Luật sư gia đình
Với phương châm "Luật Sư của Gia Đình Bạn, của doanh nghiệp" đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai, Bình Dương, VOH và trên các tờ báo uy tín quốc gia... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....
Trưởng VP:   LS TRẦN MINH HÙNG 
 
 
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Quan hệ pháp luật tranh chấp - Kiện đòi tài sản hay tranh chấp quyền sử dụng đất?
Luật sư tư vấn ly hôn nhanh tại quận 6
Vận chuyển bao nhiêu gam ma túy đá thì bị tử hình?
luật sư giỏi hình sự
Luật sư chuyên tư vấn pháp luật thừa kế tại quận bình tân
Một Việt kiều khởi kiện cháu trai ra Tòa vì không đòi được đất nhờ đứng tên
 Quy định chung khi lập di chúc thừa kế
Luật sư chuyên tư vấn pháp luật thừa kế tại quận bình tân
TRANH CHẤP THỪA KẾ CÓ NGƯỜI NƯỚC NGOÀI
Những rủi ro pháp lý doanh nghiệp thường gặp
Luật sư chuyên về kinh tế
Thừa kế là gì, di sản thừa kế là gì, cách xác định di sản thừa kế
Luật sư giỏi chuyên tranh tụng tại tòa án
Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Công Ty
Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng
Luật sư giỏi chuyên tranh tụng tại tòa án
Luật sư giỏi chuyên tranh tụng tại tòa án
Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Công Ty
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Công Ty
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật sư giỏi chuyên tranh tụng tại tòa án
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Tranh Tụng Tại Tphcm
luật sư tư vấn nhà đất
Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Công Ty
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Tư Vấn Kỹ Năng Tranh Chấp Kinh Doanh Thương Mại
luật sư nhà đất
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Công Ty
luật sư chuyên nhà đất tại tphcm
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
luật sư nhà đất
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Hãng Luật Uy Tín Về Nhà Đất Thừa Kế Tại Việt Nam
luật sư doanh nghiệp
Luật Sư Hôn Nhân Gia Đình
luật sư nhà đất
luật sư tư vấn
luật sư doanh nghiệp
Luật Sư Hôn Nhân Gia Đình
Luật Sư Hôn Nhân Gia Đình
luật sư doanh nghiệp
luật sư doanh nghiệp
luật sư thừa kế
luật sư doanh nghiệp
luat su nha dat
luật sư tư vấn chia tài sản khi ly hôn
luật sư thừa kế
luat su nha dat
luật sư chuyên tư vấn chia thừa kế
luật sư ly hôn
luật sư doanh nghiệp
luat su tu van ly hon
luật sư nhà đất
luat su nha dat
luật sư chuyên tư vấn chia thừa kế
luật sư trả lời báo chí
luật sư nhà đất
luật sư riêng cho công ty
luật sư tư vấn tại tphcm
luật sư bào chữa tại tòa về kinh tế
luật sư doanh nghiệp
luật sư nhà đất
luật sư riêng
hình báo
ls
kinh tế
tranh tụng
nhà đất
hình tu van tại nhà
luật sư nhà đất
hung1
hinh luat su
luat su
luat su
luat su
Hình 1
Hình 2
Hình 3

HOẠT ĐỘNG LUẬT SƯ

Bản án về tội buôn lậu
Luật sư tư vấn tranh chấp thừa kế tại tphcm
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Công Ty
luật sư thừa kế
Luật sư giỏi chuyên tranh tụng tại tòa án
Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn
luật sư công ty
luật sư thừa kế nhà đất
Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Hợp Đồng
luật sư chuyên tư vấn chia thừa kế
luật sư nhà đất thừa kế ly hôn doanh nghiệp
luật sư tư vấn ly hôn
luật sư nhà đất
luật sư thừa kế
ls
Cha Mẹ Chết Anh Em Không Chịu Chia Thừa Kế Kiện Tụng Thế Nào?
Cha Mẹ Chết Anh Em Không Chịu Chia Thừa Kế Kiện Tụng Thế Nào?

Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về những người thừa kế theo pháp luật như sau:

 

“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật

 

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

 

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết

….”

Như vậy tất cả 7 anh em của anh thuộc hàng thừa kế thứ nhất và đều được hưởng phần di sản mà bố mẹ để lại.

 

Điều 660 và 661 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định về phân chia di sản theo pháp luật :

 

"Điều 660. Phân chia di sản theo pháp luật

 

1. Khi phân chia di sản, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra được hưởng; nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng.

 

2. Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia.

 

"Điều 661. Hạn chế phân chia di sản

 

Trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia.

 

Trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Thời hạn này không quá 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn 03 năm mà bên còn sống chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần nhưng không quá 03 năm.”

