HOẠT ĐỘNG LUẬT SƯ
- Luật sư giải quyết thuận tình ly hôn tại tphcm
- Luật sư chuyên đại diện ủy quyền ly hôn
- Luật sư chuyên soạn thảo các loại hợp đồng
- Luật sư ly hôn tại Tân Bình, Gò Vấp
- Luật sư chuyên đại diện cho doanh nghiệp tại tòa án
- Văn phòng luật sư tư vấn
- Luật sư chuyên tranh chấp nhà đất với người nước ngoài
- Luật sư chuyên tranh chấp nhà đất cho việt kiều tại sài gòn
- Luật sư chuyên khởi kiện tranh chấp thừa kế
- Luật sư chuyên khởi kiện thu hồi nợ
- Luật sư chuyên làm giấy tờ nhà đất tại tphcm
- Luật sư giỏi tại thành phố hồ chí minh
- Dịch vụ sang tên sổ đỏ sổ hồng
- Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng thuê nhà xưởng
- Tư vấn người nước ngoài ly hôn với người việt nam
- Luật sư giỏi về thừa kế tại tphcm
- Luật sư tư vấn luật đất đai
- Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị hại trong vụ án hình sự
- Luật sư chuyên tư vấn chia tài sản sau khi ly hôn
- Luật sư pháp chế doanh nghiệp
- Phí thuê luật sư ly hôn tại tphcm
- Tư vấn thủ tục nhận thừa kế nhà đất
- Luật sư cho việt kiều và người nước ngoài
- Luật sư giỏi chuyên tố tụng
- Luật sư cho công ty tại quận 6, bình tân
- Luật sư cho công ty tại quận 5, quận 11, quận 10
- Luật sư tư vấn kiện đòi nhà cho thuê
- Luật sư chuyên nhà đất quận 9, quận 12
- Luật sư tư vấn cho cá nhân
- Luật sư chuyên soạn thảo, review hợp đồng
- Luật sư chuyên bào chữa các vụ án hình sự
- Luật sư tại thành phố Thủ Đức
- Luật sư tư vấn vu khống nói xấu xúc phạm danh dự trên facebook
- Luật sư tư vấn soạn thảo văn bản, hợp đồng
- Luật sư tư vấn soạn đơn khởi kiện
- Luật sư hình sự tại thành phố hồ chí minh
- Luật sư nhà đất tại thành phố thủ đức
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội lây lan dịch bệnh
- Luật sư giỏi chuyên về lao động
- Việt kiều có được thừa kế nhà đất tại việt nam không?
- Luật sư chuyên giải quyết tranh chấp mua bán nhà đất
- Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng thuê nhà mùa covid
- Luật sư tư vấn phân chia tài sản chung của vợ chồng
- Luật sư tư vấn thu hồi công nợ
- Luật sư chuyên giải quyết tranh chấp
- Luật Sư Làm Ly Hôn Nhanh Tại Tphcm
- Tư Vấn Kiện Đòi Lại Nhà Cho Ở Nhờ
- Luật sư tư vấn kiện đòi nhà
- Luật sư tư vấn mua bán nhà đất
- Luật sư tư vấn hợp đồng vô hiệu
- Tư vấn hợp đồng giả cách
- Luật Sư Hòa Giải Tranh Chấp Đất Đai
- Tư Vấn Tranh Chấp Ly Hôn
- Luật Sư Chuyên Ly Hôn Nhanh Trọn Gói
- Tư Vấn Chuyển Nhượng Cổ Phần Vốn Góp
- Luật Sư Bảo Hộ Doanh Nghiệp
- Luật Sư Giải Quyết Ly Hôn Nhanh Tại Tphcm
- Tư Vấn Kiện Đòi Nợ
- Luật Sư Tranh Chấp Nhà Ở
- Luật Sư Chuyên Soạn Đơn Khởi Kiện Khiếu Nại
- Luật sư tư vấn soạn đơn ly hôn
- Luật Sư Tư Vấn Thành Lập Doanh Nghiệp
- Luật Sư Tư Vấn Tại Công Ty
- Luật Sư Chuyên Nhà Đất Tại Quận 6, Bình Tân, Bình Chánh
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Nuôi Con Khi Ly Hôn
- Luật Sư Tư Vấn Cho Người Hoa Tại tphcm/Hoa Kiều
- Luật Sư tư Vấn Đơn Phương Chấm Dứt Hợp Đồng Lao Động
- Luật Sư Tư Vấn Cho Việt Kiều Úc, Mỹ, Canada
- Luật Sư Tư Vấn Luật Thường Xuyên Cho Doanh Nghiệp
- Công Chứng Khai Nhận Thừa Kế
- Văn Phòng Luật Sư Tư Vấn Chia Tài Sản Khi Ly Hôn
- Luật Sư Tư Vấn Bất Động Sản
- Luật Sư Tư vấn Thừa Kế Tại Quận 6, Bình Tân
- Luật Sư Tranh Chấp Kinh Doanh Thương Mại
- Luật Sư Chuyên Đại Diện Ủy Quyền Tại Tòa Án
- Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Tại Bình Tân
- Luật Sư Ly Hôn Tại Quận 6
- Luật Sư Chuyên Ly Hôn Tại Bình Thạnh, Gò Vấp
- Luật Sư Hình Sự Tại Biên Hòa
- Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Tại Quận 10, Quận 11
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Cố Phần Vốn Góp
- Luật Sư Bảo Vệ Bào Chữa Tại Trung Tâm Trọng Tài
- luật sư giỏi uy tín tại tphcm
- Luật Sư tại Quận Tân Phú
- Luật Sư Quận tại Phú Nhuận
- Luật Sư tại Quận Gò Vấp
- Dịch Vụ Hợp Thức Hóa Nhà Đất
- Luật Sư Tư Vấn Thừa Kế Nhà Đất Cho Việt Kiều
- Luật Sư Tư Vấn Cho Công Ty
- Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Tại Bình Chánh
- Luật Sư Chuyên Khởi Kiện Án Hành Chính
- Luật Sư Tư Vấn Lấn Chiếm Đất
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Nhà Đất
- Tư Vấn Cấp Sổ Đỏ, Sổ Hồng
- Luật Sư Tư Vấn Phân Chia Thừa Kế
- Luật Sư Tư Vấn Cho Công Ty Bất Động Sản
- Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Đất Đai Tại Bình Chánh
- Luật Sư Bào Chữa Hình Sự
- Luật Sư Tư Vấn Ngoài Giờ
- Tranh Chấp Thừa Kế Có Yếu Tố Nước Ngoài
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Đòi Lại Tài Sản
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Đứng Tên Dùm Nhà Đất
- Luật sư chuyên tư vấn doanh nghiệp
- luật sư chuyên thuận tình ly hôn cho việt kiều, người nước ngoài
- Luật sư tư vấn đơn phương ly hôn với việt kiều
- Tư vấn ly hôn chia tài sản với việt kiều
- Luật sư tư vấn kháng cáo
- Luật sư chuyên về tranh chấp đất đai tại tphcm
- Luật sư cho ca sĩ, diễn viên
- Tư vấn thay đổi trụ sở, giấy phép công ty
- Luật sư tư vấn tranh chấp nhà thuộc sở hữu chung
- Luật sư tư vấn lập di chúc
- Luật sư giỏi về hình sự tại thành phố hồ chí minh
- Luật sư giỏi về nhà đất tại tphcm
- Luật sư giỏi di chúc thừa kế tại tphcm
- Luật sư chuyên tranh chấp nhà chung cư
- Luật sư giỏi về hình sự tại sài gòn
- Luật sư chuyên tranh chấp hợp đồng góp vốn
- Luật sư chuyên thừa kế di chúc
- Luật sư chuyên tranh chấp vay tiền
- Luật sư tư vấn luật đất đai
- Kê khai thừa kế
- tư vấn công chứng mua bán nhà đất
- luật sư tư vấn thành lập công ty
- luật sư chuyên tư vấn ly hôn chia tài sản
- dịch vụ luật sư di sản thừa kế
- Dịch vụ luật sư nhà đất tại TPHCM
- luật sư tại quận 1
- luật sư tại quận 2
- luật sư tại quận 3
- luật sư tại quận 4
- luật sư tại quận 5
- Luật Sư Tại Quận 6
- luật sư tại quận 7
- luật sư tại quận 8
- luật sư tư vấn, bào chữa tội chống người thi hành công vụ
- Luật sư tại quận 10
- Luật sư tại quận 11
- luật sư tại quận 12
- Luật sư tại quận bình thạnh
- Luật sư tại huyện bình chánh
- Luật sư huyện Nhà Bè
- luật sư huyện hóc môn
- Văn phòng Luật sư Nhà Đất
- Luật sư huyện Cần Giờ
- Văn phòng luật sư tại TPHCM
- Luật Sư Tại Sài Gòn
- luật sư việt nam
- Luật sư Uy Tín
- Luật sư Công Ty
- luật sư tư vấn ly hôn tại thủ đức
- Luật sư chuyên tranh chấp thừa kế
- luật sư bào chữa tại tòa án
- luật sư tại quận bình tân
- Dịch thuật công chứng tại tphcm
- luật sư giỏi và uy tín
- luật sư tư vấn tại nhà
- luật sư tư vấn hợp đồng mua bán nhà đất
- mẫu hợp đồng mua bán nhà
- mẫu hợp đồng đặt cọc mua bán nhà
- luật sư chuyên hình sự
- luật sư tư vấn thu hồi nợ
- luật sư chuyên nhà đất
- luật sư chuyên về khiếu nại, khởi kiện
- luật sư giỏi về nhà đất
- luật sư chuyên hợp đồng kinh tế
- luật sư tư vấn hợp đồng mua bán hàng hóa
- luật sư tư vấn tại bình dương
- luật sư tại biên hòa đồng nai
- Văn phòng luật sư tư vấn ly hôn
- Luật Sư tư vấn tại Long An
- Luật sư tư vấn tại cần thơ
- Văn Phòng Luật Sư Chuyên Thừa Kế
- Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn
- Luật Sư Làm Chứng
- Tư Vấn Công Chứng Nhà Đất
- Luật Sư Tư Vấn Cho Người Nước Ngoài
- Luật Sư Riêng Cho Công Ty
- Luật Sư Tư Vấn Thừa Kế Nhà Đất
- Luật Sư Tư Vấn Về Thuế Kế Toán
- Tư Vấn Công Chứng Tại Nhà
- Luật Sư Thừa Kế Tại Tphcm
- Tư Vấn Luật Cho Việt Kiều Mỹ
- Luật Sư Tư Vấn Cho Việt Kiều Mua Nhà Tại Việt Nam
- Luật Sư Tại Thành Phố Hồ Chí Minh
- Luật Sư Tư Vấn Luật Lao Động
- Luật Sư Riêng Cho Các Công Ty Tại Sài Gòn
- Luật Sư Quận Tân Bình
- Luật Sư Cho Doanh Nghiệp
- luật sư riêng cho các công ty
- luật sư tư vấn thừa kế nhà đất cho việt kiều
- luật sư riêng cho công ty nước ngoài tại việt nam
- Đoàn luật sư tphcm - VPLS Gia Đình
- Tư vấn chia tài sản khi ly hôn
- luật sư tư vấn tranh chấp tại toà án
- Luật sư tư vấn ly hôn có yếu tố nước ngoài
- luật sư bào chữa tại tòa án tphcm
- luật sư tại quận 1
- tin tức nóng
- luật sư tại quận 3
- Luật sư tư vấn bảo hiểm nhân thọ
- luật sư tại quận 5
- luật sư bào chữa tư vấn tội cưỡng đoạt tài sản
- luật sư tại quận 7
- luật sư tại quận 8
- Luật sư chuyên tranh chấp nhà đất quận 9, quận 2
- luật sư tại quận 10
- luật sư tư vấn bào chữa tội tham ô
- Thuê luật sư bào chữa hình sự
- luật sư nhà đất thừa kế tại quận tân bình
- luật sư thừa kế tại huyện bình chánh
- luật sư chuyên thừa kế nhà đất tại quận bình tân
- luật sư bào chữa tội làm con dấu, tài liệu, hồ sơ giả
- luật sư chuyên thừa kế tại quận phú nhuận
- luật sư bào chữa tư vấn tội cố ý gây thương tích
- Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng xây dựng
- Luật Sư Chuyên Về Di Chúc
- luật sư giỏi về nhà đất tại quận bình thạnh
- Tư vấn du học xin visa
- Luật sư tranh chấp nhà đất
- Luật sư tư vấn di chúc
- Luật sư thừa kế nhà đất tại gò vấp
- luật sư tranh tụng tại tòa án
- luật sư tư vấn hợp đồng đặt cọc mua bán nhà đất
- luật sư chuyên tư vấn hợp đồng thuê nhà
- Văn Phòng Luật Sư Chuyên Hình Sự Tại Tphcm
- Luật sư chuyên tranh chấp hợp đồng
- Luật sư tranh chấp bất động sản
- Văn phòng luật sư doanh nghiệp
- Luật Sư Bào Chữa Tại TPHCM
- Luật sư tư vấn hợp đồng vay tiền
- Thủ tục tuyên bố 1 người tâm thần
- Luật sư tư vấn tranh chấp công ty
- luật sư tư vấn thu hồi nợ
- luật sư tư vấn thuận tình ly hôn
- luật sư tư vấn đơn phương ly hôn
- Luật sư tư vấn tranh chấp đất đai
- Dịch vụ luật sư làm sổ hồng sổ đỏ
- Luật Sư Tố Tụng
- Dịch Vụ Luật Sư Ly Hôn Nhanh
- Luật sư tư vấn ly hôn tại quận 5, quận 11
- Luật Sư Tư Vấn Nghĩa Vụ Cấp Dưỡng
- luật sư tư vấn thừa kế theo di chúc
- Luật sư tư vấn phân chia thừa kế quận 6, quận 11, quận 10, quận 5
- Luật sư thừa kế tại quận 1, quận 2, quận 3, quận 4, quận 7
- Luật sư tư vấn phân chia thừa kế tại quận 8, quận 9, quận 12
- Luật sư phân chia thừa kế tại bình chánh, Tân Phú, Bình Thạnh, nhà bè
- Luật Sư Cho Doanh Nghiệp
- Luật Sư Chuyên Tư Vấn Thừa Kế Tại Quận 5
- Tổng đài tư vấn pháp luật hình sự, ly hôn, thừa kế, nhà đất, doanh nghiệp
- Luật sư tư vấn bào chữa tội cá độ, đánh bạc, đá gà
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Mua Bán Nhà
- Tư Vấn Công Chứng Thừa Kế
- Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Kinh Doanh
- Luật Sư Tư Vấn Soạn Thảo Hợp Đồng
- Thừa Kế Nước Ngoài
- Luật Sư Tư Vấn Đòi Lại Nhà Đất
- Dịch Vụ Luật Sư Thu Hồi Nợ Khó Đòi
- Luật sư tư vấn tranh chấp cổ đông công ty
- Khởi Kiện Bồi Thường Danh Dự Nhân Phẩm
- Luật Sư Tranh Chấp Thừa Kế Nhà Đất
