đốc
thẩm nhằm bảo vệ quyền, lợi ích họp pháp của gia đình tôi. Bản án nêu trên đã Kết
luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của
vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự vì nguồn gốc đất của
ông bà ngoại tôi, ngoại tôi Trần Thị Út, khi ngoại tôi mất thì phải chia thừa kế
cho mẹ tôi và ông Dương Khương vậy lý do gì ông Dương Khương lén lút xin cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất trên 1 mình? đây là đất thừa kế. Việc ủy ban nhân
dân huyện Mỹ Xuyên cấp giấy chứng nhận cho hộ ông Dương Khương là trái quy định
pháp luật đất đai. Bản án sơ thẩm cũng thừa nhận nguồn gốc đất như vậy, ông
Khương cho rằng bà Ngoại tôi cho ông Khương nhưng ông Khương không có văn bản,
bằng chứng bà ngoại tôi cho ông Khương. Bản án đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục
tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình,
dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của
pháp luật khi không mời tôi, ông Thạch Nhiễu và cha tôi ông Đinh Ri tham gia
phiên tòa sơ thẩm. Và đã sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản
án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương
sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của người thứ ba.”
Yêu
cầu của người đề nghị:
Để
đảm bảo công bằng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tôi là bị đơn trong vụ
án nêu trên, nay tôi kính đề nghị đến Chánh Án Tòa Án Cấp Cao tại Thành Phố Hồ
Chí Minh kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm hủy bản án dân sự sơ thẩm số 33/2016/DSST, ngày 23 tháng 8 năm 2016 của
tòa án huyện Mỹ Xuyên, Tỉnh Sóc Trăng
xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật hiện hành.
Kính
mong Qúy cơ quan giải quyết cho tôi theo đúng quy định của pháp luật nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình cũng như bản thân tôi.
Trân
trọng!
Kèm
theo đơn đề nghị là các tài liệu, chứng cứ sau đây:
-
Bản
án dân sự sơ thẩm số 33, ngày 23 tháng 8 năm 2016 về việc “ Tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất
” của tòa án huyện Mỹ Xuyên, Tỉnh Sóc
Trăng.
-
Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện Mỹ Xuyên cấp cho hộ ông Dương Khương
năm 1994
-
Giấy
triệu tập đương sự số 249/2016/GTT của
Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên
-
Giấy
xác nhận
-
Quyết
định về việc cưỡng chế kê biên quyền sữ dụng đất và tài sản gắn liền với đất
-
Tờ
tường trình về vụ việc dẫn đến xãy ra tranh chấp.
Người làm đơn đề nghị
|
Luật Sư Tư Vấn Những Căn Cứ Hủy Bản Án Sơ Thẩm |
Theo quy định tại Điều khoản 2 Điều 250 Bộ luật tố tụng hình
sự thì Toà án cấp Phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm
với thành phần Hội đồng xét xử mới trong những trường hợp: Thành phần Hội đồng
xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục
tố tụng; người được Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố không có tội nhưng có căn cứ
cho rằng người đó đã phạm tội.
Như vậy theo quy định trên thì Thứ nhất: Toà án cấp phúc thẩm
hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại khi nhận thấy việc điều tra ởcấp sơ thẩm
không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được.
Thứ hai: Toà án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét
xử lại ởcấp sơ thẩm với thành phần Hội đồng xét xử mới trong những trường hợp
sau đây:
+ Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc
có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng;
+ Người được Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố không có tội nhưng
có căn cứ cho rằng người đó đã phạm tội.
Thứ ba: Khi hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại,
Toà án cấp phúc thẩm phải ghi rõ lý do của việc hủy bản án sơ thẩm.
Thứ tư: Khi huỷ bản án sơ thẩm để xét xử lại, Toà án cấp
phúc thẩm không quyết định trước những chứng cứ mà Toà án cấp sơ thẩm cần phải
chấp nhận hoặc cần phải bác bỏ, cũng như không quyết định trước về điều khoản Bộ
luật hình sự và hình phạt mà Toà án cấp sơ thẩm sẽ phải áp dụng.
...................................