 

Theo đó người em của anh có quyền yêu cầu bán ngôi nhà để phân chia di sản. Nhưng vì ngôi nhà đó hiện đang là nơi ở duy nhất, cũng là nơi làm ăn buôn bán của 4 anh em vì vậy việc người em thứ 5 yêu cầu bán ngôi  nhà để chia di sản sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của 4 anh em anh. Vì vậy anh có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản của mỗi người được hưởng nhưng chưa cho chia trong khoảng thời gian là 3 năm, nếu hết thời hạn 3 năm mà việc bán ngôi nhà để chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của anh em anh thì anh có quyền yêu cầu gia hạn 1 lần nhưng không quá 3 năm.

 

Như vậy anh không thể không đồng ý bán ngôi nhà hoặc chia tiền cho người em mà anh chỉ có thể yêu cầu hạn chế phân chia di sản.

 

Thứ hai, Khi người em thứ 5 khởi kiện bán ngôi nhà để chia di sản thì 4 anh em anh có được hưởng quyền ưu tiên gì không khi mà việc lo toan cho ngôi nhà đều do 4 anh em anh gánh vác chi phí từ xưa tới nay?

 

Tại Khoản 2 Điều 651 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định:

 

“2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.”

 

Theo đó thì ngôi nhà sẽ được chia đều cho 7 anh em, 4 anh em anh sẽ không được hưởng  bất cứ quyền ưu tiên nào.

 

Lỗi phổ biến khi xử tranh chấp thừa kế
Lỗi phổ biến khi xử tranh chấp thừa kế

Lỗi phổ biến khi xử tranh chấp thừa kế

Nhiều tòa quên không đề cập đến công sức duy trì, bảo quản di sản... dẫn đến việc kháng cáo, kháng nghị kéo dài, bản án bị cấp giám đốc thẩm hủy.

Ông Phạm Văn Trung (Việt kiều Australia) khởi kiện ông Phạm Văn Phụng (ngụ phường Phước Tiến, Nha Trang) ra TAND tỉnh Khánh Hòa yêu cầu chia di sản thừa kế là căn nhà 85 Huỳnh Thúc Kháng. Căn nhà do vợ chồng ông Phụng quản lý, sử dụng từ năm 1979.

Xử sơ thẩm, TAND tỉnh Khánh Hòa đã chấp nhận yêu cầu chia di sản thừa kế của ông Trung, xác định căn nhà (TP Nha Trang) là di sản thừa kế của cha các đương sự để lại. Từ đó, tòa phân chia di sản cho các đồng thừa kế theo quy định của pháp luật. Sau khi ông Phụng kháng cáo, Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại Đà Nẵng đã giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Hai bản án này bị kháng nghị giám đốc thẩm vì cả hai cấp tòa sơ, phúc thẩm đều quên áp dụng Điều 683 Bộ luật dân sự về thứ tự ưu tiên thanh toán khi không xem xét đến công sức của ông Phụng trong việc trông coi, duy trì quản lý di sản thừa kế từ năm 1979 đến năm 2003.

Tháng 3/2011, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã họp phiên giám đốc thẩm, hủy cả hai bản án sơ, phúc thẩm, giao hồ sơ về cho TAND tỉnh Khánh Hòa xét xử lại.

Sau đó, giải quyết lại vụ kiện, TAND tỉnh Khánh Hòa đã khắc phục những sai sót mà quyết định giám đốc thẩm chỉ ra. Sau khi người cha mất năm 1979, vợ chồng ông Phụng tiếp tục quản lý nhà đất đang tranh chấp, cúng giỗ cha mẹ, giữ gìn, bảo quản khối di sản. Trước khi chia di sản thừa kế, tòa đã trích 10% giá trị di sản để bù đắp công sức cho vợ chồng ông Phụng. Bản án này sau đó đã có hiệu lực pháp luật vì không có kháng nghị, kháng cáo.

Nhờ giám đốc thẩm nên không trắng tay

Bà Nguyễn Thị Lưới (Việt kiều Mỹ) khởi kiện bà Lê Thị Xanh ra TAND TP Nha Trang để đòi tài sản thừa kế là căn nhà nằm trên diện tích hơn 7.000 m2 đất tại xã Vĩnh Thạnh. Xử sơ thẩm, TAND tỉnh Khánh Hòa đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lưới, buộc bà Xanh phải giao trả toàn bộ nhà đất cho bà Lưới.

Bà Xanh kháng cáo. Xử phúc thẩm, Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại Đà Nẵng tuyên giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Theo yêu cầu của bà Lưới, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Khánh Hòa đã tổ chức cưỡng chế thi hành án. Tuy nhiên, chánh án TAND Tối cao đã có quyết định kháng nghị giám đốc thẩm. Theo quyết định này, vợ chồng bà Lưới định cư ở nước ngoài từ tháng 3/1991. Trong khi đó, bà Xanh trực tiếp quản lý, sử dụng toàn bộ nhà đất tranh chấp, có công sức tôn tạo, bảo quản, duy trì, xây sửa lại nhà đất, có công chăm sóc phụng dưỡng người để lại di sản khi còn sống, lo mai táng khi người để lại di sản mất. Ngoài nhà đất đang tranh chấp này, mẹ con bà Xanh không còn chỗ ở nào khác. Thế nhưng hai cấp tòa sơ, phúc thẩm đã không xem xét trích cho mẹ con bà Xanh một phần tương xứng với công sức của họ bỏ ra, đồng thời không xem xét đến nhu cầu về nhà đất của mẹ con bà là không đúng…

Họp phiên giám đốc thẩm, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã hủy cả hai bản án sơ, phúc thẩm, giao hồ sơ về cho TAND tỉnh Khánh Hòa giải quyết lại từ đầu. Đến tháng 3, vụ kiện kéo dài này cuối cùng cũng đã kết thúc bằng quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên đương sự. Theo đó, bà Lưới đã đồng ý trích một phần diện tích đất tương xứng cho bà Xanh như phân tích của quyết định giám đốc thẩm.