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Nhà
- Luật Sư Chuyên Tư Vấn Khởi Kiện
- Luật Sư Hôn Nhân Gia Đình
- Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng Góp Vốn
- Tranh Chấp Tài Sản Chung Của Vợ Chồng
- Luật Sư Giỏi Uy Tín Tại Việt Nam
- Luật Sư Tại Sài Gòn Việt Nam Tư Vấn Cho Việt Kiều
- Giải Quyết Tranh Chấp Bằng Trọng Tài
- Dịch Vụ Thành Lập Công Ty Trọn Gói Tại Tphcm
- Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Doanh Nghiệp
- Tổng Đài Tư Vấn Pháp Luật
- Luật Sư Tư Vấn Mua Nhà Đang Thế Chấp Ngân Hàng
- Quyền Thừa Kế Nhà Đất Người Việt Nam Định Cư Ở Nước Ngoài
- Luật Sư Tư Vấn Tặng Cho Nhà Đất
- Luật Sư Tư Vấn Đứng Tên Dùm Nhà Đất Căn hộ Chung Cư
- Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Cho Việt Kiều
- Luật Sư Tư Vấn Mua Bán Căn hộ
- Luật sư tư vấn Thỏa Thuận Tài Sản Của Vợ Chồng
- Tư Vấn Pháp Luật Thừa Kế
- Luật Sư Tư Vấn Trọn Gói Cho Doanh Nghiệp
- Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Tại Bình Thạnh, Bình Tân, Quận 6, Gò Vấp
- Luật Sư Sài Gòn Chuyên Bào Chữa Ở Miền Tây
- Dịch Vụ Luật Sư Đòi Nợ
- Luật Sư Tư Vấn Mua Đất Nền
- Luật Sư Tư Vấn Đơn Phương Ly Hôn Tại Quận 6
- Luật Sư Giải Quyết Tranh Chấp Tài Sản Với Người Nước Ngoài
- Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Đất
- Tư vấn Thành Lập Chi Nhánh Văn Phòng Đại Diện
- Luật Sư Tư Vấn Công Ty Cổ Phần
- Luật Sư Chuyên Tư Vấn Khai Di Sản Thừa Kế
- Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Thừa Kế Nhà Đất Tại Biên Hòa
- Tranh Chấp Hợp Đồng Thuê Nhà
- Điều Kiện Việt Kiều Mua Nhà Sài Gòn
- Tư Vấn Bồi Thường Khi Bị Thu Hồi Đất
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Nội Bộ Doanh Nghiệp
- Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Mua Bán Căn Hộ Chung Cư
- Luật sư trên truyền hình và báo chí
- Luật sư tư vấn đăng ký nhãn hiệu logo độc quyền
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Lao Động
- Luật Sư Tư Tranh Chấp Mua Bán Đất Nền
- Luật Sư Tại Chợ Lớn
- Luật Sư Tư Vấn Về Án Phí
- Tư Vấn Khởi Kiện Tranh Chấp Đất Đai
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Hợp Đồng Đặt Cọc
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Ranh Giới Đất
- Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Lối Đi Chung
- Luật sư tư vấn giữ quốc tịch cho việt kiều
- Luật sư tư vấn xác nhận nguồn gốc việt nam
- Luật sư tư vấn thủ tục ly hôn cho việt kiều
- Luật sư tư vấn thủ tục ly hôn tại sài gòn việt nam
- Luật sư tư vấn kiện đòi nhà cho việt kiều
- Dịch vụ luật sư nhà đất dành cho việt kiều
- Luật sư tư vấn thủ tục ly hôn tại việt nam
- Luật sư chuyên bào chữa cho bị can bị cáo
- Luật sư tư vấn đơn phương ly hôn và thuận tình ly hôn
- Cần Tìm Thuê Luật Sư Giỏi Tại Tphcm
- Luật sư tư vấn ly hôn nhanh tại bình tân, quận 6
- Luật sư tư vấn luật thừa kế tại tphcm
- Làm sao để dành được quyền nuôi con khi ly hôn
- Luật sư tư vấn lập vi bằng
- Luật sư tư vấn tố cáo vi phạm hình sự
- Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng do bất khả kháng
- Luật sư tư vấn ly hôn đơn phương
- luật sư chuyên tư vấn đòi nợ
- Luật sư chuyên tranh tụng hình sự
- Luật sư tư vấn tranh chấp giáp ranh nhà đất
- Luật sư tư vấn kiện hủy giấy chứng nhận sổ hồng sổ đỏ
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa cho người bị hiếp dâm trẻ em
- Luật sư chuyên tư vấn luật đất đai nhà ở
- Luật sư tư vấn thời hiệu khởi kiện thừa kế
- Luật sư tư vấn bào chữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- Luật sư chuyên bào chữa hình sự tại tphcm
- Luật sư chuyên về kinh tế
- Luật sư chuyên tư vấn khởi kiện vụ án hành chính quyết định hành chính
- Luật sư chuyên tư vấn kiện đòi đất
- Luật sư giỏi chuyên về tranh chấp hợp đồng kinh tế thương mại kinh doanh
- Luật sư tư vấn nhà đất
- Luật sư tư vấn làm mới và gia hạn visa - Renew and extend visa
- Luật sư tư vấn làm thẻ tạm trú – Renew/extend temporary residence
- Luật sư tư vấn giấy phép lao động cho người nước ngoài/Working permit
- Luật sư tư vân kết hôn với người nước ngoài
- Luật sư chuyên bào chữa tội mua bán vận chuyển tàng trữ ma túy
- Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng thuê nhà hàng, khách sạn, mặt bằng
- Luật sư tư vấn tranh chấp ranh đất
- Luật sư tư vấn luật hình sự
- Luật sư tư vấn tại ngoại, bảo lãnh
- Luật sư tư vấn qua điện thoại, online, trực tuyến
- Luật sư tư vấn thừa kế do chết vì covid
- Luật sư tư vấn hợp đồng nhà xưởng, văn phòng
- Lawyer at Ho Chi Minh City, Viet nam
- divorce lawyer at Ho Chi Minh City
- Luật sư tư vấn thừa kế sổ tiết kiệm, tài sản
- Luật sư tư vấn thừa kế cổ đông cổ phần vốn góp cổ phiếu trong công ty
- Luật sư tư vấn thừa phát lại
- Văn phòng luật sư tại quận 1
- Luật sư tư vấn ly hôn với người nước ngoài
- Luật sư tư vấn tố cáo, khiếu nại
- Luật sư tư vấn thừa kế nhà đất tại bình thạnh
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội phạm công nghệ cao, mạng internet, facebook
- Luật sư chuyên tư vấn mua bán đất dự án
- Luật sư chuyên tư vấn mua bán nhà đất bằng tay
- Luật sư chuyên bào chữa tội tham ô, hối lộ, lợi dụng chức vụ
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội buôn lậu
- Luật sư tư vấn bào chữa tội trốn thuế
- Luật sư giỏi tại tphcm
- Luật sư công giáo
- Luật sư tư vấn làm đơn giám đốc thẩm
- Luật sư giỏi chuyên đòi nhà đất
- Luật sư chuyên tư vấn thi hành án
- Luật sư tư vấn đòi lại tiền mua đất nền dự án
- Luật sư chuyên tư vấn kiện đòi giấy chứng nhận, sổ đỏ, sổ hồng
- Thế nào là tội cho vay nặng lãi
- Luật sư giỏi chuyên bào chữa án ma túy
- Tư vấn về hành vi ngoại tình vợ chồng
- Luật sư tư vấn bào chữa về tai nạn giao thông
- Luật sư tư vấn bào chữa về tội mua bán hàng cấm
- Luật sư tư vấn tranh chấp tín dụng ngân hàng
- Luật sư tư vấn hợp đồng hợp tác kinh doanh
- Luật sư tư vấn kiện thẩm mỹ viện
- Luật sư chuyên tư vấn mua bán doanh nghiệp
- Luật sư tư vấn bào chữa tội mua bán ma túy
- Luật sư tư vấn hộ kinh doanh cá thể
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa về tiền bitcoin
- Luật sư chuyên tư vấn ủy quyền
- Các án lệ
- Luật sư chuyên tư vấn đầu tư nước ngoài
- Luật sư giỏi chuyên bào chữa án kinh tế
- Luật sư tư vấn bào chữa khi bị bắt
- Luật sư giỏi chuyên tư vấn bào chữa tại đà nẵng
- Tư vấn đòi nhà đất đứng tên dùm
- Luật sư giỏi tại long thành đồng nai
- Luật sư chuyên giải quyết các loại tranh chấp
- Làm sao để được án treo?
- Luật sư tư vấn đòi nợ cho công ty
- luật sư tư vấn hoàn công, giấy phép xây dựng
- Luật sư tư vấn bào chữa tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
- Luật sư nhận ủy quyền đại diện
- Tư vấn bào chữa để được án treo tại ngoại
- Luật sư tư vấn kiện thừa kế cho việt kiều
- Luật sư chuyên bào chữa tội phạm kinh tế
- Luật sư tư vấn ủy quyền cho việt kiều bên nước ngoài
- Có cần mời luật khi bị bắt không?
- Luật sư giỏi chuyên bào chữa tội lừa đảo
- Luật sư giỏi chuyên tư vấn luật giao thông?
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội buôn bán thuốc lá
- Luật sư tư vấn hình phạt tử hình
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội mua bán hàng giả hàng nhái
- Luật sư giỏi chuyên về án dân sự tại tphcm
- Luật sư chuyên tư vấn lừa đảo qua mạng
- Luật sư chuyên tư vấn luật lao động cho công ty
- Luật sư tư vấn bào chữa tội mua bán hóa đơn trái phép
- Luật sư tư vấn bào chữa làm sao để được giảm án?
- Luật sư chuyên tư vấn tranh chấp mua bán hàng hóa
- Luật sư tư vấn bào chữa cho người nước ngoài
- Luật sư tư vấn bào chữa tội mua bán pháo lậu
- Luật sư tư vấn đòi tiền nhà cho thuê
- Luật sư chuyên tư vấn khởi kiện tranh chấp nhà đất cho việt kiều
- Luật sư chuyên về dân sự tại thành phố hồ chí minh
- Luật sư tư vấn bào chữa tội lợi dụng quyền tự do dân chủ
- Luật sư chuyên tư vấn bào chữa đánh bài bạc online trên mạng
- VIDEO LS TRẦN MINH HÙNG TƯ VẤN LUẬT TRÊN TRUYỀN HÌNH
- Luật Sư tư vấn bào chữa tội giết người
- Luật Sư Thừa kế
- Luật Sư Riêng Cho Gia Đình Và Doanh Nghiệp
- Báo Chí Và Chúng Tôi
- Luật Sư Doanh Nghiệp
- Luật Sư Nhà Đất
- Luật Sư Di Trú
- Luật sư Dân sự
- Luật Sư Hình Sự
- Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn
- Luật Sư Tranh Tụng
- Luật sư tư vấn luật lao động
- Văn phòng luật sư tư vấn cho việt kiều
- Luật sư Chuyên Kinh Tế
- Luật Sư Giỏi Về Hình Sự
- Luật Sư Tư Vấn Thừa Kế Nhà Đất
- Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Doanh Nghiệp
- Luật Sư Thi Hành Án
- Luật Sư Tư Vấn Miễn Phí
- Dịch Thuật Công Chứng
- Luật Sư Riêng Cho Công Ty Nước Ngoài
- Luật Sư Tư Vấn
- Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng
- Luật Sư Công Nợ
- Luật Sư Chuyên Tranh Tụng Tại Tphcm
- Luật Sư bào chữa tư vấn tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
- Luật Sư Kinh Nghiệm
|
|
Tư Vấn Thời Hạn Tạm Giam |
1. Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
|
Luật Sư Chuyên Bào Chữa Các Vụ Án Hình Sự |
Đối với các bị can/bị cáo: chúng tôi thực hiện nhiều nội dung công việc khác nhau để có thể bảo vệ tốt nhất quyền lợi cho khách hàng như:
- Hướng dẫn cách tường trình đúng sự thật khách quan ( phải biết sử dụng đúng từ ngữ pháp lý và phụ hợp với ngữ cảnh tại thời điểm xảy ra sự việc); thực hiện quyền khiếu nại, kiến nghị nếu có hành vi bức cung, nhục hình hoặc hành vi khác làm sai lệch sự thật khách quan của vụ án.
- Trong trường hợp đã có Kết luận điều tra, có Cáo trạng truy tố của Viện Kiểm sát, Luật sư sẽ tiến hành việc nghiên cứu các nội dung trong Kết luận điều tra, trong Cáo trạng và nghiên cứu tổng thể lời khai của các bên liên quan để làm rõ những nội dung còn mâu thuẫn trong hồ sơ. Luật sư cần phải xúc tiến gặp gỡ các nhân chứng, kiểm tra hiện trường nơi xảy ra vụ án để có được cái nhìn khách quan, đa chiều về nội dung vụ án, từ đó đưa ra được những nhận định về việc có hành vi phạm tội hay không? Có đủ yếu tố cấu thành tội phạm hay không?…Luật sư cần nghiên cứu hướng dẫn khách hàng cung cấp hồ sơ, tài liệu để các bị can/bị cáo có thể được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định của pháp luật.
|
Luật Sư Chuyên Tranh Tụng Hình Sự |
Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã.
Chương VII Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 có hiệu lực từ ngày 1/7 quy định cụ thể những biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế tội phạm và những trường hợp bị công an bắt để tạm giam.