Căn cứ Quy định bộ luật tố tụng hình sự và hồ sơ vụ án, nội
nung vụ án. Vụ án này theo tôi cấp phúc
thẩm nên hủy bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại là phù hợp và cần thiết.
|
Quy định về bắt người |
Trả lời: Điều 81 BLTTHS quy định về bắt người trong trường hợp khẩn cấp như sau:
“1. Trong những trường hợp sau đây thì được bắt khẩn cấp:
a) Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
c) Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ.
2. Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp:
a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
b) Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;
c) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
3. Nội dung lệnh bắt và việc thi hành lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp phải theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 80 của Bộ luật này.
4. Trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn.
Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ bắt khẩn cấp quy định tại Điều này. Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt.”
Căn cứ quy định trên, có ba trường hợp bắt khẩn cấp tương ứng với các khoản a, b, c khoản 1 Điều 81 BLTTHS.
Mục 3 Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP quy định:
“3. Về căn cứ hồ sơ bắt người trong trường hợp khẩn cấp, thủ tục phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp ( Điều 81)
3.1. Chỉ được bắt khẩn cấp khi có đủ tài liệu chứng minh việc bắt khẩn cấp thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 81 của BLTTHS. Nếu bắt khẩn cấp theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này thì trong hồ sơ phải có tài liệu chứng minh các căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Nếu bắt khẩn cấp theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này thì trong hồ sơ phải có biên bản ghi lời khai của người bị hại hoặc lời khai của người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm và các tài liệu hoặc căn cứ khác chứng tỏ người đó sẽ bỏ trốn. Nếu bắt khẩn cấp theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều này thì phải thu thập hoặc ghi nhận được dấu vết, tài liệu, đồ vật liên quan đến tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở, nơi làm việc của người bị nghi thực hiện tội phạm đó.
Cần lưu ý, để nhận định đúng việc người đó có thể trốn theo quy định tại các điểm b, c khoản 1 Điều 81 của BLTTHS, người có thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp và Viện kiểm sát khi xét phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp phải căn cứ và đánh giá một cách toàn diện về các mặt như: nhân thân người đó (có tiền án, tiền sự, lang thang không có nơi cư trú rõ ràng….), tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội và loại phạm tội được thực hiện và thực tiễn cho thấy người phạm tội thường trốn như tội trộm cắp, lừa đảo, cướp, giết người, mua bán trái phép các chất ma tuý…
Do tính chất khẩn cấp nên trong mọi trường hợp việc bắt khẩn cấp không cần Viện kiểm sát phê chuẩn trước khi thi hành, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn”. |
Luật Sư Tư Vấn Sửa Đổi, Bổ Sung, Rút Đơn Kháng Cáo |
Khoản 1 điều 256 BLDS quy định về việc thay đổi, bổ sung kháng cáo ở tòa án phúc thẩm như sau: “1. Trước khi bắt đầu phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo, Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị, nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu, nếu thời hạn kháng cáo, kháng nghị đã hết…..
3. Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị trước khi mở phiên toà phải được làm thành văn bản và gửi cho Toà án cấp phúc thẩm. Toà án cấp phúc thẩm phải thông báo cho các đương sự biết về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị.
Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị tại phiên toà phải được ghi vào biên bản phiên toà.”. Như vậy, nếu vẫn còn thời hạn kháng cáo thì người kháng cáo (trong đây bao gồm cả đương sự) có quyền thay đổi nội dung kháng cáo đối với phần bản án, hoặc toàn bộ bản án mà mình có quyền kháng cáo. Trường hợp tiếp theo là nếu thời hạn kháng cáo đã hết thì trước khi bắt đầu phiên tòa, tại phiên tòa, người kháng cáo có thể trình bày việc thay đổi, bổ sung nội dung kháng cáo nhưng không sẽ không được vượt quá phạm vi kháng cáo đã gửi cho Tòa trong thời hạn kháng cáo. Điều này là phù hợp vì ở đây đã loại trừ đi trường hợp không có kháng cáo trong thời hạn kháng cáo. Bởi điểm mấu chốt của xét xử phúc thẩm là có yêu cầu kháng cáo, kháng nghị và bản án chưa có hiệu lực. Như vậy, lúc này, dù đã có kháng cáo, nhưng sau khi hết hạn kháng cáo và sắp đưa ra xét xử phiên tòa phúc thẩm, tuy hết thời gian kháng cáo nhưng lúc này đương sự vẫn có thể thay đổi được nội dung kháng cáo; tuy nhiên, vẫn để đảm bảo tính chất lượng trong làm việc và xét xử, tòa phúc thẩm sẽ chỉ xét xử những kháng cáo bị thay đổi nhưng không vượt quá phạm vi đã được kháng cáo trong thời hạn luật định cho kháng cáo.Như vậy, quyền thay đổi yêu cầu của đương sự trước khi mở phiên tòa sơ thẩm rộng hơn quyền thay đổi kháng cáo trước phiên tòa phúc thẩm.