Tương tự là vụ tranh chấp di sản gồm nhà đất số 118/19B và 118/24 Trần Quý Cáp (TP Nha Trang) giữa bà Nguyễn Thị Hoa với ông Phan Văn Hường. Tháng 6, xử sơ thẩm, TAND TP Nha Trang đã quên xem xét giải quyết công sức bảo quản di sản của ông Hường. Ông Hường kháng cáo. Tại phiên phúc thẩm hồi đầu tháng 9 của TAND tỉnh Khánh Hòa, đại diện VKS và luật sư bảo vệ quyền lợi cho ông Hường đã đề nghị tòa hủy án sơ thẩm vì có nhiều vi phạm, trong đó có việc không xem xét công sức của bị đơn.

Theo tòa phúc thẩm, án sơ thẩm có thiếu sót về việc chưa thanh toán chi phí bảo quản di sản thừa kế trước khi chia di sản… như ý kiến của đại diện VKS và luật sư. Tuy nhiên, tòa phúc thẩm nhận định không nhất thiết phải hủy án vì thiếu sót này tòa có thể khắc phục. Từ đó, tòa phúc thẩm sửa án sơ thẩm, áp dụng Điều 683 Bộ luật Dân sự, trích ra 10% giá trị tài sản thừa kế cho ông Hường.

Theo điều 683, các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo thứ tự sau đây:

- Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng;

- Tiền cấp dưỡng còn thiếu;

- Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ;

- Tiền công lao động;

- Chi phí cho việc bảo quản di sản;

- Các chi phí khác.

Theo Pháp luật TP HCM

Giải quyết tranh chấp thừa kế di sản là TS gắn liền trên đất và QSDĐ đã hết thời hiệu khởi kiện
Giải quyết tranh chấp thừa kế di sản là TS gắn liền trên đất và QSDĐ đã hết thời hiệu khởi kiện

Giải quyết tranh chấp thừa kế di sản là TS gắn liền trên đất và QSDĐ đã hết thời hiệu khởi kiện

25/04/2015
 
 

Cụ ông Trần Đình L, sinh năm 1920 và cụ bà Tăng Thị K, sinh năm 1922, có với nhau 03 người con là ông Trần Đình A, ông Trần Đình Q và bà Trần Thị Hồng S. Cụ L chết tháng 4/1982, cụ K chết tháng 12/2004 đều không để lại di chúc, sau khi hai cụ qua đời, ông A và vợ là bà H tiếp tục quản lý và sử dụng khối di sản của hai cụ để lại là ngôi nhà cấp 4 xây tường gạch, gỗ lim có diện tích 49 m2 được xây cất trên thửa đất có diện tích 394 m2, thể hiện trên bản đồ địa chính của địa phương thửa đất của hai cụ để lại nằm tại vị trí số 2, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại số 28, khu phố 4, đường N.T.T., phường M, thành phố B (chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở)

Ngày 04/8/2006, ông Trần Đình Q khởi kiện ông A yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ L và cụ K để lại; ngày 15/8/2006 ông A và bà H tự ý phá đi căn nhà cấp 4 nói trên. TAND thành phố B khi thụ lý đơn khởi kiện có căn cứ xác định: Đây là loại tranh chấp về quyền thừa kế di sản là tài sản gắn liền trên đất và quyền sử dụng đất do người chết để lại không có di chúc, các đương sự không tranh chấp về hàng thừa kế nhưng không có một trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2, mục 1, phần II của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (viết tắt Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP), hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình. Sau khi cụ L chết, cụ K tiếp tục quản lý, sử dụng ngôi nhà cấp 4 xây tường gạch, gỗ lim có diện tích 49 m2 được xây cất trên thửa đất có diện tích 394 m2 mà không tu bổ gì thêm. Quá trình thu thập tài liệu hồ sơ vụ án, UBND phường M, thành phố B có văn bản xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp và chưa kịp cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ L và cụ K. Xoay quanh việc giải quyết nội dung tranh chấp này, có các quan điểm sau:

Quan điểm thứ nhất, ngôi nhà cấp 4 xây tường gạch, gỗ lim có diện tích 49 m2 được xây cất trên thửa đất có diện tích 394 m2 không phải là di sản vì không thuộc trường hợp theo hướng dẫn tại tiểu mục 1.1, tiểu mục 1.2 và tiểu mục 1.3, mục 1, phần II của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP, mà theo đó, tiểu mục 1.1 có quy định: “Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.”; tiểu mục 1.2 có hướng dẫn: “Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.; tiểu mục 1.3 có ghi rõ: “Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1 này nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với quyền sử dụng đất đó …”. Bởi do hiện tại ngôi nhà cấp 4 là tài sản gắn liền trên đất đã bị phá bỏ, không tồn tại trên thực tế, nên trường hợp này phải vận dụng quy định tại tiểu mục 1.4, mục 1, phần II, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP để giải quyết, đó là: “Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ quy định tại tiểu mục 1.1, tiểu mục 1.2 mục 1 này và cũng không có di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất được hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 này, nếu có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Uỷ ban nhân dân theo quy định của pháp luật về đất đai.”. Do vậy, Tòa án căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011): Các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 168 của Bộ luật này mà Tòa án đã thụ lý;”để ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án do không thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND. Lập luận của quan điểm này nhấn mạnh, khi thụ lý vụ án di sản là ngôi nhà cấp 4 vẫn tồn tại, trong quá trình Tòa án xem xét để giải quyết ngôi nhà đó mới bị phá bỏ, nên phải xác định trường hợp này là không có di sản tồn tại trên đất và căn cứ vào hướng dẫn tại tiểu mục 1.4, mục 1, phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP, Tòa án phải đình chỉ giải quyết vụ án do thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND theo quy định của pháp luật về đất đai.

Quan điểm thứ hai, thời hiệu khởi kiện đối với phần di sản thừa kế của cụ L vẫn còn, bởi căn cứ vào hướng dẫn tại tiểu mục 1.2, mục 1, phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP: “Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.”. Theo quan điểm này, thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất đối với trường hợp người để lại thừa kế chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai (LĐĐ) năm 1987, LĐĐ năm 1993, LĐĐ năm 2003 nhưng có một trong các giấy tờ quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50[1] LĐĐ năm 2003 thì thời hiệu khởi kiện được bắt đầu lại từ ngày 01/7/2004, do vậy, thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế của các con cụ L vẫn còn và thời hiệu này phải đến hết ngày 01/7/2014.

Quan điểm thứ ba, trường hợp này không thuộc tiểu mục 1.4, mục 1, phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP, vì di sản do hai cụ để lại đều được các đồng thừa kế thừa nhận và tồn tại cho đến ngày 15/8/2006 mới bị phá bỏ. Theo tiểu mục 3.3, mục 3 phần I Thông tư liên tịch số 01/2002/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC ngày 03/01/2002 của Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tổng cục Địa chính, hướng dẫn về thẩm quyền của Tòa án nhân dân về giải quyết các tranh chấp liên quan đền quyền sử dụng đất, có quy định: Nếu tranh chấp về tài sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với việc sử dụng đất đó, thì Toà án thụ lý giải quyết.”nên vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND thành phố B. Hơn nữa, di sản là ngôi nhà ở cấp 4 được xây dựng trên diện tích đất như trên đã đề cập vẫn chưa được những người thuộc hàng thừa kế của hai cụ định đoạt, để khắc phục việc vợ chồng ông A tự phá bỏ ngôi nhà này, Tòa án cần tạo điều kiện cho các đương sự khai báo, xác minh, thẩm định và đề nghị cơ quan chuyên môn có thẩm quyền xác định giá trị tài sản đã bị hủy hoại, bị hư hỏng theo tinh thần Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Công an – Bộ Tư pháp, hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS năm 1999 làm căn cứ để giải quyết.

Quan điểm thứ tư, cụ L chết 4/1982, cụ K chết 12/2004, cả hai đều không để lại di chúc, do vậy, thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với phần di sản của cụ L để lại đã hết theo quy định tại Điều 645[2] BLDS năm 2005. Phần di sản ½ của cụ K trong khối tài sản chung của hai cụ được chia thừa kế theo pháp luật cho ba người con. Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng, thực chất đây là vụ án chia thừa kế theo pháp luật thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, nên phải tuân theo quy định tại Điều 645 BLDS để giải quyết. Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP, mà theo đó, thời hiệu khởi kiện liên quan đến thừa kế được hướng dẫn tại mục 2 phần I, còn việc xác định quyền sử dụng đất là di sản được hướng dẫn tại mục 1 phần II và nội dung hướng dẫn này có tính hồi tố về thực hiện quyền sử dụng đất chứ không có nghĩa được bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện về thừa kế. Hơn nữa, theo quy định tại Điều 165 BLDS năm 2005, về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự chỉ thuộc ba trường hợp sau:  a) Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện; b) Bên có nghĩa vụ thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện; c) Các bên đã tự hoà giải với nhau. Nên khi giải quyết vụ kiện này, Tòa án chỉ phân chia cho các đồng thừa kế phần di sản mà cụ K để lại trong khối di sản chung của hai cụ, riêng phần di sản của cụ L trong bản án cần giao quyền quản lý, sử dụng phần di sản đó cho người đang quản lý, sử dụng là vợ chồng ông A, đồng thời xác định quyền sở hữu đối với phần di sản đã hết thời hiệu theo Điều 247 BLDS.