Theo điều 109, để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để đảm bảo thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để đảm bảo, cấm đi khỏi nơi cư trú hoặc tạm hoãn xuất cảnh. |
Luật Sư Tư Vấn Về Quyền Im Lặng |
Luật sư tư vấn:
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 với rất nhiều quy định mới có ảnh hưởng và tác động tích cực đến việc bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự sẽ có hiệu lực thi hành. Trong đó đáng chú ý là quy định về “quyền im lặng của bị can, bị cáo”. Đây được xem là quy định tiến bộ vượt bậc, giải quyết được nhiều bất cập trong các vụ án mà các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng lời khai bất lợi cho bị can, bị cáo hoặc chỉ sử dụng duy nhất lời nhận tội của họ để kết tội họ khi đưa ra truy tố, xét xử. Được quy định cụ thể ở điều 58, 59, 60, 61Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015:
Điều 58. Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt
1. Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã có quyền:
a) Được nghe, nhận lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định truy nã;
b) Được biết lý do mình bị giữ, bị bắt;
c) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
d) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá;
g) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
h) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người.
2. Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt có nghĩa vụ chấp hành lệnh giữ người, lệnh bắt người và yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền giữ người, bắt người theo quy định của Bộ luật này.
Điều 59. Người bị tạm giữ
1. Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ.
2. Người bị tạm giữ có quyền:
a) Được biết lý do mình bị tạm giữ; nhận quyết định tạm giữ, quyết định gia hạn tạm giữ, quyết định phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
b) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
c) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
d) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
g) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng về việc tạm giữ.
3. Người bị tạm giữ có nghĩa vụ chấp hành các quy định của Bộ luật này và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam.
Điều 60. Bị can
1. Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này.
2. Bị can có quyền:
a) Được biết lý do mình bị khởi tố;
b) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
c) Nhận quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
d) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
g) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
h) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
i) Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu;
k) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
3. Bị can có nghĩa vụ:
a) Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trường hợp vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị áp giải, nếu bỏ trốn thì bị truy nã;
b) Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
4. Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết trình tự, thủ tục, thời hạn, địa điểm bị can đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa khi bị can có yêu cầu quy định tại điểm i khoản 2 Điều này.
Điều 61. Bị cáo
1. Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này.
2. Bị cáo có quyền:
a) Nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
b) Tham gia phiên tòa;
c) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
d) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người tham gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa;
đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
g) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
h) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
i) Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa;
k) Nói lời sau cùng trước khi nghị án;
l) Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa;
m) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;
n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
o) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
3. Bị cáo có nghĩa vụ:
a) Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Trường hợp vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã;
b) Chấp hành quyết định, yêu cầu của Tòa án..
Theo đó, các điều khoản này lần lượt ghi nhận: người bị bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tạm giữ, bị can và bị cáo đều có quyền trình bày ý kiến, trình bày lời khai, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Có thể hiểu người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự chủ về việc khai báo. Những gì bất lợi, họ có thể không buộc phải khai báo cũng như không buộc phải nhận mình có tội trước cơ quan tiến hành tố tụng hình sự.
........................
|
Quyền Im Lặng Của Bị Can Bị Cáo |
1/ Xuất phát từ nguyên tắc suy đoán vô tội và trách nhiệm chứng minh tội phạm:
Điều 13. Suy đoán vô tội
Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.
Điều 15. Xác định sự thật của vụ án
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội.
2/ Quyền của bị can, bị cáo trong vụ án hình sự:
Điều 60. Bị can
“1. Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này.
2. Bị can có quyền:
a) Được biết lý do mình bị khởi tố;
b) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
…
d) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
…
h) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
…
k) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.”
Điều 61. Bị cáo
“1. Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này.
2. Bị cáo có quyền:
a) Nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
…
g) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
h) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;"
Như vậy, tuy pháp luật không có ghi rõ cụm từ “quyền im lặng” nhưng xuất phát từ nguyên tắc suy đoán vô tội, trách nhiệm chứng minh tội phạm, và quyền của bị can bị cáo như trên thì quá trình bị can, bị cáo trình bày lời khai sẽ không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Vận dụng tốt quy định này đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho bị can, bị cáo trên thực tế. |
Luật Sư Tư Vấn Quyền Của Bị Cáo |
Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này.
Quyền của Bị cáo
BLHS 2015 ra đời là theo của chủ trương nâng cao nhân quyền trong trong chính sách pháp luật của nước ta nói chung và hoạt động tố tụng hình sự nói riêng , do đó quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong tố tụng hình sự đã có sự thay đổi lớn, Bị cáo có được những quyền mà BLTTHS trước đây không quy định, để góp phần bảo vệ những quyền lợi chính đáng của bị cáo. Căn cứ theo khoản 2 Điều 61 BLTTHS Bị cáo có những quyền sau đây:
+ Nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
+ Tham gia phiên tòa;
+ Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
+ Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người tham gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa;
+ Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
+ Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
+ Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
+ Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
+ Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa;
+ Nói lời sau cùng trước khi nghị án;
+ Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa;
+ Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;
+ Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
+ Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Nghĩa vụ của bị cáo :
Đi cùng với quyền thì bị cáo cũng có những nghĩa vụ nhất định, căn cứ theo khoản 3 Điều 61 BLTTHS bị cáo có nghĩa vụ:
+ Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Trường hợp vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã;
+ Chấp hành quyết định, yêu cầu của Tòa án.
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.
Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank, Huyền Như, Viettinbank, các vụi Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái.… và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
|
Luật sư được gặp người bị tạm giữ |
Luật sư được gặp người bị tạm giữ
Từ 12/3, người bào chữa có thể gặp người bị tạm giữ, nếu cần giám sát cuộc gặp thì người có thẩm quyền của cơ quan đang thụ lý vụ án phối hợp với cơ sở giam giữ tổ chức giám sát.
“Khi nhận được văn bản thông báo người bào chữa cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam của cơ quan đang thụ lý vụ án thì cơ sở giam giữ tổ chức cho người bào chữa được gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật”.
Đây là quy định mới tại Thông tư liên tịch (có hiệu lực từ ngày 12/3 tới) giữa Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, chánh án TAND Tối cao và viện trưởng VKSND Tối cao.
Theo đó, việc phối hợp, tổ chức cho người bị tạm giữ, tạm giam gặp người bào chữa thực hiện theo quy định tại Điều 80 của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) và Điều 22, Điều 34 của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam.
Trường hợp cần phải giám sát cuộc gặp thì thủ trưởng, người có thẩm quyền của cơ quan đang thụ lý vụ án phối hợp với cơ sở giam giữ tổ chức giám sát. Nếu người bị tạm giữ, tạm giam, người bào chữa có hành vi vi phạm nội quy cơ sở giam giữ hoặc cản trở việc giải quyết vụ án thì người có thẩm quyền giám sát phải dừng ngay cuộc gặp và lập biên bản, báo cáo với thủ trưởng cơ sở giam giữ và thông báo bằng văn bản cho cơ quan đang thụ lý vụ án biết để xử lý.
Khi người bào chữa có yêu cầu gặp người bị tạm giữ, tạm giam tại nơi khám bệnh, chữa bệnh ngoài cơ sở giam giữ thì cơ sở giam giữ trao đổi với bác sĩ điều trị. Nếu được sự đồng ý của bác sĩ điều trị thì cơ sở giam giữ thông báo cho người bào chữa biết, đồng thời thông báo cho cơ quan đang thụ lý vụ án để có biện pháp phối hợp kịp thời.
Người có thẩm quyền của cơ sở giam giữ phải quản lý, giám sát chặt chẽ, không để người bào chữa đưa, chuyển đồ vật cấm cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam hoặc có vi phạm khác về việc thăm gặp, gây cản trở việc giải quyết vụ án.
Quy định về phối hợp quản lý người bị tạm giam khi trích xuất phục vụ xét xử tại phiên tòa cũng được nêu cụ thể.
Theo đó, tòa án có thẩm quyền phải gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử và lệnh trích xuất người bị tạm giam cho cơ sở giam giữ nơi đang giam giữ người bị tạm giam chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên tòa. Đồng thời tòa phải trao đổi với cơ quan, người có nhiệm vụ áp giải về tính chất phức tạp của vụ án, mức độ nguy hiểm, số lượng đối tượng đưa ra xét xử.
Cơ quan có nhiệm vụ áp giải phải phối hợp với cơ sở giam giữ xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện việc áp giải người bị tạm giam đến địa điểm mở phiên tòa đúng thời gian, phối hợp với lực lượng bảo vệ phiên tòa đảm bảo an ninh, an toàn trong quá trình áp giải và xét xử tại tòa.
Cơ quan, người có nhiệm vụ áp giải có trách nhiệm bàn giao người bị tạm giam được trích xuất để phục vụ xét xử tại tòa cho thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Khi kết thúc phiên tòa, thẩm phán chủ tọa có trách nhiệm bàn giao người bị tạm giam được trích xuất cho cơ quan, người có nhiệm vụ áp giải, trừ trường hợp người bị tạm giam là bị cáo được trả tự do theo bản án, quyết định của tòa.
Trường hợp hết thời hạn tạm giam thì phải kèm theo quyết định tạm giam, trừ trường hợp bị cáo bị phạt tử hình theo quy định tại khoản 4 Điều 329 của BLTTHS. Việc bàn giao phải được lập thành biên bản, có ghi rõ tình trạng sức khỏe.
Trong quá trình xét xử, trường hợp phiên tòa tạm nghỉ mà không có điều kiện áp giải người bị tạm giam về cơ sở giam giữ, phải lưu lại tại nơi xét xử thì tòa án bố trí nơi để quản lý người bị tạm giam.
Nguồn: Theo Đại Hưng/Pháp Luật TP.HCM |
Quy định có lợi cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự? |
quy định có lợi cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự?
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sắp ban hành Nghị quyết hướng dẫn áp dụng những quy định có lợi cho người phạm tội trong Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 và các quy định có liên quan của Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13.
Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc hội lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 (BLHS 2015), Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 (BLTTHS 2015); Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13;
Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 từ ngày 1/7/2016 đến ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 2015 có hiệu lực thi hành, đồng thời cũng quy định từ ngày 1/7/2016 vẫn thực hiện các quy định có lợi cho người phạm tội tại khoản 3 Điều 7 BLHS 2015 và điểm b khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 về việc thi hành BLHS; tiếp tục áp dụng khoản 2 Điều 1 và các quy định khác có lợi cho người phạm tội tại Nghị quyết số 109/2015/QH13.
Bên cạnh đó, áp dụng các quy định của BLTTHS 2015 để thi hành các quy định có lợi cho người phạm tội. Áp dụng trên căn cứ nào?
Theo dự thảo Nghị quyết, việc chuyển hình phạt tử hình sang hình phạt tù chung thân đối với các trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 40 BLHS 2015, các điểm a, b và điểm c khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27-11-2015 của Quốc hội và hướng dẫn tại khoản 2 Điều 1 và Điều 2 Nghị quyết số 01/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC khi thực hiện Tòa án phải căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 367 BLTHS 2015 để ra Quyết định chuyển hình phạt tử hình sang hình phạt tù chung thân.
Đối với việc tha tù trước thời hạn có điều kiện, khi nhận được hồ sơ đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện của VKSND cấp tỉnh nơi phạm nhân đang chấp hành hình phạt tù tại cơ sở giam giữ, Tòa án phải căn cứ vào quy định tại Điều 368 BLTTHS 2015 để xem xét, giải quyết việc tha tù trước thời hạn có điều kiện.
Về việc xóa án tích, khi nhận được yêu cầu cấp giấy chứng nhận đã được xóa án tích đối với trường hợp đương nhiên được xóa án tích thì Tòa án căn cứ vào quy định tại Điều 369 101/2015/QH13 để chuyển yêu cầu cấp giấy chứng nhận đã được xóa án tích cho Sở Tư pháp để giải quyết theo thẩm quyền.
Còn đối với trường hợp xóa án tích theo quyết định của Tòa án, khi nhận được đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận xóa án tích của người bị kết án (có nhận xét của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc), Tòa án căn cứ vào quy định tại Điều 369 BLTTHS 2015 để xem xét, giải quyết việc cấp giấy chứng nhận xóa án tích.
Khi thực hiện các quy định có lợi của BLHS 2015 đối với người phạm tội là người dưới 18 tuổi, Tòa án phải áp dụng các quy định tại chương XXVIII BLTTHS 2015 về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi để giải quyết.
Có thể có nhiều hơn 152 quy định có lợi cho người phạm tội Dự thảo Nghị quyết cũng ban hành kèm theo danh mục 152 quy định có lợi cho người phạm tội trong BLHS 2015.
Trong số các quy định này, có quy định về đồng phạm (k.4 Đ.17), che giấu tội phạm (k2 Đ.18), không tố giác tội phạm (k.3 Đ.19), gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội (Đ. 24), rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ (Đ. 25), thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (Đ.26), căn cứ miễn trách nhiệm hình sự (k. 2a, k. 2b, k.3 Đ.29), phạt tiền (k.1 Đ.34), cải tạo không giam giữ (k.3, k.4 Đ.36), tù có thời hạn (k2.Đ.38), tử hình (k.2, k.3 Đ.40)...
Theo điểm đ, o, p, x khoản 1 Điều 51 về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, người phạm tội được áp dụng quy định có lợi khi phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, khi người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên, khi người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc đặc biệt nặng, và khi người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng Trong danh mục đó còn có các quy định liên quan đến quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm mức hình phạt đã tuyên, nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội...
Các quy định liên quan đến cải tạo không giam giữ, quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội đánh tráo người dưới 01 tuổi, chiếm đoạt người dưới 16 tuổi... cũng nằm trong danh mục này.
Dự thảo Nghị quyết ghi rõ, ngoài Danh mục những quy định có lợi cho người phạm tội trong BLHS 2015 được ban hành kèm theo Nghị quyết này, trong khi giải quyết các vụ án hình sự nếu phát hiện những quy định khác trong BLHS 2015 có lợi cho người phạm tội thì phải áp dụng. |
Luật Sư Bào Chữa Về Hình Sự Tại Tphcm |
Luật sư tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự thì luật sư tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ.
Luật sư tham gia bào chữa cho chị can, bị cáo, bảo vệ quyền lợi của Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự:
- Luật sư Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;
- Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;
- Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật TTHS;
- Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;
- Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
- Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam; - Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;
- Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
- Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định của Bộ luật tố tụng hình sư.