Cũng trong quy định tại điều 11 của nghị quyết 06/2012/NQ-HĐTP thì khoản 1 có nêu rõ: “1. Về việc thay đổi, bổ sung kháng cáo, kháng nghị cần phân biệt như sau:
a) Trường hợp vẫn còn thời hạn kháng cáo, kháng nghị quy định tại Điều 245 và Điều 252 của BLDS, thì người kháng cáo, Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung nội dung kháng cáo, kháng nghị đối với phần bản án hoặc toàn bộ bản án mà mình có quyền kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp người kháng cáo, Viện kiểm sát đã rút một phần hoặc toàn bộ kháng cáo, kháng nghị nhưng sau đó có kháng cáo, kháng nghị lại mà vẫn còn trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị, thì vẫn được chấp nhận để xét xử phúc thẩm theo thủ tục chung.
b) Trường hợp đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định tại Điều 245 và Điều 252 của BLDS, thì trước khi bắt đầu phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm người kháng cáo, Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo, kháng nghị nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị đã gửi cho Toà án trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị.”
Như vậy, pháp luật không giới hạn việc thay đổi, bổ sung yêu cầu kháng cáo của người kháng cáo trong thời hạn kháng cáo, cụ thể là theo khoản 1 điều 11 nghị quyết này thừa nhận việc kháng cáo có thể rút 1 phần hay toàn bộ sau đó kháng cáo lại, thay đổi nhiều lần vẫn có thể được chấp nhận nếu còn thời gian kháng cáo. Sau khi hết thời hạn này, thì phạm vi thay đổi sẽ chỉ còn trong phạm vi đã kháng cáo.
Trân trọng |
Những Căn Cứ Bị Khởi Tố |
Khái niệm quyết định khởi tố vụ án hình theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
Điều 154 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định:
“- Quyết định khởi tố vụ án hình sự phải ghi rõ căn cứ khởi tố, điều, khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này.
– Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm sát phải gửi quyết định đó đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiến hành điều tra.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải gửi quyết định đó kèm theo tài liệu liên quan đến Viện kiểm sát có thẩm quyền để kiểm sát việc khởi tố.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, Tòa án phải gửi quyết định đó kèm theo tài liệu liên quan đến Viện kiểm sát cùng cấp”.
2. Bình luận và phân tích quyết định khởi tố vụ án hình theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
– Quyết định khởi tố vụ án hình sự là hành vi tố tụng hình sự của một pháp nhân (chủ thể tiến hành tố tụng) có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự biểu hiện bằng một văn bản tố tụng hình sự xác định một sự kiện pháp lý xảy ra trong thực tế là có dấu hiệu của những tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự nhằm khởi phát những quan hệ tố tụng, mở đầu cho việc thực hiện những hành vi tố tụng hình sự cần thiết để làm rõ sự thật khách quan về sự kiện đó.