Xoay quanh việc TAND thành phố B tiến hành phân chia phần di sản của cụ K để lại trong khối tài sản chung của hai cụ cho các đồng thừa kế, người viết không có ý kiến gì thêm. Riêng đối với các quan điểm khi bàn về việc giải quyết yêu cầu chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất mà thời hiệu khởi kiện đã hết, qua nghiên cứu người viết thấy rằng, trong trường hợp này có thể xem di sản của cụ L để lại là tài sản chung của các thừa kế, để từ đó tiến hành phân chia theo yêu cầu của các thừa kế trên cơ sở quy định của pháp luật hiện hành đối với tài sản chung, vì mấy lý do sau:

Một là, người viết đồng tình với nhận định của TAND thành phố B khi thụ lý và giải quyết đơn khởi kiện của ông Q, mà theo đó, thực chất đây là vụ án chia thừa kế theo pháp luật nên bản án, quyết định của Tòa án khi giải quyết nội dung đơn phải bảo đảm thỏa mãn yêu cầu chia di sản thừa kế, do cụ L chết 4/1982, cụ K chết 12/2004 nhưng đều không để lại di chúc. Đến ngày 04/8/2006 ông Q có đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế, tuy đã hết thời hạn là 10 năm theo quy định của pháp luật để các  thừa kế yêu cầu chia di sản kể từ thời điểm mở thừa kế (4/1982) khi cụ L mất, nhưng không vì thế mà Tòa án không giải quyết yêu cầu chia di sản theo lập luận như quan điểm thứ nhất và quan điểm thứ tư, nếu dựa vào lý do đã hết thời hiệu khởi kiện để bác yêu cầu chia di sản của cụ L cho các đồng thừa kế, trong khi giữa các đồng thừa kế đều thừa nhận đó là di sản của cha ruột họ để lại nhưng chưa chia là không hợp lý hợp tình để đưa đến công bằng, thật sự gây khó cho người dân, giải quyết không triệt để yêu cầu của đương sự một khi họ cần đến sự can thiệp của pháp luật. Như vậy, vấn đề đặt ra sẽ xử lý như thế nào phần di sản của cụ L để lại, thẩm quyền giải quyết thuộc về cơ quan nào (TAND hay UBND)? Liệu việc tòa án không giải quyết với lý do đã hết thời hiệu khởi kiện, các nguyên đơn có thỏa mãn và không tiếp tục đi kiện nữa không? ...

Hai là, người viết cũng không đồng tình với quan điểm thứ hai cho rằng theo quy định tại tiểu mục 1.2 mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP, thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế của cụ L để lại vẫn còn và được tính từ ngày 01/7/2004. Ngày 01/7/2004 là ngày LĐĐ năm 2003 có hiệu lực thi hành, nhưng vì sao HĐTP TANDTC lại có hướng dẫn như quy định tại tiểu mục 1.2 mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP? Pháp luật về đất đai ở nước ta luôn có sự thay đổi cho phù hợp với tình hình kinh tế xã hội qua từng giai đoạn lịch sử, khi  LĐĐ năm 1987 đang còn hiệu lực, vào thời điểm đó, tại điểm a phần I nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thừa kế có quy định: “... đất đai thuộc sở hữu toàn dân, quyền sử dụng đất được giao không phải là quyền sở hữu về tài sản của công dân nên không thể trở thành di sản khi công dân chết...”, nhưng khi Luật Đất đai (LĐĐ) năm 1993 ra đời, thì Nhà nước đã cho phép cá nhân có quyền để lại tài sản là quyền sử dụng đất cho người thừa kế, rồi đến LĐĐ năm 2003 và hiện nay LĐĐ năm 2013 quyền để lại thừa kế là quyền sử dụng đất tiếp tục được pháp luật thừa nhận. Chính vì lẽ đó, để xác định quyền sử dụng đất là di sản, tại các tiểu mục 1.1 và 1.2, mục 1, phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP có hướng dẫn:

“1.1. Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.

1.2. Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.”. Hơn nữa, tại điểm b, tiều mục 2.2, mục 2, phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP có quy định rõ:“Đối với trường hợp thừa kế mở từ ngày 1/7/1996 thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều 648 của Bộ luật Dân sự”, nên cách hiểu thời hiệu thừa kế về quyền sử dụng đất trong vụ án này như quan điểm thứ hai rõ ràng là không đúng.