- Nghiên cứu, phân tích nhằm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
- Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
Quy trình thực hiện của luật sư Luật Minh Gia tham gia tố tụng trong vụ án hình sự như sau:
Bước 1. Tiếp nhận thông tin và hồ sơ vụ việc (Tường trình vi phạm, quyết định khởi tố bị can, vụ án, giấy tờ liên quan…) từ bị can, bị cáo, người thân, người đại diện khác của bị can, bị cáovà từ người bị hại, người liên quan.
Bước 2. Xác định về điều kiện, thẩm quyền giải quyết, thời gian thực hiện và phân công luật sư tham gia tố tụng.
Bước 3. Thu thập chứng cứ, tài liệu và các điều kiện chứng minh khác theo quy định pháp luật để thực hiện nhiệm vụ tham gia tố tụng bào chữa cho bị can, bị cáo của luật sư và cơ sở để người bị hại, người liên quan trình báo vi phạm đến cơ quan có thẩm quyền và phục vụ công tác tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi cho người bị hại, người liên quan của luật sư.
Bước 4. Hoàn thiện hồ sơ tham gia tố tụng gửi các cơ quan tiến hành tố tụng và triển khai nghiên cứu hồ sơ vụ án.
Bước 5. Luật sư tham gia tố tụng tại cơ quan tiến hành tố tụng theo nhiệm vụ đã phân công nhằm bào chữa cho bị can, bị cáo vàbảo vệ quyền lợi cho người bị hại, người liên quan trong vụ án hình sự.
Liên hệ với chúng tôi theo thông tin dưới đây để được tư vấn, hỗ trợ |
Đơn Kêu Oan Trong Vụ Án Hình Sự |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Kiên Giang, ngày … tháng … năm 2018
ĐƠN KÊU CỨU
KHẨN CẤP
(V/v:
Chậm giải quyết oan sai)
Kính
gửi: TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG
CHỦ TỊCH NƯỚC TRẦN ĐẠI
QUANG
CHÁNH
ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
VIỆN
TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI NGUYỄN
THỊ KIM NGÂN
ĐOÀN
ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ÔNG
TÔ LÂM – BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG AN
Đồng kính gửi: CHÁNH ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG
VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH KIÊN
GIANG
GIÁM ĐỐC CÔNG AN TỈNH KIÊN GIANG
Người kêu
oan :
Tôi xin kêu cứu đến Quý cơ quan với nội dung án oan sai kéo dài bao năm
nay của tôi như sau:
Lúc
18h ngày 13/6/1999 tại Tổ 5, khu phố 2, thị trấn 11, huyện An Minh, tỉnh Kiên
Giang ở trước đầu mương tiếp giáp lề đường đá đỏ, đường thứ 11 xã An Minh Bắc,
có bà Nguyễn Thị Mộng Tuyền và bà Nguyễn Thị Bích Thủy gây gổ đánh nhau, thời
gian này có anh trai Tuyền và bà Nguyễn Thị Liền (mẹ của Thủy) và những người
lân cận có nghe thấy sự việc và đến can ngăn. Lúc này tôi đang ở trong nhà nghe
cải vã om sòm nên tôi ra đứng ở của nhà kế đường đá đỏ thì nhìn thấy ông Nguyễn
Văn Thu (cha của Tuyền) từ nhà chạy lại chỗ Tuyền và Thủy đánh nhau, lúc này
tôi nghe bà Liền nói nói “ông Thu, sao ông lại đánh Thủy”, cùng lúc đó bà Liền
xô ông Thu ra ngoài làm ông Thu loạng choạng té sát lề đường đá đỏ. Lúc đó, có
ông Đặng Giải Phóng (chồng bà Thủy) đứng ở lề đường bên kia gần chỗ ông Thu té,
ông Phóng nói “ông Thu, sao ông đánh vợ tôi” đồng thời ông Phóng đá ông Thu một
đá, ông Thu đứng dậy chạy vào nhà, nhìn thấy vậy tôi không kịp đến can ngăn ông
Phóng vì tôi biết ông Thu bị bệnh sơ gan nặng, sức khỏe rất yếu. Lúc này Tuyền
và Thủy đánh nhau cũng được Thảo (anh trai Tuyền) và bà Liền (mẹ của Thủy can
ra, sau đó Tuyền và Thủy đi đến bệnh viện huyện An Minh khám. Sau đó tôi đi gặp
ông Đỗ Văn Cộng là trưởng khu vực 2 để trình báo sự việc trên rồi đi về nhà,
sau đó nghe tin ông Thu bị mệt và đã chết trên đường đến bệnh viện. Đến ngày
16/6/1999, Viện trưởng Viện kiểm sát huyện An Minh là ông Đặng Hồng Thái và ông
Đặng Thanh Hùng là trưởng công an huyện An Minh (anh ruột của ông Đặng Giải
Phóng) ra lệnh tạm giam, bắt tạm giam tôi rồi sau đó Công an huyện An Minh áp
giải tôi đến trại tạm giữ, tạm giam tỉnh Kiên Giang. Điều tra viên Trần Minh Thế
quy chụp cho tôi đá ông Thu lăn ba vòng đụng vào cột cờ làm ngã cột cờ, tuy
nhiên, chân tôi bị sai khớp xương chậu hang, chân trái ngắn hơn chân phải 05
(năm) cm theo chứng nhận của Hội đồng giám định Y khoa tỉnh Minh Hải cấp ngày
17/8/1986 nên tôi không thể đá ông Thu và tôi cũng không tham gia đánh ông Thu
như lời Điều tra viên quy chụp cho tôi.
Tôi
là bị cáo trong vụ án hình sự sơ thẩm số 182/HSST ngày 6/12/1999 do Tòa án nhân
dân tỉnh Kiên Giang quyết định tuyên tôi và ông Đặng Giải Phóng phạm tội “Cố ý
gây thương tích”, tuyên phạt tôi 16 (mười sáu) năm tù giam kể từ ngày 13/6/1999
và ông Đặng Giải Phóng 10 (mười) năm tù giam kể từ ngày 13/6/1999, buộc tôi và
ông Đặng Giải Phóng bồi thường cho gia đình nạn nhân là ông Nguyễn Văn Thu (đã
chết) số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) và trợ cấp cho 5 người con của nạn
nhân cho đến 18 tuổi mỗi người 15kg gạo/tháng. Mặc dù trong suốt quá trình điều
tra vụ án cho đến lúc xét xử tôi luôn kêu oan nhưng đều bị Cơ quan điều tra, viện
kiểm sát và Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang bác bỏ.
Ngày
18/12/1999, tôi có làm đơn kháng cáo kêu oan gửi đến Tòa án Phúc thẩm nhân dân
tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và được quý Tòa thụ lý ngày 23/02/2000. Đến
ngày 21/7/2000, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao Thành phố Hồ Chí Minh đã
mở phiên tòa xét xử phúc thẩm số 1510/HSPT vụ án trên gồm các thành viên Hội đồng
xét xử: Chủ tọa phiên tòa là ông Trương Vĩnh Thủy, Thẩm phán Nguyễn Xuân Phát
và Thẩm phán Nguyễn Hoàng Tiến. Theo đó, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao
đã chỉ ra những sai phạm trong quá trình xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên
Giang dẫn đến oan sai cho tôi như:
1.
Khi
ông Thu bị té và ông Đặng Giải Phóng đã dùng chân đá vào người ông nạn nhân,
Phước hoàn toàn không có đánh, đá vào người ông Thu. Bởi lẽ, Phước biết trước
ông Thu bị bệnh xơ gan nặng, người yếu ớt và bản thân bị cáo Phước bị sai khớp
đùi, chân trái ngắn hơn chân phải 05 (năm) cm (Có biên bản giám định khả năng
lao động, do Hội đồng giám định y khoa tỉnh Minh Hải, cấp ngày 18/7/1986) do đó
không thể nào đá ông Thu té lăn làm ngã cột cờ như kết luận của bản án sơ thẩm
2.
Những
người làm chứng: ông Trịnh Phước Hậu (em vợ ông Thu), Nguyễn Thị Mộng Tuyền
(con ông Thu) khai rằng chính tôi là người đã dùng chân đá vào người ông Thu
làm ông Thu té đầu chúi xuống đất, lăn mấy vòng đụng vào cột cờ làm ngã cột cờ
rồi đá thêm mấy cái nữa khi ông Thu gượng đứng dậy, ông Đặng Giải Phòng đã dùng
chân đá 2 (hai) cái vào người ông Thu. Tuy nhiên, Tòa án sơ thẩm tỉnh Kiên
Giang đã căn cứ vào lời khai này để buộc tội tôi trong khi các lời khai này
cũng có nhiều mâu thuẫn. Hơn nữa, sau khi xét xử sơ thẩm các ông, bà: Võ Thị
Kim Anh, Nguyễn Văn Phước, Nguyễn Ngọc Lành có gửi đơn đến Tòa phúc thẩm cho rằng
bị cáo Nguyễn Hồng Phước bị oan và xin được ra trước Tòa để làm chứng nhưng chưa
được cấp sơ thẩm điều tra làm rõ. Tại phiên phúc thẩm họ đều khai rằng chính bị
cáo Đặng Giải Phòng đá vào người ông Thu, không thấy bị cáo Nguyễn Hồng Phước
đá vào người ông Nguyễn Văn Thu, cột cờ bị ngã là do ông Nguyễn Văn Phước lúc đỡ
ông Thu dậy bị ngã.
3.
Ông
Trịnh Phước Hậu (em vợ nạn nhân Nguyễn Văn Thu) vừa là người làm chứng, vừa là
giám hộ khi ghi lời người làm chứng và vừa là Trưởng Công an khu vực 2 tham gia
ghi lời khai người làm chứng khác là không đảm bảo tính khách quan của vụ án.
Còn rất nhiều sai phạm của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang được Hội đồng xét xử
phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao Thành phố Hồ Chí Minh chỉ ra theo Bản án số
1510/HSPT ngày 21/7/2000.
Hội đồng xét xử phúc thẩm Tòa
án nhân dân tối cao Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên hủy một phần bản án hình sự
sơ thẩm số 182/HSST ngày 06/12/1999 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang, đồng
thời giao hồ sơ cho cấp sơ thẩm tiến hành lại thủ tục tố tụng từ giai đoạn điều
tra theo thủ tục chung và tiếp tục tạm giam tôi cho đến khi cấp sơ thẩm nhận được
hồ sơ vụ án.
Ngày
11/9/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang ký quyết định trả tự do cho tôi, chờ
xét xử lại. Sau khi được trả tự do tôi làm đơn yêu cầu gửi đến Viện Kiểm sát
nhân dân tỉnh Kiên Giang, yêu cầu dựng lại hiện trường, làm rõ vụ án để giải
oan cho tôi, khi tôi đưa đơn yêu cầu cho ông Nguyễn Văn Mích – Phó viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang, ông Mích hỏi tôi: “Từ ngày trả tự do về
tới giờ bên bị hại có làm khó dễ gì không”, tôi trả lời “ không có ai làm khó dễ
gì hết vì bị bắt oan”, ông Mích nói “người ta không làm khó dễ gì thì về lo làm
ăn đi” và ông Mích không nhận đơn yêu cầu của tôi. Đến hôm nay đã gần 17 năm
trôi qua nhưng không có một động thái nào từ phía Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang về việc xét xử minh oan cho tôi. Hơn
nữa, khi tôi có văn bản yêu cầu được trích lục Quyết định trả tự do cho tôi gửi
đến Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang lại nhận được câu trả lời không biết hồ sơ
vụ án đang ở đâu (theo văn bản trả lời số 17/TLĐ – TAT của Tòa án nhân dân tỉnh
Kiên Giang). Tôi nghi ngờ Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án
Nhân dân tỉnh Kiên Giang cố tình không xét xử để minh oan cho tôi vì lo ngại phải
chịu trách nhiệm đối với việc kết án oan cho tôi. Đây là điều vi phạm pháp luật
nghiêm trọng, các cơ quan tố tụng tỉnh Kiên Giang cố tình câu kết bịt kín vụ án
của tôi, cố tình làm mất hồ sơ vụ án của tôi để tránh tội vì đã cố tình ra quyết
định kết tội oan cho tôi.
Sự
tắc trách, thiếu trách nhiệm của Cơ quan chức năng trong việc kết án oan cho
tôi, tạm giam tôi trong thời gian 02 năm 2 tháng 25 ngày đã làm cho gia đình
tôi tan nát, 06 đứa con của tôi mang tiếng con của kẻ giết người, cuộc sống gia
đình tôi bị xáo trộn, gặp muôn vàn khó khăn cả về kinh tế lẫn tinh thần vì tôi
là lao động chính trong gia đình nuôi 06 người con, vợ tôi thường xuyên ốm đau,
con tôi đi học ở trường bị bạn bè chê cười, chế nhạo. Công việc doanh thu mỗi
tháng hàng chục triệu đồng (tôi làm nghề mổ heo bán nhiều) bị ngưng lại do tôi
bị bắt.
Thử
hỏi rằng nếu không có sự công tâm từ Hội đồng xét xử phúc thẩm Tòa án nhân tối
cao Thành phố Hồ Chí Minh thì liệu thân phận của tôi, vợ và 06 người con của
tôi bây giờ ra sao nếu tôi buộc phải ngồi tù 16 năm. Đã hơn gần 17 năm kể từ
ngày được trả tự do nhưng chưa một đêm nào tôi được ngủ ngon vì nỗi oan ức chưa
được hóa giải, tôi vẫn mang trong mình thân phận là một kẻ tội phạm bị hàng
xóm, người đời chê cười, án tù giam 16 năm vẫn cứ treo lơ lững ở trên đầu tôi.
Kính mong Qúy lãnh đạo quan tâm giải oan cho tôi!
Chủ
tịch nước Trần Đại Quang là Trưởng ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương. Tôi
hiểu rằng trọng tâm của việc cái cách tư pháp là hoạt động điều tra, xét xử để
tránh dẫn đến oan sai cũng như đề cao quyền con người. Việc xử lý của các Cơ
quan từ giai đoạn điều tra đến xét xử cho thấy sự tùy tiện, lạm dụng chức quyền
dẫn đến oan sai cho tôi, làm cho tôi và gia đình tôi lâm vào cảnh khốn cùng, bế
tắc. Hậu quả gia đình tôi tan nát, chia rẻ đến nay là do cơ quan tố tụng tỉnh
Kiên Giang.