Quvết định khởi tố vụ án hình sự, xét từ giác độ giá trị pháp lý là văn bản pháp lý làm cơ sở ban đầu để tiến hành một cách hợp pháp các hoạt động tiếp theo nhằm làm rõ vụ án hình sự và là cơ sở pháp lý trực tiếp của các quan hệ tô tụng hình sự phát sinh liên quan đến việc giải quyết vụ án. Tất cả các hoạt động tô tụng hình sự chỉ được tiến hành sau khi có quvết định khởi tố vụ án hình sự (trừ trường hợp khám nghiệm hiện trường, bắt khẩn cấp, tạm giữ và khám người trong các trường hợp này thì được tiến hành trước khi quyết định khởi tố vụ án hình sự).
Quyết định khởi tố vụ án hình sự là mở đầu giai đoạn khới tố vụ án hình sự. Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được bắt đầu từ khi các cơ quan có thẩm quyền nhận được tin báo về tội phạm; kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền ra được một trong hai quyết định là quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
– Theo quy định tại Điều luật, chỉ có một số cơ quan và người có chức vụ có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự và việc khởi tố vụ án chỉ được tiến hành khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm.
+ Khởi tố vụ án hình sự, trước hết là trách nhiệm của cơ quan điều tra, của Thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và của Thu trưởng các cơ quan khác được pháp luật giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Khởi tố vụ án còn có thể được thực hiện bởi Viện kiểm sát đang kiểm sát việc khởi tố, điều tra vụ án hoặc thực hiện quyền công tố trước tòa.
Khởi tố vụ án có thể được tiến hành bởi Hội đồng xét xử đang xét xử vụ án hình sự.
+ Cơ quan điều tra có trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự trong mọi trường hợp
+ Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân ra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với tất cả các tội phạm trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
+ Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân ra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử cua Tòa án quân sự.
+ Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao ra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với một số loại tội phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp.
+ Cơ quan điều tra có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với tội phạm xảy ra trên địa phận của mình. Trong trường hợp không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra nơi nhận được tin báo tố giác về tội phạm hoặc nơi người bị tố giác, người bị tạm giữ, cư trú.
Thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra do Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra được phân công điều tra vụ án thực hiện.
Thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Thủ trưởng các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tô vụ án trong những trường hợp:
+ Đối với tội phạm ít nghiêm trọng, trong trường hợp quả tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng, thì ra quyết định khới tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày khởi tố vụ án.
+ Đối với tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, ít nghiêm trọng nhưng phức tạp, thì ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày khởi tố vụ án.
Đối với đơn vị Bộ đội biên phòng và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Bộ luật chỉ chơ phép Thủ trưởng đơn vị, Thủ trưởng cơ quan có quyền khởi tố, những người khác không giữ chức vụ Thủ trưởng không có thẩm quyền khới tố vụ án hình sự.
+ Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Đó là những trường hợp mà quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, của Thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao tiến hành một số hoạt động điều tra không đủ căn cứ pháp lý. Luật không quy định Viện trưởng, Phó Viện trưởng như trước đây mà chỉ quy định Viện kiểm sát khởi tố, như vậy, những người nào đủ tư cách là đại diện của Viện kiểm sát đều có thẩm quyền khởi tố vụ án trong những trường hợp luật định.
+ Hội đồng xét xử chỉ khởi tố vụ án khi đang xét xử vụ án hình sự mà phát hiện ra tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra.
Hội đồng xét xử có thể không khởi tố mà yêu cầu Viện kiểm sát đang thực hành quyền công tố trước tòa đối với vụ án đang xét xử, khởi tố vụ án hình sự.
Theo quy định, trong mọi trường hợp, dù cơ quan hay người nào ra quyết định khởi tố thì trong quyết định khởi tô’ cũng phải ghi rõ thời gian, căn cứ, họ tên, chức vụ người ra quyết định.
+ Để bảo đảm việc khởi tố được thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự, bảo đảm không vi phạm các quyền và các lợi ích hợp pháp của công dân Điều luật quy định những trách nhiệm và công việc mà cơ quan khởi tố vụ án hình sự phải tiến hành trong khoảng thời gian 24 giờ kể từ thời điểm khởi tố.