Ba là, ngày 04/8/2006, ông Trần Đình Q nộp đơn khởi kiện ông A đến TAND thành phố B để yêu cầu chia di sản thừa kế mà cụ L và cụ K để lại; ngày 15/8/2006 vợ chồng ông A tự ý phá bỏ đi căn nhà là di sản của bố mẹ để lại. Với những tình tiết này cho thấy, ngôi nhà cấp 4 là tài sản gắn liền trên đất, là di sản của cụ L và cụ K để lại được vợ chồng ông A quản lý, sử dụng cho đến khi phát sinh tranh chấp thừa kế (04/8/2006), nghĩa là vẫn tồn tại nguyên trạng như vốn có của nó từ khi cụ K mất cho đến khi vợ chồng ông A quyết định đập bỏ (15/8/2006) hay nói cách khác, tài sản là di sản mà hai cụ để lại như nguyên đơn trình bày là đúng với thực tế và theo đề nghị của nguyên đơn UBND phường M, thành phố B đã có văn bản xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, không có tranh chấp và chưa kịp cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Do vậy trường hợp này theo quan điểm của người viết, TAND thành phố B cần áp dụng hướng dẫn tại điểm a[3], tiểu mục 1.3, mục 1, phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP để giải quyết vụ án, vì:

i) Tuy trước khi qua đời hai cụ K và L để lại quyền sử dụng 394 m2 đất tọa lạc tại địa chỉ số 28, khu phố 4, đường N.T.T., phường M, thành phố B được thể hiện trên bản đồ địa chính vị trí số 2, tờ bản đồ số 14, nhưng lại không có những giấy tờ theo quy định tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2, mục 1, phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP.

ii) Di sản thừa kế mà hai cụ để lại trong đó có ngôi nhà cấp 4 xây tường gạch, gỗ lim có diện tích 49 m2 được xây cất trên thửa đất trên.

iii) Ông Trần Đình Q thuộc hàng thừa kế thứ nhất của hai cụ có đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế.

iv) Theo đề nghị, UBND phường M, thành phố B có văn bản xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, không có tranh chấp và chưa kịp cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Như vậy, TAND thành phố B phải giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền trên đất và quyền sử dụng đất đó là phù hợp. Còn vấn đề để khắc phục việc vợ chồng ông A tự phá bỏ ngôi nhà là đối tượng phải giải quyết, người viết thấy rằng Tòa án cần tạo điều kiện cho các đương sự khai báo, thu thập thông tin, tiến hành xác minh, khuyến khích các bên tìm được tiếng nói chung, nếu cần thiết đề nghị cơ quan chuyên môn có thẩm quyền định giá trị tài sản ngôi nhà cấp 4 đó, theo quy định tại Điều 20[4] về định giá tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn, của Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02/3/2005 của Chính phủ về Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự và Thông tư số 55/2006/TT-BTC ngày 22/6/2006 của Bộ Tài chính, hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02/3/2005 của Chính phủ về Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự.

Đây là loại tranh chấp di sản thừa kế tài sản gắn liền trên đất và quyền sử dụng đất, tuy tại thời điểm giải quyết vì lý do nào đó mà tài sản trên đất không còn, từ đó, xác định thẩm quyền giải quyết thuộc về UBND tại địa phương nơi đương sự cư trú là không đúng với quy định của pháp luật, chưa quán triệt hết tinh thần hướng dẫn của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP và như vậy sẽ làm ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn một khi bị đơn cố tình gây trở ngại cho việc giải quyết, thậm chí không bảo vệ được quyền lợi của nguyên đơn. Người viết cũng không đồng tình với quan điểm thứ ba, mà theo quan điểm này, căn cứ vào Thông tư liên tịch số 01/2002/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC ngày 03/01/2002 của Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tổng cục Địa chính, hướng dẫn về thẩm quyền của Tòa án nhân dân về giải quyết các tranh chấp liên quan đền quyền sử dụng đất, để giải quyết mà hướng dẫn tại tiểu mục 3.3, mục 3 phần I của Thông tư liên tịch này so với hướng dẫn tại tiểu mục 1.3, mục 1, phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP gần như giống nhau về mặt nội dung và cùng đều là văn bản nằm trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (Điều 2, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008). Vậy ưu tiên áp dụng văn bản nào? Theo quan điểm người viết, phải ưu tiên áp dụng văn bản ra đời sau. Điều này được thể hiện trong quyển Giáo trình kỹ năng tư vấn pháp luật – Bài “ Tư vấn đàm phán, ký kết hợp đồng” của tác giả TS Phan Chí Hiếu (2012) - NXB Công an nhân dân, tr 237 có ghi: “Nếu các văn bản cùng có giá trị pháp lý thì ưu tiên áp dụng văn bản ra đời sau”.

Bốn là, những người thừa kế theo pháp luật ở hàng thừa kế thứ nhất của cụ L được xác định là 04 người (gồm cụ K, ông A, ông Q và bà S). Cụ L chết không để lại di chúc, nên phát sinh quan hệ thừa kế theo pháp luật. Từ thời điểm mở thừa kế đã làm phát sinh quan hệ thừa kế theo pháp luật giữa cụ L và những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ, họ có các quyền và nghĩa vụ về tài sản do ông để lại. Theo quy định điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số 02, thì “... hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

a.1….

a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung”.