Vì
vậy, Kính mong Chủ tịch nước có ý kiến chỉ đạo giải quyết dứt điểm cứu giúp tôi
và gia đình tôi thoát khỏi án oan này để tôi có thể sống như một công dân nước
Việt Nam không mang tội danh của một kẻ giết người.
Sự
chậm trễ giải quyết vụ án này đã cho thấy sự thiếu trách nhiệm, yếu kém của Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang dẫn đến oan sai gần
20 năm cho tôi.
Kính
mong Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao chỉ đạo giải quyết dứt điểm, cứu giúp tôi thoát khỏi án oan này để tôi có
thể sống như một công dân nước Việt Nam không mang tội danh của một kẻ giết người.
Kính
mong Ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng- là một vị bí thư được dân kính trọng khi
chống tham nhũng triệt để mong ông ra văn abnr chỉ đạo giải quyết vụ án oan cho
tôi, thanh minh cho tôi theo đúng trình tự pháp luật.
Kính
mong bà chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân quan tâm đưa vụ việc của tôi ra
quốc hội, chỉ đạo giải quyết vụ việc đúng pháp luật cho tôi.
Kính
mong Đoàn đại biểu quốc hội tỉnh Kiên giang làm đúng chức năng nhiệm của mình
can thiệp giải quyết vụ việc đúng pháp luật cho tôi.
Kính
mong Đoàn đại biểu quốc hội Nước cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đứng ra bảo
vệ có văn bản chỉ đạo cơ quan địa phương giải quyết quyền lợi cho tôi.
Kính
mong Ông Tô Lâm – bộ trưởng bộ công an đứng ra giải quyết trong phạm vi thẩm
quyền cho tôi.
Rất
mong được Quý cơ quan xem xét, giải quyết dứt điểm cho tôi. Bảo vệ quyền lợi
cho tôi, bảo đảm tính pháp chế xã hội chủ nghĩa, thực hiện đúng tinh thần cải
cách tư pháp, tạo niềm tin cho tôi vào cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vụ việc
kéo dài mười bảy năm nay vẫn chưa giải quyết dứt điểm cho tôi.
Tôi là một gia đình cách mạng có
truyền thống, Cha ruột tôi Nguyễn Phước Mỹ, sinh năm 1919 công tác cách mạng từ
1947 dến 1969 bị giặc bắt giam tù ở Chí
Hòa – Phú Lợi. Năm 1958 đến 1961 hơn 3 năm bị giam,tra tấn đánh đập với mọi
hình thức. Được trả tự do và về tiếp tục hoạt động cách mạng . Đến năm 1969 vì
lý do sức khỏe nên đã xin nghỉ việc được Ủy ban nhân dân huyện U Minh chứng nhận
bị thương và Sở lao động thương binh xã hội tỉnh Cà Mau xác nhận thương binh tỉ
lệ thương tật 41% theo quyết định số 1010.Ngày 30 tháng 08 Năm 1986. Tôi luôn
chấp hành tốt các quy định chính sách pháp luật không thể để chính quyền Kiên
Giang đẩy một gia đình cách mạng như gia đình tôi vào chỗ tan nát.
Tôi xin trân trọng cảm ơn./.
Đính kèm:
1/. Giấy chứng nhận thương binh cha tôi
2/. Công văn số
17/TLĐ- TAT ngày 9/5/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang
3/. Công văn số
57/TLĐ- TAT ngày 11/08/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang
4/. Bản án hình
sự sơ thẩm số 182/HSST ngày 6/12/1999
5/. Bản án hình
sự phúc thẩm số 1510/HSPT.
6/. Biên bản
xác định lại hiện trường vụ trọng án
mà ông Đặng Giải Phóng – 9 Phước đã gây ra vào ngày 13/6/1999.
7/. Đơn yêu cầu
của tôi có xác nhận của Công an thị trấn và người làm chứng.
8/. CMND + HK
sao y công chứng.
|
Người làm đơn
|
|
Phân tích cấu thành tội cưỡng đoạt tài sản theo quy định của pháp luật |
Cưỡng đoạt tài sản là hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản.
Tội cưỡng đoạt tài sản được quy định tại Điều 170 Bộ luật hình sự năm 2015:
"Điều 170. Tội cưỡng đoạt tài sản
1. Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
d) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
e) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản".
Đặc trưng cơ bản của tội cưỡng đoạt tài sản là người phạm tội đã có hành vi uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản bằng những thủ đoạn đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác làm cho người có trách nhiệm về tài sản lo sợ mà phải giao tài sản cho người phạm tội.
Đe doạ sẽ dùng vũ lực là hành vi (lời nói hoặc hành động) làm cho người bị đe doạ sợ nếu không giao tài sản cho người phạm tội thì sẽ bị đánh đập tra khảo, bị đau đớn về thể xác.
Thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần là những thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng để uy hiếp tinh thần của người có tài sản hoặc của người có trách nhiệm về tài sản như: Doạ sẽ tố cáo với chồng về việc vợ ngoại tình, doạ sẽ tố cáo việc phạm tội hoặc việc làm sai trái của người có tài sản hoặc người có tránh nhiệm về tài sản.v.v...
Có thể nói, cưỡng đoạt tài sản là tìm mọi cách làm cho người có tài sản hoặc người có trách nhiệm về tài sản sợ hãi phải giao tài sản cho người phạm tội. Như vậy, hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác mà người phạm tội thực hiện là nhằm chiếm đoạt tài sản.
- Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội cưỡng đoạt tài sản: người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản khi có hành vi vi phạm được quy định tại khoản 2 Điều 170 Bộ luật Hình sự năm 2015, vì khoản 1 Điều 170 là tội phạm nghiêm trọng. Trong khi đó, người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội cưỡng đoạt tài sản cần chú ý độ tuổi của người phạm tội và các tình tiết định khung hình phạt. Nếu người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 170 Bộ luật hình sự thì chỉ cần xác định người phạm tội đã đủ 14 tuổi là đã phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng nếu người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự thì người phạm tội phải đủ 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
- Các dấu hiệu về khách thể của tội phạm
Khách thể của tội cưỡng đoạt tài sản cũng tương tự như tội cướp tài sản và tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tức là cùng một lúc xâm phạm đến hai khách thể (quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân), nhưng chủ yếu là quan hệ tài sản. Nếu có xâm phạm đến quan hệ nhân thân thì không phải là những thiệt hại về thể chất (tính mạng, thương tật), mà chỉ có thể là những thiệt hại về tinh thần (sự sợ hãi, lo âu), tuy có ảnh hưởng đến sức khoẻ nhưng không gây ra thương tích cho người bị hại; tính chất và mức độ xâm phạm đến quan hệ nhân thân ít nghiêm trọng hơn nhiều so với tội cướp tài sản hoặc tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
- Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi khách quan
Người phạm tội cưỡng đoạt tài sản có thể thực hiện một trong những hành vi khách quan sau:
- Hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực
Đe doạ sẽ dùng vũ lực là hành vi có thể dược thực hiện bằng cử chỉ, hành động hoặc bằng lời nói, nhưng dù được thực hiện bằng hình thức nào thì việc dùng vũ lực cũng không xảy ra ngay tức khắc. Đây là dấu hiệu chủ yếu để phân biệt với tội cướp tài sản quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự 3015. Trong thực tế, có những trường hợp người bị hại bị người phạm tội đe doạ sẽ dùng vũ lực nếu không giao tài sản cho người phạm tội nhưng người bị hại không sợ và không giao tài sản cho người phạm tội, sau đó người phạm tội đã thực hiện hành vi vũ lực đối với người bị hại thì cũng không phải là hành vi cướp tài sản mà vẫn là hành vi cưỡng đoạt tài sản. Ví dụ: C đã có hành vi đe doạ cháu O là học sinh lớp 6 nếu không đưa cho C 50.000 đồng thì ngày mai đi học sẽ bị đánh. Cháu O rất lo sợ nhưng không biết lấy đâu ra 50.000 đồng đưa cho C, nên hôm sau cháu O rủ thêm bốn bạn khác cùng đi để nếu C có gây sự thì đã có các bạn can thiệp. Hôm sau, cháu O cùng các bạn trên đường đi đến trường thì bị C chặn đường đánh vì cháu O không thực hiện yêu cầu của C, các bạn cùng đi với cháu O đã kịp báo cho lực lượng bảo vệ bắt C. Việc C thực hiện lời đe doạ của mình đối người bị hại nhưng không vì thế mà cho rằng hành vi của C là hành vi phạm tội cướp tài sản, vì sau khi đe doạ sẽ dùng vũ lực đối với cháu O nếu cháu không giao tài sản thì hành vi cưỡng đoạt tài sản của C đã hoàn thành, còn việc C đánh cháu O thật là hậu quả do hành vi cưỡng đoạt tài sản của C gây ra cho cháu O chứ không phải là hành vi nhằm chiếm đoạt tài sản của cháu O. Tuy nhiên, nếu trước hoặc trong khi đánh cháu O, C vẫn yêu cầu cháu O phải đưa tiền cho C, thì hành vi cưỡng đoạt tài sản của C đã chuyển hoá thành hành vi cướp tài sản và trong trường hợp này C sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự.
Nói chung, người phạm tội chỉ đe doạ dùng vũ lực, nếu người bị hại không giao tài sản thì người phạm tội cũng không dùng vũ lực. Tuy nhiên cũng không loại trừ trường hợp người phạm tội vẫn thực hiện lời đe doạ của mình để trả thù như trường hợp C đối với cháu O nêu trên.
Nếu người phạm tội đe doạ sẽ dùng vũ lực và nói rõ ý định của mình buộc người có trách nhiệm về tài sản phải giao tài sản cho người phạm tội trong một thời gian nhất định thì việc xác định hành vi phạm tội của họ dễ dàng hơn nhiều so với trường hợp người phạm tội đe doạ sẽ dùng vũ lực trực tiếp đối với người có trách nhiệm về tài hoặc đối với người khác để buộc họ phải giao tài sản cho người phạm tội. Đây cũng là trường hợp thực tiễn xét xử dễ nhầm lẫn với tội cướp tài sản, bởi vì nếu xác định người phạm tội đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc thì đó là hành vi phạm tội cướp tài sản.
Người phạm tội có thể đe doạ sẽ dùng vũ lực đối với người có trách nhiệm về tài sản nhưng cũng có thể đe doạ sẽ dùng vũ lực đối với người khác (chủ yếu là đối với người thân của người có trách nhiệm với tài sản). Ví dụ: L viết thư cho chị H với nội dung: “Nếu không giao cho L 20.000.000 đồng thì L sẽ chặn đường đánh cháu T hoặc sẽ bắt cóc cháu T đem bán ra nước ngoài”. Vì sợ L thực hiện lời đe doạ nên chị H đã phải giao cho T số tiền mà T yêu cầu.
-Những thủ đoạn người phạm tội dùng để uy hiếp tinh thần người bị hại nằm chiếm đoạt tài sản
Ngoài hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực đối với người có trách nhiệm về tài sản nhằm chiếm đoạt tài sản, thì người phạm tội còn có thể thực hiện những thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản để chiếm đoạt tài sản.
Thông thường người phạm tội dùng những thủ đoạn như:
- Doạ sẽ huỷ hoại tài sản nếu người có trách nhiệm về tài sản không giao tài sản cho người phạm tội. Ví dụ: Doạ sẽ đốt nhà, đốt xe; doạ sẽ đập phá nhà, đập phá xe hoặc những tài sản khác...
- Doạ sẽ tố cáo hành vi sai phạm hoặc những bí mật đời tư của người có trách nhiệm về tài sản mà họ không muốn cho ai biết. Ví dụ: A biết B có ngoại tình với chị H, nên A viết thư yêu cầu B phải giao cho y một số tiền, nếu không y sẽ nói cho vợ của B biết về việc ngoại tình của B.
- Bịa đặt, vu khống người có trách nhiệm về tài sản.
- Giả danh là cán bộ, chiến sĩ Công an, Quân đội, Thuế vụ, Hải quan... để kiểm tra, bắt giữ, khám người có trách nhiệm về tài sản buộc họ phải giao nộp tiền hoặc tài sản. Ví dụ: T, Đ và H đã giả danh Cảnh sát giao thông để chặn xe tải do anh Đ lái, buộc anh Đ phải nộp một số tiền nếu không sẽ đưa xe về trụ sở. Vì anh Đchở hàng tươi sống nếu để chúng đưa xe về trụ sở thì sẽ hỏng hết hàng nên anh Đ đã giáo cho bọn chúng một số tiền.
Cưỡng đoạt tài sản là hành vi được thực hiện một cách công khai, trắng trợn. Tuy nhiên, sự công khai trắng trợn chủ yếu đối với người có trách nhiệm về tài sản, còn đối với những người khác, người phạm tội không quan tâm, nếu hành vi phạm tội được thực hiện ở nơi công cộng, người phạm tội chỉ công khai trắng trợn với người có trách nhiệm về tài sản còn những người khác thì người phạm tội lại có ý thức lén lút.
b. Hậu quả
Tội cưỡng đoạt tài sản là tội có cấu thành hình thức, điều này được thể hiện ngay điều văn của điều luật “nhằm chiếm đoạt tài sản”, do đó cũng như đối với tội cướp tài sản và tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt, hậu quả không phải là yếu tố bắt buộc để định tội, nếu người phạm tội chưa gây ra hậu quả nhưng có ý thức chiếm đoạt và đã thực hiện hành vi đe dạo sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản là tội phạm đã hoàn thành. Tuy nhiên, nếu gây ra hậu quả thì tuỳ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm mà người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt nặng hơn hoặc là tình tiết xem xét khi quyết định hình phạt.
Nếu hậu quả chưa xảy ra (người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản) thì cũng không vì thế mà cho rằng tội cưỡng đoạt tài sản được thực hiện ở giai đoạn chưa đạt, vì người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan đó là đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc đã dùng thủ đoạn uy hiếp tinh thần người có trách nhiệm đến tài sản. Tuy nhiên, nếu người phạm tội chưa thực hiện hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc chưa dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người có trách nhiệm về tài sản, thì hành vi phạm tội thuộc trường hợp chuẩn bị phạm tội.