Theo quy định tại khoản 3 của Điều luật, trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm sát đã khởi tố vụ án phải gửi quyết định đó đến Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra. Quy định này xuất phát từ nguyên tắc đã nêu trên, quyết định khởi tố vụ án hình sự, về mặt hình thức, là cơ sở pháp lý trực tiếp để Cơ quan điều tra có thể tiến hành các hoạt động điều tra; mặt khác, về mặt nội dung, những điều khoản Bộ luật hình sự và hành vi phạm tội và các thông tin khác trong quyết định khởi tố là căn cứ định hướng ban đầu quan trọng đối với hoạt động điều tra.
Cũng tại khoản 3, Điều luật quy định, quyết định khởi tố kèm theo tài liệu liên quan đến việc khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được gửi tới Viện kiểm sát để kiểm sát việc khởi tố. Viện kiểm sát với những đại diện cụ thể là Viện trưởng, Phó Viện trưởng và các Kiểm sát viên thực hành kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình khởi tố vụ án hình sự, có quyền hủy bỏ, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan nói trên.
Theo quy định tại khoản 3 của Điều luật, quyết định khởi tố của Hội đồng xét xử phải được gửi cho Viện kiểm sát để xem xét, quyết định việc điều tra. Để bảo đảm tính thống nhất của pháp chế và tính có căn cứ xác đáng của các quyết định khởi tố vụ án hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự quy định Viện kiểm sát phải xem xét các quyết định khởi tố của Hội đồng xét xử đang xét xử vụ án. Nếu xét thấy quyết định khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử không có căn cứ thì Viện kiểm sát kháng nghị lên Tòa án cấp trên. Trong trường hợp Quyết định khởi tố vụ án của Hội đồng xét xử có đủ căn cứ thì Viện kiểm sát quyết định việc điều tra. Căn cứ vào khoản 2 Điều 165, Bộ luật tố tụng hình sự, Viện kiểm sát đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra. Khi xét thấy cần thiết (ví dụ, Hội đồng xét xử đã khởi tố vụ án hình sự về một tội phạm hoạt động tư pháp và có liên quan đến điều tra viên), Viện kiểm sát có thể trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Đối với yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử, Điều luật quy định phải được gửi cho Viện kiểm sát để xem xét, quyết định việc khởi tố. Viện kiểm sát có trách nhiệm khi nhận được yêu cầu của Hội đổng xét xử về việc khởi tố vụ án hình sự đối với tội phạm hay người phạm tội mà Hội đổng xét xử mới phát hiện, trong quá trình khởi tố phải tiến hành kiểm tra, xác minh hoặc yêu cầu các cơ quan hữu quan kiểm tra, xác minh xem có đủ dấu hiệu tội phạm làm căn cứ khởi tố hay không và ra các quyết định phù hợp khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Ngay sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự cơ quan có thẩm quyền phải xem xét ngay việc có cần áp dụng các biện pháp ngăn chặn hay không và phải thực hiện ngay mọi biện pháp thu thập chứng cứ làm rõ vụ án hình sự.
– Điều luật xác định những giới hạn cần thiết về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của các chủ thể có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự.
+ Điều luật quy định khi xác định có dấu hiệu tội phạm cơ quan điều tra phải khởi tố vụ án hình sự. Điều có có nghĩa là khi đã có căn cứ để khởi tố (dấu hiệu tội phạm) thì cơ quan điều tra không được phép từ chối, không được phép quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Khởi tố vụ án hình sự lúc này có ý nghĩa là nghĩa vụ của cơ quan điều tra. Quy định của Điều luật cho thấy đây là nghĩa vụ bắt buộc.