Trong vụ án này, tháng 4/1982 cụ L chết, tháng 12/2004 cụ K chết, ngày 04/8/2006 ông Q có đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của bố mẹ mình để lại, như vậy từ thời điểm mở thừa kế chia di sản của cụ L để lại tính đến thời điểm phát sinh tranh chấp (04/8/2006) là khoảng 24 năm, trong khi đó hướng dẫn của Nghị quyết số 02 như vừa nêu trên quy định “sau khi kết thúc thời hạn mười năm”- Đây là thỏa mãn thứ nhấttrong suốt quãng thời gian đó (sau khi kết thúc thời hạn 10 năm) các đồng thừa kế gồm cụ K, ông A, ông Q và bà S không có tranh chấp về hàng thừa kế - Đây là thỏa mãn thứ hai;  các đồng thừa kế đều thừa nhận đó là di sản của cụ L để lại chưa chia - Đây là thỏa mãn thứ ba. Từ 03 điều kiện đều thỏa mãn như vừa phân tích, theo quan điểm của người viết, trường hợp này đủ điều kiện để coi di sản mà cụ L để lại chuyển thành tài sản chung của các thừa kế, nên khi ông Q có đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thì Toà án không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết là phù hợp với hướng dẫn tại điểm a.3, tiểu mục 2.4, mục 2, phần I của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP.

Năm là, nếu vận dụng Điều 247 BLDS, xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu, như quan điểm thứ tư rõ ràng là không ổn, bởi theo quy định tại điều luật này:1. Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. 2. Người chiếm hữu tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước không có căn cứ pháp luật thì dù ngay tình, liên tục, công khai, dù thời gian chiếm hữu là bao lâu cũng không thể trở thành chủ sở hữu tài sản đó”. Kể từ thời điểm mở thừa kế sau khi cụ L chết cho đến trước khi ông Q có đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của cha mẹ để lại, thời gian này kéo dài khoảng 24 năm, tuy vợ chồng ông A công khai sử dụng và những người thân trong gia đình không ai phản đối, nhưng để xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều 247 BLDS, thì: ... thời hạn mười năm đối với động sản ba mươi năm đối với bất động sản. Hơn nữa ngôi nhà cấp 4 gỗ lim, xây tường gạch xung quanh có diện tích 49m2, là công trình được xây cất trên diện tích đất 394 m2, nên không thể tách biệt giữa động sản với bất động sản, do vậy việc áp dụng Điều 247 BLDS như quan điểm này đề xuất là không khả thi, không phù hợp với thực tế.

Từ những phân tích trên, theo quan điểm của người viết trong trường hợp này phải xem di sản của ông A để lại là tài sản chung của các thừa kế, khi có tranh chấp  yêu cầu Tòa án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết, có như vậy mới giải quyết triệt để yêu cầu khởi kiện, vì suy cho cùng mục đích cuối cùng của các nguyên đơn là chia tài sản của người chết để lại mà lẽ ra theo quy định của pháp luật họ được phải thừa hưởng và trong thực tế trong đời sống xã hội dân sự ở nước ta hiện nay đang tồn tại loại tranh chấp tương tự như thế là rất nhiều.

Trên đây là những quan điểm khác nhau về giải quyết tranh chấp thừa kế di sản là tài sản gắn liền trên đất và quyền sử dụng đất đã hết thời hiệu khởi kiện theo quy định của pháp luật về thừa kế. Rất mong nhận sự quan tâm trao đổi cùng Quí bạn đọc.

 

Th.S Lê Văn Sua


[1] 1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:

a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;

c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;

d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;

e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.

2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

5. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.

[2] Thời hiệu khởi kiện về thừa kế

Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

[3] Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1 này nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với quyền sử dụng đất đó mà có yêu cầu chia di sản thừa kế, thì cần phân biệt các trường hợp sau:

a. Trong trường hợp đương sự có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó.

[4] Định giá tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn

1. Trong trường hợp tài sản cần định giá bị thất lạc hoặc không còn, thì việc định giá tài sản được thực hiện trên hồ sơ của tài sản, trên cơ sở các thông tin, tài liệu thu thập được về tài sản cần định giá.

2. Việc định giá tài sản quy định tại khoản 1 Điều này phải tuân theo các trình tự, thủ tục định giá tài sản quy định tại Điều 11, 12, 13, 15, 16, 17, 18 và 19 của Nghị định này.


Quy Định Pháp Luật Về Phân Chia Di Sản Thừa Kế Khi Không Có Di Chúc
Quy Định Pháp Luật Về Phân Chia Di Sản Thừa Kế Khi Không Có Di Chúc

Thưa luật sư, cho phép tôi được hỏi phân chia di sản thừa kế như sau:
 

Cha, mẹ tôi có 8 người con, năm 2010 mẹ tôi mất, đến năm 2014 anh tôi mất (đã li dị vợ vào năm 2001 và có 1 con sinh năm 1998). Tài sản chung của cha mẹ tôi là 01 miếng đất vườn. Nếu cha tôi qua đời mà không để lại di chúc gì thì việc phân chia di sản thừa kế là như thế nào?
 

Xin cảm ơn và Kính chúc luật sư nhiều sức khỏe.