Do cấu tạo của Điều 170 Bộ luật hình sự không có quy định trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ của người khác là tình tiết định khung hình phạt. Do đó, nếu người phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị hại hoặc của người khác thì tuy từng trường hợp mà người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
- Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm
Cũng như đối với tội cướp tài sản và tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản cũng được thực hiện do cố ý. Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Nếu hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người có trách nhiệm về tài sản lại nhằm một mục đích khác mà không nhằm chiếm đoạt tài sản thì không phải là tội cưỡng đoạt tài sản mà tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội phạm tương ứng khác.
Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội có thể có trước khi thực hiện hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người có trách nhiệm về tài sản, nhưng cũng có thể xuất hiện trong hoặc sau khi đã thực hiện hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người có trách nhiệm về tài sản. |
Mẫu Đơn Tố Cáo Đe Dọa Giết Người |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh
phúc
ĐƠN TỐ CÁO
(V/v đối tượng có số điện
thoại: ................ có hành vi đe dọa giết người)
Kính gửi: CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA CÔNG AN HUYỆN
VŨNG LIÊM – VĨNH LONG
Đồng kính gửi: CÔNG AN XÃ QUỚI AN, VŨNG LIÊM,
VĨNH LONG.
Người tố cáo: Tôi
tên: ...........................
Người bị tố cáo: đối tượng có số điện thoại: .................
Địa chỉ: ........................
Nội dung tố cáo:
Nguyên tôi có làm ăn mua
bán cá chết với công ty Cổ phần Gò Đàng theo hợp đồng mua bán cá số 13/HĐCT/18
ngày 13/02/2018 giữa công ty cổ phần Gò Đàng và tôi Nguyễn Thị Ngọc Hà. Vừa qua giữa chúng tôi và Công ty ty cổ phần
Gò Đàng có tranh chấp hợp đồng với nhau, Công ty Gò Đàng có đối tác thứ 3 muốn
mua cá của Công ty Gò Đàng do cạnh tranh không lành mạnh với tôi nên khi thấy
tôi mua được cá chết của Công ty Gò Đàng thì có 1 dối tượng có số điện thoại:................... quay lại đe dọa giết tôi để tôi bỏ mối làm ăn với Công ty Gò Đàng để
đối tượng này làm ăn với Gò Đàng.
Đối tượng này có nhắn tin
cho tôi nhiều lần với nội dung như: “tao
sẽ xử mày, thuê người xử tôi...cho xe cán, cho gây tai nạn cho tôi..., đe dọa
giết chồng con tôi...”. (đính kèm hình ảnh tin nhắn đe dọa giết tôi)
Hành vi của đối tượng này
hết sức manh động, hung hãn, thể hiện thói côn đồ, coi thường pháp luật, tính mạng,
sức khỏe người khác. Ngang nhiên thách thức pháp luật. Hành vi trên làm tôi và
gia đình hoang mang, ngày đêm không ngủ được, gia đình tôi không dám ai đi ra
ngoài nữa, con tôi cũng không dám đi học. Gia đình tôi cảm nhận sẽ bị đối tượng
này giết hoặc thuê người giết chúng tôi.
Đối tượng này có hành vi đe dọa
dùng vũ lực để xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của tôi gây ảnh hưởng rất lớn tới
tinh thần của tôi và gia dìnhtrong thời gian qua. Hành vi nhắn tin trên của đối
tượng có số điện thoại: 0929894795 đã đủ yếu tố cấu thành tội đe dọa giết người
theo quy định của Bộ luật hình sự 2015.
Như vậy hành vi của đối tượng có số điện thoại ........................ đã đủ yếu tố cấu thành “Tội
đe dọa giết người”, căn cứ theo Điều 133 Bộ luật hình sự
2015.
Điều 133 Tội đe dọa giết người:
1.
Người nào đe dọa giết người, nếu có căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng
việc đe dọa này sẽ được thực hiện, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03
năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến
07 năm:
a)
Đối với 02 người trở lên;
b)
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c)
Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
d)
Đối với người dưới 16 tuổi;
đ)
Để che giấu hoặc trốn tránh việc bị xử lý về một tội phạm khác.
Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình,
bảo đảm quyền sở hữu tài sản, bảo đảm tính mạng cho tôi và gia đình tôi
Nay tôi viết đơn này tố cáo này
để tố cáo đối tượng có số
điện thoại: ................. đã có hành vi đe dọa giết tôi.
Kính đề nghị Quí cơ quan Công an Huyện Vũng Liêm và Công an xã
Quới An trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình phối hộp giải quyết
cho tôi những yêu cầu sau đây:
- Xác minh và khởi tố vụ án hình sự để điều tra, đưa ra truy tố,
xét xử đối tượng có số điện thoại: 0929894795 về hành vi về hành di đe dọa
giết người.
- Buộc đối tượng có số điện thoại: ............. phải chấm dứt ngay hành vi đe dọa dùng vũ lực để xâm phạm tới tính mạng,
sức khỏe của tôi.
- Yêu cầu cơ quan công an xác minh tại tổng đài số điện thoại,
trung tâm cước phí điện thoại xác minh chủ thuê bao đối tượng có số điện thoại .............. là ai, nhắn tin và điện thoại cho tôi tại
mã vũng phát sóng tại đâu? cột phát sóng huyện, tỉnh nào? Để xác minh đối tượng
đang sinh sống tại đâu để thuận tiện cho công việc điều tra, truy tố, xét xử.
Tôi xác định đối tượng này là người làm ăn cùng ngành nghề với tôi và cùng mua
cá của Công ty Cổ phần Gò Đàng, kinh doanh thuê hồ kinh doanh nuôi cá trê tại địa
bàn: ấp Phước Thọ, xã Quế An, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh
Long.
Tôi
cam kết toàn bộ nội dung đã trình bày trên là hoàn toàn đúng sự thật và chịu
trách nhiệm trước pháp luật về những điều trình bày trên.
Kính mong được xem xét và giải quyết. Tôi tin
vào sự công tâm của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại Việt nam.
Trân trọng cảm ơn.
Vĩnh
Long, ngày tháng năm 2018
Người
tố cáo
Đính kèm: cmnd, hk sao y của tôi, tin nhắn đe
dọa tôi.
|
Luật Sư Tư Vấn Tội Gây Rối Trật Tự Công Cộng |
Tội gây rối trật tự công cộng được quy định cụ thể về hành vi vi phạm, lỗi, khung hình phạt và các quy định khác liên quan đến hành vi gây rối trật tự công cộng, cụ thể như sau:
Theo điều 235 BLHS thì Tội gây rối trật tự công cộng được quy định như sau:
"1. Người nào gây rối trật tự công cộng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có dùng vũ khí hoặc có hành vi phá phách;
b) Có tổ chức;
c) Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng;
d) Xúi giục người khác gây rối;
đ) Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng;
e) Tái phạm nguy hiểm."
1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tôi phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, chỉ cần người có hành vi vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm đến một độ tuổi nhất định và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể là chủ thể của tội phạm này.
Theo quy định tại Điều 12 BLHS thì chỉ người đủ 16 tuổi trở lên mới là chủ thể của tội phạm này, vì tội phạm này không có trường hợp nào là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạ đặc biệt nghiêm trọng.
Nếu hành vi gây rối trật tự công cộng chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng thì người có hành vi chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu người đó đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm
Tội gây rối trật tự công cộng là tội xâm phạm đến an toàn công cộng, đến quy tắc, sinh hoạt, đi lại, làm việc, vui chơi… ở nơi công cộng.
3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm
a) Hành vi khách quan
Người phạm tội thực hiện hành vi gây rối bằng nhiều phương thức khác nhau như: tập trung đông người ở nơi công cộng gây náo động làm mất trật tự công cộng; đập phá các công trình ở nơi công cộng, đập phá các tài sản trong các quán ăn, quán giải khát có đông người…
Khi xác định hành vi gây rối trật tự cần phải phân biệt với hành vi tuy có gây rối trật tự công cộng nhưng đã cấu thành một tội phạm khác thì người có hành vi gây rối chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng mà họ đã thực hiện, mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng.
Thực tiễn xét xử cho thấy, đối với hành vi gây rối trật tự công cộng thường là hành vi khởi đầu cho những hành vi phạm tội khác kế tiếp như: giết người, cố ý gây thương tích, chống người thi hành công vụ, hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản… Tuy nhiên, cũng có trường hợp từ hành vi phạm tội khác mà dẫn đến hành vi gây rối trật tự công cộng như: tổ chức đua xe trái phép, đua xe trái phép, đánh bạc, vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ… Những người bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trong các trường hợp này là người có liên quan đến hành vi phạm tội khác nhưng vì không đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm đó.
b) Hậu quả
Hậu quả của hành vi gây rối trật tự công cộng là thiệt hại vật chất và phi vật chất được xác định là nghiêm trọng cho xã hội.
Hậu quả vừa là dấu hiệu bắt buộc, vừa là không phải dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này.
Là dấu hiệu bắt buộc nếu người phạm tội chưa bị xử phạt hành chính về hành vi gây rối trật tự công cộng hoặc chưa bị kết án về tội này hoặc tuy đã bị kết án về tội này nhưng đã được xóa án tích.
Không phải là dấu hiệu bắt buộc nếu người phạm tội đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã được kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao thì coi là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi gây rối trật tự công cộng nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
– Cản trở, ách tắc giao thông đến dưới 2 giờ;
– Cản trở sự hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân;
– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên;
– Gây cho người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khỏe với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn thiệt hại về tài sản có giá trị từ 5 triệu đồng trở lên;
– Gây cho nhiều người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khỏe với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật cảu tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm triệu đồng trở lên.
Ngoài các hậu quả xảy ra về tính mạng, sức khỏe và tài sản được hướng dẫn trên đây, thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất như có ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách cảu Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, ngoại giao, đến trật tự, an toàn xã hội…Trong các trường hợp này phải tùy vào các trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra có phài là nghiêm trọng hay không.
Khi xác định hậu quả của hành vi phạm tội cần chú ý: có thể trong vụ án gây rối trật tự công cộng thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản đã là hậu quả cảu hành vi phạm tội khác và người phạm tội khác đó đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm khác nhưng vẫn được tính là hậu quả nghiêm trọng của hành vi gây rối để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi gây rối.
c) Các dấu hiệu khách quan khác
Ngoài hành vi, hậu quả do hành vi vi phạm gây ra, nhà làm luật không quy định dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc cảu cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, khi xác định hành vi phạm tội gây rối cần nghiên cứu các quy định của nhà nước về các quy tắc, trật tự ở nơi công cộng.
4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội thực hiện hành vi gây rối trật tự công cộng là do cố ý. |
Luật Sư Tư Vấn Tội Không Tố Giác Tội Phạm |
Theo
quy định tại điều 390 quy định về Tội không tố giác tội phạm như sau:
“1.
Người nào biết rõ một trong các tội phạm được quy định tại Điều 389 của Bộ luật
này đang được chuẩn bị, đang hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, nếu không
thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 19 của Bộ luật này, thì bị phạt
cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến
03 năm.
2.
Người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế
tác hại của tội phạm, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình
phạt.”
Theo
đó, không tố giác tội phạm, được hiểu là hành vi không báo cho cơ quan có thẩm
quyền về một trong các tội phạm được Bộ luật Hình sự quy định (tại Điều 389) mà
mình biết rõ là đang được chuẩn bị, đang hoặc đã được thực hiện.
Tội
phạm mà người phạm tội biết rõ là đang chuẩn bị, đang hoặc đã thực hiện phải là
một trong các tội phạm được quy định tại Điều 389 Bộ luật Hình sự, đây là dấu
hiệu cấu thành cơ bản của tội phạm này. Những tội phạm khác dù biêt rõ đã
chuẩn bị, đã hoặc đang thực hiện mà không tố giác thì cũng không bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội này.
Trong
khi đó theo quy định tại Điều 389 quy định về Tội che giấu tội phạm như
sau:
“1. Người nào không hứa hẹn trước
mà che giấu một trong các tội phạm quy định tại các điều sau đây, nếu không thuộc
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 18 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm:
a)
Các điều từ Điều 108 đến Điều 121 về các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
b)
Điều 123 (tội giết người); Điều 141, các khoản 2, 3 và 4 (tội hiếp dâm); Điều
142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi); Điều 146, các khoản 2 và 3 (tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi);
Điều 150, các khoản 2 và 3 (tội mua bán người);
c)
Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 152 (tội đánh tráo người dưới
01 tuổi); Điều 153 (tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi); Điều 154 (tội mua bán,
chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người);
d)
Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 169 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản); Điều
173, các khoản 2, 3 và 4 (tội trộm cắp tài sản); Điều 174, các khoản 2, 3 và 4
(tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản); Điều 175, các khoản 2, 3 và 4 (tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản); Điều 178, các khoản 2, 3 và 4 (tội hủy hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản);
đ)
Điều 188, các khoản 3 và 4 (tội buôn lậu); Điều 189, khoản 3 (tội vận chuyển
trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới); Điều 190, các khoản 2 và 3 (tội sản
xuất, buôn bán hàng cấm); Điều 191, các khoản 2 và 3 (tội tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm); Điều 192, các khoản 2 và 3 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả); Điều
193 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm);
Điều 194 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh);
Điều 195, các khoản 2 và 3 (tội sản xuất hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi,
phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi); Điều
196, các khoản 2 và 3 (tội đầu cơ); Điều 205, các khoản 3 và 4 (tội lập quỹ
trái phép); Điều 206, các khoản 2 và 3 (tội vi phạm quy định trong hoạt động của
các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài); Điều 207 (tội làm, tàng
trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả); Điều 208 (tội làm, tàng trữ, vận chuyển,
lưu hành công cụ chuyển nhượng giả, các giấy tờ có giá giả khác); Điều 219, các
khoản 2 và 3 (tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát,
lãng phí); Điều 220, các khoản 2 và 3 (tội vi phạm quy định của Nhà nước về quản
lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng); Điều 221, các khoản 2
và 3 (tội vi phạm quy định của Nhà nước về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng);
Điều 222, các khoản 2 và 3 (tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm
trọng); Điều 223, các khoản 2 và 3 (tội thông đồng, bao che cho người nộp thuế
gây hậu quả nghiêm trọng); Điều 224, các khoản 2 và 3 (tội vi phạm quy định về
đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng); Điều 243, các khoản 2 và
3 (tội hủy hoại rừng);
e)
Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép
chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội
mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy); Điều 253
(tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản
xuất trái phép chất ma túy); Điều 254, khoản 2 (tội sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển hoặc mua bán phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng
trái phép chất ma túy); Điều 255 (tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy);
Điều 256 (tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy); Điều 257 (tội cưỡng
bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy); Điều 258 (tội lôi kéo người khác
sử dụng trái phép chất ma túy); Điều 259, khoản 2 (tội vi phạm quy định về quản
lý, sử dụng chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần);
g)
Điều 265, các khoản 2, 3 và 4 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 282 (tội chiếm
đoạt tàu bay, tàu thủy); Điều 299 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự);
Điều 299 (tội khủng bố); Điều 301 (tội bắt cóc con tin); Điều 302 (tội cướp biển);
Điều 303 (tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc
gia); Điều 304 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự); Điều 305, các
khoản 2, 3 và 4 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ); Điều 309, các khoản 2, 3 và 4 (tội sản xuất, tàng
trữ, vận chuyển, sử dụng, phát tán, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất
phóng xạ, vật liệu hạt nhân); Điều 311, các khoản 2, 3 và 4 (tội sản xuất, tàng
trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc);
h)
Điều 329, các khoản 2 và 3 (tội mua dâm người dưới 18 tuổi);
i)
Điều 353, các khoản 2, 3 và 4 (tội tham ô tài sản); Điều 354, các khoản 2, 3 và
4 (tội nhận hối lộ); Điều 355, các khoản 2, 3 và 4 (tội lạm dụng chức vụ, quyền
hạn chiếm đoạt tài sản); Điều 356, các khoản 2 và 3 (tội lợi dụng chức vụ, quyền
hạn trong khi thi hành công vụ); Điều 357, các khoản 2 và 3 (tội lạm quyền
trong khi thi hành công vụ); Điều 358, các khoản 2, 3 và 4 (tội lợi dụng chức vụ,
quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi); Điều 359, các khoản 2,
3 và 4 (tội giả mạo trong công tác); Điều 364, các khoản 2, 3 và 4 (tội đưa hối
lộ); Điều 365, các khoản 2, 3 và 4 (tội làm môi giới hối lộ);
k)
Điều 373, các khoản 3 và 4 (tội dùng nhục hình); Điều 374, các khoản 3 và 4 (tội
bức cung); Điều 386, khoản 2 (tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị
áp giải, dẫn giải, đang bị xét xử);
l)
Các điều từ Điều 421 đến Điều 425 về các tội phá hoại hòa bình, chống loài người
và tội phạm chiến tranh.