+ Điều luật cũng quy định giới hạn thẩm quyền khởi tố của Thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Thủ trưởng các cơ quan Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Các cơ quan đơn vị này chỉ được ra quyết định khởi tố vụ án trong những trường hợp phát hiện những hành vi phạm tội tới mức truy cứu trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực quản lý của mình (Điều 164, Bộ luật tố tụng hình sự). Căn cứ vào quy định của Điều luật, việc khởi tố vụ án của các cơ quan, đơn vị này không phải là nghĩa vụ bắt buộc. Trong những trường hợp phát hiện những hành vi phạm tội tới mức truy cứu trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực quản lý của mình mà có những lý do khách quan, chủ quan khác nhau, ví dụ không có cán bộ có năng lực pháp lý để phân tích đánh giá đầy đủ về hành vi phạm tội, thì có thể chuyển tin báo cho cơ quan điều tra có thẩm quyền và yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Các cơ quan đơn vị này có nghĩa vụ phối hợp với cơ quan điều tra trong việc khởi tố và tiến hành các hoạt động điều tra làm rõ tội phạm
+ Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án trong trường hợp Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra, Thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Thủ trưởng các cơ quan Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khi quyết định không khởi tố vụ án của các cơ quan này không đúng với các quy định nói ở Điều 107 của Bộ luật tố tụng hình sự. Ngoài ra, Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu. Tuy nhiên, căn cứ vào lời văn của điều luật thì việc khởi tố trong trường hợp này không là nghĩa vụ bắt buộc. Viện kiểm sát có thể căn cứ vào tình tiết cụ thể của vụ án và những căn cứ mà các cơ quan đó đã xác định để không khởi tố để quyết định khởi tố hay không vụ án hình sự.
+ Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án trong trường hợp qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới. Trước đây đã có quy định thẩm quyền khởi tố vụ án trong trường luật này thuộc về Tòa án. Trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003 đã chính xác hóa: thẩm quyền khởi tố trong trường hợp đang xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới thuộc về Hội đồng xét xử. Tuy nhiên, căn cứ vào quy định của Điều luật, Hội đồng xét xử có quyền khởi tố mà không bắt buộc, vì trong những trường hợp mặc dầu phát hiện hành vi phạm tội mới nhưng xét thấy không cần khởi tố thì Hội đồng xét xử không nhất thiết phải khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố.
Như vậy, trước khi xét xử, ví dụ ngay trong giai đoạn chuẩn bị xét xử mà Tòa án phát hiện tội phạm mới hoặc người phạm tội mới thì Tòa án không ra quyết định khởi tố vụ án hình sự mà trả lại hồ sơ để Viện kiểm sát quyết định việc điều tra bổ sung. Hội đồng xét xử quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố chỉ trong trường hợp qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện tội phạm và người phạm tội. Điều đó cũng có nghĩa là căn cứ khởi tố phải là những dấu hiệu của tội phạm mà chính Hội đồng xét xử phát hiện được qua quá trình xét xử và liên quan đến vụ đang xét xử chứ không phải là những thông tin về một vụ án khác mà các thành viên của Hội đồng xét xử thu được trong thời gian đang xét xử.
– Điều luật quy định những yêu cầu bắt buộc đối với một quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Quyết định khởi tố vụ án hình sự phải ghi rõ thời gian, căn cứ, điều khoản, họ tên, chức vụ người quyết định.
Vì xác định thời điểm khởi tô vụ án có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết hàng loạt những vấn đề sau này liên quan đến việc giải quyết vụ án. Trong quyết định khởi tố phải xác định rõ dựa trên căn cứ nào để khởi tố vụ án. Điều đó có nghĩa là cơ quan, người quyết định khởi tố phải chỉ việc khởi tố dựa trên những cơ sở pháp lý nào, phải viện dẫn những văn bản và điều luật làm căn cứ cho điều đó, chỉ rõ những dấu hiệu của tội phạm cụ thể trong hành vi phạm tội đã xảy ra; nêu rõ hành vi bị khởi tố được quy định trong điều khoản cụ thể nào của Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Trong quyết định khởi tố vụ án hình sự phải ghi rõ cơ quan, họ tên, chức vụ đương nhiệm của người quyết định khởi tố.
– Điều 154 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã chính xác hóa thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự của những chủ thể có quyền năng này.