2.
Phạm tội trong trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc phát hiện tội
phạm hoặc có những hành vi khác bao che người phạm tội, thì bị phạt tù từ 02
năm đến 07 năm.”
Như
vậy, căn cứ quy định trên thì tội không tố giác tội phạm chỉ cấu thành khi biết
rõ người thực hiện hành vi phạm tội là đang chuẩn bị, đang hoặc đã thực hiện phải
là một trong các tội phạm được quy định tại Điều 389 Bộ luật Hình sự, đây là dấu
hiệu cấu thành cơ bản của tội phạm này. Những tội phạm khác dù biêt rõ đã
chuẩn bị, đã hoặc đang thực hiện mà không tố giác thì cũng không bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội này.
Căn cứ theo quy định trên thì tội hành hạ người
khác không nằm trong những tội được quy định tại điều 389 nên việc người quay
clip không tố cáo hành vi bà Hồng không cấu thành tội không tố giác tội |
Những Quy Định Có Lợi Cho Bị Can Bị Cáo |
Quốc hội khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 về việc lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13; Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13; Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 và bổ ung dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016. Mà theo đó:
-Tại khoản 3 Điều 1 của Nghị quyết này quy định:“Tiếp tục áp dụng Bộ luật Hình sự số 15/1999/QH10 (được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 37/2009/QH12); Bộ luật tố tụng hình sự số 19/2003/QH11; Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự số 23/2004/PL-UBTVQH11 (được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Pháp lệnh số 30/2006/PL-UBTVQH11 và Pháp lệnh số 09/2009/PL-UBTVQH12); Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ban hành Quy chế về tạm giữ, tạm giam (được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 98/2002/NĐ-CP và Nghị định số 09/2011/NĐ-CP của Chính phủ) cho đến ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 có hiệu lực thi hành.”.
-Tại điểm b khoản 4 Điều 1 của Nghị quyết 144/2016/QH13 có quy định:“Áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 để thi hành các quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 và Nghị quyết số 109/2015/QH13 tại điểm a khoản này;”.
Theo những quy định này, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự hiện nay, các cơ quan tiến hành tố tụng phải đồng thời áp dụng quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 và những quy định có lợi cho người bị buộc tội quy định trong BLTTHS năm 2015. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập đến vấn đề quy định có lợi cho người bị buộc tội trong BLTTHS 2015 phải được áp dụng cho đến khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 có hiệu lực thi hành.
1. Thế nào là quy định được coi là có lợi cho người bị buộc tội?
Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015: “Người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.”
Thuật ngữ “nguyên tắc có lợi” đã tồn tại từ lâu trong đời sống pháp luật, đặc biệt sau mỗi lần sửa đổi, bổ sung BLHS, BLTTHS; các Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành các bộ luật này đều hướng dẫn các trường hợp được sửa đổi, bổ sung theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo.
Cụ thể, đối với BLHS, việc quy định áp dụng “nguyên tắc có lợi” đối với người bị buộc tội thường xoay quanh việc áp dụng hay không áp dụng chính sách hình sự mới (hình sự hoặc phi hình sự hóa hành vi); áp dụng hình phạt đối với người phạm tội mà BLHS được sửa đổi, bổ sung đã bỏ hình phạt tử hình; chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân đối với người đã bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành án mà có đủ các điều kiện quy định mới; các điều khoản của BLHS mới xóa bỏ tình tiết tăng nặng; quy định hình phạt nhẹ hơn, tình tiết giảm nhẹ mới; miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội. Ngoài ra, các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng “nguyên tắc có lợi” trong định tội danh, định khung hình phạt đối với những quy định chưa rõ ràng về định lượng.
Đối với BLTTHS, qua nghiên cứu tác giả thấy rằng: Nghị quyết của Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 28/6/1988 về việc thi hành BLTTHS năm 1988; Nghị quyết số 24/2003-QH11của Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003 về việc thi hành BLTTHS năm 2003; Nghị quyết số 110/2015/QH13của Quốc hội khoá XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27/11/2015 về việc thi hành BLTTHS năm 2015, đều không đề cập đến cụm từ áp dụng quy định có lợi cho người bị tạm giam, bị can, bị cáo. Chỉ riêng trường hợp khi xét Tờ trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII, ngày 29/6/2016 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 144/2016/QH13, mà theo đó, tại điểm b khoản 4 Điều 1 của Nghị quyết này có quy định: “Áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 để thi hành các quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 và Nghị quyết số 109/2015/QH13 tại điểm a khoản này;”.
Để áp dụng đúng, thống nhất và kịp thời các quy định tại điểm a và điểm b khoản 4 Điều 1 Nghị quyết 144/2016/QH13 về các quy định có lợi cho người phạm tội của BLHS năm 2015 và các quy định của BLTTHS năm 2015, ngày 13/9/2016 Tòa án nhân dân tối cao ban hành Công văn số 276/TANDTC-PC hướng dẫn áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm. Mà theo đó, tại Mục 3 Công văn này có viết: “Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để thi hành các quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015 là các quy định về thủ tục tố tụng áp dụng đối với các trường hợp sau:
a) Chuyển hình phạt tử hình sang hình phạt tù chung thân đối với các trường hợp quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 40 Bộ luật hình sự năm 2015; các Điểm a, b và Điểm c Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015 của Quốc hội và hướng dẫn tại Khoản 2 Điều 1 và Điều 2 Nghị quyết số 01/2016/NQ-HĐTP ngày 30 tháng 6 năm 2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
b) Tha tù trước thời hạn có Điều kiện;
c) Xóa án tích;
d) Xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi.”
Như vậy, nếu như ngoài việc áp dụng các quy định về thủ tục tố tụng đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, d của Mục 3 Công văn số 276/TANDTC-PC, mà rõ ràng việc áp dụng đó là có lợi cho người bị buộc tội, thì được phép không? Việc áp dụng đó có tuân thủ quy định tại điểm b khoản 4 Điều 1 Nghị quyết số 144/2016/QH13 không?. Bởi BLTTHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới theo hướng tôn trọng quyền con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, mà những quy định đó không chỉ tập trung vào các nội dung như liệt kê tại các điểm a, b, c, d Mục 3 Công văn 276/TANDTC-PC. Chính vì lẽ đó, đây là vấn đề còn có những quan điểm khác nhau về việc áp dụng các quy định của BLTTHS năm 2015 theo hướng có lợi cho người bị buộc tội, như sau:
+Quan điểm thứ nhất: Những quy định của BLTTHS năm 2015 có lợi cho người phạm tội, được hiểu đó là những quy định trực tiếp liên quan đến quyền của người bị buộc tội, nhằm bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện tốt quyền bào chữa và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ, như: Được nhận các quyết định tố tụng liên quan đến mình; Đưa ra chứng cứ; Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người định giá tài sản, người dịch thuật; Bị can có quyền đọc, ghi chép bản sao hoặc tài liệu đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội họ trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra theo quy định của Bộ luật này khi có yêu cầu; Bị cáo có quyền trực tiếp hỏi những người tham gia tố tụng nếu được Chủ tọa phiên tòa đồng ý.
+Quan điểm thứ hai: Những quy định của BLTTHS năm 2015 có lợi cho người bị buộc tội là những quy định hướng tới bảo vệ cho họ không bị xâm hại bởi các chủ thể tiến hành tố tụng, như không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội và các bảo đảm cho việc thực hiện thống nhất các quy định liên quan đến các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội trong thực tiễn. Do đó, các quy định này phải được xem xét từ phía Người bị buộc tội (chủ thể có quyền) và từ phía những Người tiến hành tố tụng (chủ thể có trách nhiệm, nghĩa vụ thực hiện).
Tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai, vì những quy định có lợi cho người bị buộc tội là những quy định mới hoặc được sửa đổi, bổ sung trong BLTTHS 2015 mà việc áp dụng các quy định này nhằm bảo đảm quyền con người, quyền của người bị buộc tội. Đồng thời, tạo thuận lợi cho các cơ quan và người tiến hành tố tụng thực hiện đúng đắn và đầy đủ nhất chức năng và trách nhiệm, nghĩa vụ của mình. Một trong những nguyên tắc được BLTTHS năm 2015 ghi nhận tại Điều 13, đó là suy đoán vô tội. Có thể nói, nguyên tắc suy đoán vô tội trong TTHS là một thành tựu của khoa học pháp lý hiện đại trên thế giới. Đối với hầu hết các quốc gia, nguyên tắc suy đoán vô tội giữ một vị trí vô cùng quan trọng, định hướng cho toàn bộ quá trình tố tụng giải quyết vụ án hình sự. Nguyên tắc này không còn là riêng biệt trong pháp luật của từng quốc gia mà nó đã được toàn cầu hóa, được ghi nhận ở Điều 11 của Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (Universal Decleration of Human Rights).
Ở một khía cạnh khác, nguyên tắc suy đoán vô tội có sự gắn bó mật thiết với nguyên tắc xét xử công bằng. Đặt giả thuyết rằng nếu một người bị cáo buộc là phạm tội, và tòa án hay các cơ quan có thẩm quyền hiển nhiên coi anh ta là có tội, hoặc sự phán quyết chỉ đơn thuần dựa trên lời nhận tội của bị cáo thì điều đó có nghĩa là nguyên tắc suy đoán vô tội đã bị vi phạm. Như vậy, vấn đề cốt lõi và cơ bản của nguyên tắc chính là ở chỗ “mọi nghi ngờ phải được giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội”. Điều này cho phép trước những lập luận theo chiều hướng suy đoán có tội từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, thì người bị buộc tội, ít nhất, cũng có quyền đưa ra những chứng cứ nhằm bảo vệ mình hay quyền bào chữa mà pháp luật tố tụng đã có những quy định mới theo hướng thông thoáng hơn, minh bạch hơn. Việc làm này sẽ đảm bảo cho người bị buộc tội thấy rằng quyền lợi chính đáng của anh ta được bảo vệ trọn vẹn.
2. Những quy định của BLTTHS năm 2015 có lợi cho người bị buộc tội
2.1. Các quy định về quyền của người bị buộc tội
Đó là những nội dung quy định được bổ sung đối với người bị buộc tội, tại các điều 58, 59, 60 và 61 BLTTHS năm 2015, gồm các quyền sau: Được nhận các quyết định tố tụng liên quan đến mình; Đưa ra chứng cứ; Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người định giá tài sản, người dịch thuật; Bị can có quyền đọc, ghi chép bản sao hoặc tài liệu đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội họ trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra theo quy định của Bộ luật này khi có yêu cầu; Bị cáo có quyền trực tiếp hỏi những người tham gia tố tụng nếu được Chủ tọa phiên tòa đồng ý.
2.2. Các quy định liên quan đến bào chữa
Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt cũng phải được bảo đảm quyền bào chữa (Điều 72); Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý theo quy định tại Điều 10.
Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 và Điều 2.
Nghị định 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý); Thay thế quy định cấp giấy chứng nhận người bào chữa bằng thủ tục đăng ký bào chữa (Điều 78).
Đặc biệt, theo quy định tại Điều 73 BLTTHS 2015, người bào chữa được luật bổ sung cơ chế nhằm thực hiện các quyền, sau:
+ Gặp người bị buộc tội đang bị bắt, tạm giữ, tạm giam, thủ tục giao nộp chứng cứ, thủ tục đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án.
+ Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, cụ thể: Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can;
+Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung;
+ Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này, như hoạt động thực nghiệm điều tra;
+ Thu thập chứng cứ; kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
+ Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;
+ Đề nghị thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế.
Ngoài ra, theo Điều 81 BLTTHS 2015 quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa và cách thức người bào chữa thu thập chứng cứ, gồm: gặp thân chủ, bị hại, người làm chứng, những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và các tình tiết liên quan đến việc bào chữa.
Bên cạnh đó, một quy định được coi là có lợi cho người bị buộc tội, đó là người thân thích của người bị buộc tội có quyền mời người bào chữa. Đồng thời, quy định cụ thể thủ tục và trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ quan quản lý người bị tạm giữ, tạm giam khi tiếp nhận được yêu cầu nhờ người bào từ người buộc tội phải chuyển yêu cầu này hoặc thông báo cho người bào chữa được họ nhờ biết; có trách nhiệm tạo điều kiện cho người bào chữa liên hệ với người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam để thỏa thuận về việc nhờ bào chữa.
Theo Điều 76 của Bộ luật này, cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền bắt buộc mời người bào chữa cho bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là 20 năm, tù chung thân, tử hình;
2.3. Quy định về những việc cần làm ngay sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp,bắt người hoặc nhận người bị giữ, bị bắt
Điều 114 BLTTHS 2015 quy định rõ những việc cần làm ngay sau khi bắt người hoặc nhận người bị bắt; trách nhiệm của cơ quan bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp truy nã; trách nhiệm của cơ quan đã ra quyết định truy nã. Nội dung các quy định này là pháp điển hóa Mục 4 Thông tư liên tịch 05/2005/TTLT- VKSNDTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Công an – Bộ Quốc phòng về quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2003
2.4. Các quy định về căn cứ tạm giam và thời hạn tạm giam
Điều 119 và Điều 173 BLTTHS 2015 quy định chặt chẽ căn cứ tạm giam đối với bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về các tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt chính là phạt tù trên 2 năm thì việc tạm giam chỉ có thể được áp dụng khi thuộc các trước hợp sau đây:
i) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
ii) Không có nơi cứ trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
iii) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
iv) Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
v) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Ngoài ra, chỉ có thể tạm giam bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định mức phạt tù đến 2 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã.
Trong giai đoạn điều tra, luật đã rút ngắn thời hạn tạm giam 1 tháng đối với tội ít nghiêm trọng; 2 tháng đối với tội rất nghiêm trọng. Đồng thời, để đáp ứng yêu cầu đấu tranh với các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, BLTTHS 2015 cho phép gia hạn tạm giam đến khi kết thúc điều tra nhưng để bảo đảm chặt chẽ, tránh lạm dụng, thẩm quyền gia hạn tạm giam trong trường hợp này chỉ thuộc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
2.5. Quy định về các biện pháp ngăn chặn thay thế biện pháp tạm giam
Mọi biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân được ràng buộc chặt chẽ hơn về thời hạn, BLTTHS 2015 đã quy định rõ ràng hơn về các biện pháp ngăn chặn thay thế biện pháp tạm giam. Việc áp dụng các quy định này cơ bản thỏa mãn điều kiện có lợi cho người bị buộc tội do đã cụ thể, minh bạch thời hạn áp dụng; theo đó, thời hạn áp dụng các biện pháp này không được quá thời hạn điều tra, truy tố, xét xử; đối với người bị kết án phạt tù thì không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù; cụ thể:
Đối với biện pháp Bảo lĩnh (Điều 121), mở rộng đối tượng nhận bảo lĩnh (Cơ quan, tổ chức, cá nhân); cụ thể hơn về điều kiện nhận bảo lĩnh; quyền của các đối tượng nhận bảo lĩnh; Đối với biện pháp Đặt tiền để bảo đảm (Điều 122), mở rộng đối tượng đặt tiền để bảo đảm; để dễ dàng thực hiện nhà làm luật chỉ quy định đặt tiền.
2.6. Các quy định về biện pháp cưỡng chế
Theo nguyên tắc áp dụng có lợi cho người bị buộc tội đã nêu, Điều 127 BLTTHS 2015 quy định về biện pháp áp giải, dẫn giải các đối tượng, trong đó có đối tượng người bị buộc tội. Đặc biệt, khi áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản; kê biên tài sản phải bảo đảm việc tôn trọng và bảo vệ lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội . Ngoài ra, Điều 130 của Bộ luật này có quy định rõ các trường hợp hủy bỏ biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản theo hướng minh bạch hơn.
2.7. Quy định về thủ tục lập biên bản và ký biên bản tố tụng trong các trường hợp người tham gia tố tụng không biết chữ hoặc có nhược điểm về thể chất, tâm thần mà không thể ký vào biên bản
Theo Điều 133 BLTTHS 2015, trường hợp người tham gia tố tụng không biết chữ thì người lập biên bản đọc biên bản cho họ nghe với sự có mặt của người chứng kiến. Biên bản phải có điểm chỉ của người tham gia tố tụng và chữ ký của người chứng kiến. Trường hợp người tham gia tố tụng có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc vì lý do khác mà không thể ký vào biên bản thì người lập biên bản đọc biên bản cho họ nghe với sự có mặt của người chứng kiến và những người tham gia tố tụng khác. Biên bản phải có chữ ký của người chứng kiến.
2.8. Quy định về giám định
Theo đó, trách nhiệm của cơ quan trưng cầu giám định trong thời hạn 24 giờ phải gửi quyết định trưng cầu giám định và kết luận giám định cho Viện kiểm sát, trong thời hạn 7 ngày phải thông báo kết luận giám định cho người tham gia tố tụng; thành phần và thủ tục giám định bổ sung và giám định lại; bổ sung cơ chế nhằm giải quyết xung đột giữa các kết luận giám định; theo đó, quy định trong trường hợp đặc biệt, Viện trưởng VKSND tối cao, Chánh án TAND tối cao có quyền quyết định giám định lại và kết luận giám định trong trường hợp này có hiệu lực để giải quyết vụ án. Đặc biệt là quy định cụ thể về thời hạn giám định (Điều 208 BLTTHS 2015)
2.9. Quy định về định giá tài sản
Yêu cầu định giá tài sản, thời hạn định giá tài sản, tiến hành định giá tài sản, định giá lại tài sản, định giá lại tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn, định giá lại tài sản trong trường hợp đặc biệt, kết luận định giá tài sản, quyền của bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác đối với kết luận định giá tài sản.
2.10. Các quy định đối với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
Những thẩm quyền có tính chất quyết định việc “đóng, mở” một giai đoạn tố tụng, những thẩm quyền liên quan đến việc hạn chế quyền con người, quyền công dân thì giao cho Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định. Còn những thẩm quyền có tính chất phát hiện hoặc làm sáng tỏ sự thật vụ án giao cho Điều tra viên, Kiểm sát viên trực tiếp quyết định. Từ đó thúc đẩy quá trình giải quyết vụ án khẩn trương, chính xác, đề cao trách nhiệm đầy đủ của từng chức danh tố tụng, đồng thời, bảo đảm thận trọng, chặt chẽ trong kiểm soát hoạt động tố tụng, phù hợp với mặt bằng năng lực các chức danh tư pháp hiện nay.
2.11. Quy định về các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
Để cụ thể hóa yêu cầu của Hiến pháp năm 2013 “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật…”, tạo cơ sở pháp lý để thực thi các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể các biện pháp được phép áp dụng bao gồm: ghi âm, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử; quy định chặt chẽ các trường hợp áp dụng chỉ đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền và các tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội đặc biệt nghiêm trọng; về thẩm quyền áp dụng phải có quyết định của Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên và được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn; về thời hạn áp dụng không quá 02 tháng, trường hợp đặc biệt có thể gia hạn nhưng không quá thời hạn điều tra; quy định cho phép sử dụng làm chứng cứ đối với những thông tin, tài liệu thu thập từ biện pháp điều tra đặc biệt; đồng thời, quy định nghiêm ngặt việc sử dụng các thông tin, tài liệu nhằm bảo vệ bí mật riêng tư của các cá nhân, tổ chức.
Tóm lại: BLTTHS 2015 có nhiều quy định tiến bộ, thể chế hóa đầy đủ các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Hiến pháp năm 2013, tăng cường hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Nhưng để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, theo hướng áp dụng các quy định có lợi cho người bị buộc tội theo tinh thần quy định của các Nghị quyết của Quốc hội khóa XIII như đã trình bày ở trên, rất cần sự hướng dẫn thống nhất nhận thức và áp dụng bằng văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về nội dung này.
ThS.LS Lê Văn Sua
2. Kể từ ngày Bộ luật hình sự năm 2015 được công bố:
a) Không áp dụng hình phạt tử hình khi xét xử người phạm tội mà Bộ luật hình sự năm 2015 đã bỏ hình phạt tử hình, đối với người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử;
b) Hình phạt tử hình đã tuyên đối với người được nêu tại điểm a khoản này nhưng chưa thi hành án, thì không thi hành và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt tù chung thân;
c) Đối với người đã bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành án mà có đủ các điều kiện quy định tại điểm c khoản 3 Điều 40 của Bộ luật hình sự năm 2015, thì không thi hành và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt tù chung thân;
2. Trường hợp hình phạt tử hình đã tuyên trước ngày 09 tháng 12 năm 2015 đối với người phạm tội mà Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã bỏ hình phạt tử hình và bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa thi hành án tử hình thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm báo cáo ngay Chánh án Tòa án nhân dân tối cao để Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân.
Điều 2. Về việc chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân đối với người đã bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành án mà có đủ các Điều kiện quy định tại Điểm c Khoản 3 Điều 40 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13
1. Kể từ ngày 09 tháng 12 năm 2015, người đã bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ và bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa thi hành án tử hình mà thuộc một trong các trường hợp sau đây thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân:
a) Sau khi bị kết án, người bị kết án tử hình đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, Điều tra, xử lý tội phạm;
b) Sau khi bị kết án, người bị kết án tử hình đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và lập công lớn.
2. “Chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ” là sau khi bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ, người bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ hoặc người bị kết án đã tích cực tác động để cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em và những người khác khắc phục hậu quả và những người này đã thực hiện việc nộp lại ít nhất ba phần tư giá trị tài sản mà người bị kết án đã tham ô, nhận hối lộ.
3. “Hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, Điều tra, xử lý tội phạm” là sau khi bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ, người bị kết án chủ động cung cấp những tin tức, tài liệu, chứng cứ có ý nghĩa cho việc phát hiện, Điều tra, xử lý tội phạm liên quan đến tội phạm mà họ bị kết án (như: chỉ đúng nơi cất giấu vật chứng quan trọng giúp cơ quan chức năng thu hồi được vật chứng đó; khai báo và chỉ đúng nơi đồng phạm khác đang bỏ trốn; khai báo về tội phạm và người phạm tội mới liên quan đến tội phạm mà họ bị kết án...). Ngoài những trường hợp nêu trên, có thể xác định những trường hợp khác là “hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, Điều tra, xử lý tội phạm” nhưng phải được các cơ quan tiến hành tố tụng thống nhất áp dụng.
4. “Lập công lớn” là sau khi bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ, người bị kết án đã giúp cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, truy bắt, Điều tra, xử lý tội phạm không liên quan đến tội phạm mà họ bị kết án; cứu được người khác trong tình thế hiểm nghèo hoặc cứu được tài sản có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên của Nhà nước, của tập thể, của công dân trong thiên tai, hỏa hoạn hoặc sự kiện bất khả kháng khác; có phát minh, sáng chế hoặc sáng kiến có giá trị lớn được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận. Ngoài những trường hợp nêu trên, có thể xác định những trường hợp khác là “lập công lớn” nhưng phải được các cơ quan tiến hành tố tụng thống nhất áp dụng.
5. Đối với người bị kết án tử hình thuộc trường hợp hướng dẫn tại Điểm a, Điểm b Khoản 1 Điều này, Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm chủ trì, phối hợp với Cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp rà soát, báo cáo ngay Chánh án Tòa án nhân dân tối cao để Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân.
Điều 10. Người được trợ giúp pháp lý
1. Người nghèo.
2. Người có công với cách mạng.
3. Người già cô đơn, người tàn tật và trẻ em không nơi nương tựa.
4. Người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Điều 2. Người được trợ giúp pháp lý
1. Người nghèo được trợ giúp pháp lý quy định tại khoản 1 Điều 10 Luật Trợ giúp pháp lý là người thuộc chuẩn nghèo theo quy định của pháp luật.
2. Người có công với cách mạng được trợ giúp pháp lý quy định tại khoản 2 Điều 10 Luật Trợ giúp pháp lý bao gồm:
a) Người hoạt động cách mạng trước Tổng khởi nghĩa 19 tháng 8 năm 1945;
b) Bà mẹ Việt Nam anh hùng;
c) Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động;
d) Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh;
đ) Bệnh binh;
e) Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học;
g) Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày;
h) Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế;
i) Người có công giúp đỡ cách mạng;
k) Cha, mẹ, vợ, chồng của liệt sĩ; con của liệt sĩ chưa đủ 18 tuổi; người có công nuôi dưỡng liệt sĩ.
3. Người già được trợ giúp pháp lý quy định tại khoản 3 Điều 10 Luật Trợ giúp pháp lý là người từ đủ 60 tuổi trở lên sống độc thân hoặc không có nơi nương tựa.
4. Người tàn tật được trợ giúp pháp lý quy định tại khoản 3 Điều 10 Luật Trợ giúp pháp lý là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn hoặc là người bị nhiễm chất độc hoá học, bị nhiễm HIV hoặc bị các bệnh khác làm mất năng lực hành vi dân sự mà không có nơi nương tựa.
5. Trẻ em được trợ giúp pháp lý quy định tại khoản 3 Điều 10 Luật Trợ giúp pháp lý là người dưới 16 tuổi không nơi nương tựa.
6. Người dân tộc thiểu số được trợ giúp pháp lý theo khoản 4 Điều 10 Luật Trợ giúp pháp lý là người thường xuyên sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật.
7. Các đối tượng khác được trợ giúp pháp lý theo quy định tại điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Nguồn: Bộ Tư Pháp
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Luật sư Gia Đình đang mở rộng và luôn nỗ lực hoàn thiện nhiều loại hình dịch vụ đa dạng trong khu vực, trong nước và trên thế giới nhằm mang lại cho khách hàng của mình những dịch vụ tư vấn hoàn hảo nhất.
Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hỗ trợ luật sư là đối tác tư vấn pháp luật trên Đài tiếng nói Bình Dương, Đài truyền hình Bình Dương, Đài Truyền hình HTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
|
|
Hỗ trợ trực tuyến |
ĐIỆN THOẠI GẶP
LUẬT SƯ :
0972238006(zalo, viber, telegram) |
Hỗ trợ trực tuyến: |
|
0972238006 |
|
|