Điều luật quy định Thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Thủ trưởng các cơ quan Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố vụ án trong những trường hợp quy định tại Điều 164 Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ vào khoản 1 và khoản 2 của Điều 164 nói trên, Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm. lực lượng Cảnh sát biển có thẩm quyền khởi tố giới hạn. Điều đó nghĩa là đối với tội phạm ít nghiêm trọng, trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng các chủ thể nói trên có quyền khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành điều tra vụ án và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát trong thời hạn 20 ngày kể từ khi khởi tố. Còn đối với trường hợp phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì các quyền năng của những chủ thể này trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự bị luật giới hạn ở việc khởi tố, tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ vụ án cho cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn 7 ngày kể từ khi khởi tố. Đối với các cơ quan không phải là cơ quan điều tra trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân mà luật cho phép tiến hành một số hoạt động điều tra thì Điều luật không quy định giới hạn về loại tội phạm, nhưng chỉ cho phép được khởi tố, tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ vụ án cho cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn 7 ngày kể từ khi khởi tố.
Quy định đó đã chính xác hóa thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với một trường hợp đặc biệt không phải cơ quan điều tra thay cho việc quy định đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, cơ quan Kiểm lâm, cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, Bộ luật TTHS 2015 chỉ cho phép thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Thủ trưởng các cơ quan Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, mới được quyền khởi tố vụ án hình sự. Đối với đơn vị Bộ đội biên phòng, người có thẩm quyền khởi tố cụ thể là Cục trưởng Cục Trinh sát biên phòng; Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng cấp tỉnh; Trưởng đồn biên phòng. Đối với Cơ quan Hải quan, người có thẩm quyền khởi tố cụ thể là Cục trưởng, Phó cục trưởng Kiểm soát; Cục trưởng, Phó cục trưởng Giám quản; Cục trưởng, Phó cục trưởng Cục Hải quan cấp tỉnh; Giám đốc Hải quan cửa khẩu được Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan chỉ định. Đối với Cơ quan Kiểm lâm người có thẩm quyền khởi tố cụ thể là Cục trưởng, Phó cục trưởng Cục Kiểm lâm; Chi cục trưởng, Phó chi cục trưởng Cục Kiểm lâm; Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm.
Các cơ quan khác trong Công an nhân dán, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra chủ yếu là các đơn vị trinh sát An ninh bảo vệ chính trị, bảo vệ kinh tế, bảo vệ văn hóa hóa tư tưởng, các đơn vị Cảnh sát trực tiếp đấu tranh chống tội phạm xâm phạm trật tự an toàn xã hội, các tội phạm kinh tế, hình sự, các tội phạm về ma túy… có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự, lực lượng an ninh, tình báo trong quân đội…
Căn cứ vào quy định của Điều 154, trong lực lượng An ninh nhân dân thủ trưởng các đơn vị cấp Tổng cục, cấp cục, cấp phòng, cấp đội trực tiếp đấu tranh chống tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự, bao gồm các lực lượng tình báo, chống gián điệp, bảo vệ nội bộ, quản lý xuất nhập cảnh… Trong lực lượng Cảnh sát nhân dân thủ trưởng các đơn vị cấp Tổng cục, cấp cục, cấp phòng, cấp đội của lực lượng Cảnh sát hình sự, Cảnh sát kinh tế, Cảnh sát phòng chống tội phạm về ma túy trực tiếp đấu tranh chống tội phạm xâm phạm trật tự an toàn xã hội, các tội phạm kinh tế, hình sự, các tội phạm về ma túy… có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự. Tương tự như thế, trong Quân đội nhân dân ngoài cơ quan điều tra thì các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như Thủ trưởng đơn vị An ninh quân đội, Tình báo quân sự, thủ trưởng đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn, lữ đoàn có quyền khởi tố những tội phạm phát hiện được trong lĩnh vực trách nhiệm của mình. Luật không cho phép các chỉ huy cấp phó và cấp dưới được quyền khởi tố vụ án hình sự.
+ Tòa án theo quy định mới trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015 không có thẩm quyền khởi tố vụ án, mà chỉ Hội đồng xét xử nếu qua xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới có quyền khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố. Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án hình sự được thực hiện theo nguyên tắc như đối với các trường hợp Hội đồng xét xử ra các quyết định khác trong quá trình xét xử. |
|
Hỗ trợ trực tuyến |
ĐIỆN THOẠI GẶP
LUẬT SƯ :
0972238006(zalo, viber, telegram) |
Hỗ trợ trực tuyến: |
|
0972238006 |
|
|