 

Văn phòng luật sư Gia Đình tư vấn cho bạn như sau:

 

1. Về di sản thừa kế của người mẹ:

 

Theo thông tin bạn cung cấp thì mẹ bạn đã mất vào năm 2008. Tài sản chung của cha mẹ bạn là một miếng đất vườn. Khi đó, 1/2 mảnh đất vườn sẽ được coi là di sản thừa kế do mẹ bạn để lại.

 

Vì mẹ bạn khi chết không để lại di chúc nên di sản được chia theo pháp luật, những người thừa kế theo pháp luật được quy định tại Điều 676 BLDS được quy định theo thứ tự sau đây:

 

"a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

 

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

 

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

 

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

 

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản".

 

Đối chiếu với quy định nêu trên và với thông tin bạn cung cấp thì tại thời điểm mở thừa kế, hàng thừa kế thứ nhất của mẹ bạn bao gồm: người chồng và 8 người con. Di sản thừa kế của mẹ bạn sẽ được chia đều cho người chồng và 8 người con.

 

Tuy nhiên, sau khi mẹ bạn mất thì một thời gian sau một người con trai cũng mất. Như vậy, tại thời điểm mở thừa kế thì người con trai này vẫn còn sống và có quyền hưởng di sản thừa kế do người mẹ để lại. Nhưng khi người con này còn sống, các thừa kế vẫn chưa tiến hành khai nhận di sản thừa kế của người mẹ, và nay người con này đã chết thì phần di sản mà người con được hưởng sẽ được chia đều cho các thừa kế của người con. Các thừa kế có thể được xác định theo di chúc (nếu người con chết để lại di chúc) hoặc những người thừa kế theo pháp luật tại Điều 676 Bộ luật dân sự như nêu trên (người vợ đã ly hôn sẽ không được coi là người thừa kế của người này).

 

2. Về di sản thừa kế của bố bạn:

 

Như đã phân tích ở trên, di sản thừa kế của bố bạn (1/2 diện tích đất vườn) sẽ được chia đều cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bố bạn.

 

Tuy nhiên, tại Điều 677 BLDS quy định về thừa kế thế vị thì: "Trong trường hợpcon của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống".

 

Như vậy, một người con trai đã mất trước khi bố bạn qua đời nên con của người con trai này sẽ được hưởng phần di sản mà người bố của cháu được hưởng nếu còn sống (tức là cháu được hưởng di sản thừa kế từ người ông). Trường hợp này của gia đình bạn vì tại thời điểm mở thừa kế, một người con trai đã mất nên hàng thừa kế thứ nhất của bố bạn bao gồm 7 người con còn lại và người cháu (con của người con trai đã mất).

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Luật sư Gia Đình đang mở rộng và luôn nỗ lực hoàn thiện nhiều loại hình dịch vụ đa dạng trong khu vực, trong nước và trên thế giới nhằm mang lại cho khách hàng của mình những dịch vụ tư vấn hoàn hảo nhất.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hỗ trợ luật sư là đối tác tư vấn pháp luật trên Đài tiếng nói Bình Dương, Đài truyền hình Bình Dương, Đài Đài Truyền hình HTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Đài VOV Giao Thông, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Trân trọng cảm ơn.

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

 

Tư Vấn Về Thời Hiệu Khởi Kiện Thừa Kế
Tư Vấn Về Thời Hiệu Khởi Kiện Thừa Kế

Quy định mới về thời hiệu thừa kế theo BLDS năm 2015 và pháp luật tố tụng dân sự có liên quan

31/08/2017
 
Ngày 24/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII đã thông qua Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017. Bộ luật dân sự năm 2015 quy định nhiều điểm mới mang tính đột phá, ghi nhận và bảo vệ tốt hơn các quyền của cá nhân, pháp nhân trong giao lưu dân sự; góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phục vụ hội nhập quốc tế.[1] Bài viết này phân tích quy định mới của Bộ luật dân sự năm 2015 liên quan đến thời hiệu thừa kế và pháp luật tố tụng dân sự có liên quan.

Thời hiệu yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản 
Quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo hộ.[2] Tuy nhiên, trên thực tế, do việc coi trọng những phong tục tập quán, tình cảm gia đình đã khiến cho không ít người bỏ qua việc đảm bảo thi hành quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế. Bên cạnh đó cũng có những trường hợp người để lại thừa kế đã lập di chúc nhưng do thiếu hiểu biết, bản di chúc đó không phù hợp quy định của pháp luật, khiến những người thừa kế lại phải giải quyết tranh chấp bằng pháp luật, làm mất đi tình cảm vốn có.[3]
 Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế". Quy định này đã gây ra bất cập là có nhiều tài sản thừa kế bị tranh chấp nhưng do hết thời hiệu khởi kiện nên người thừa kế tài sản không thể đăng ký quyền sở hữu. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như người thừa kế không nắm rõ các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế, xuất phát từ tình cảm gia đình, họ tộc, do điều kiện khách quan, hay xuất phát từ sự ràng buộc về đạo lý, truyền thống của dân tộc Việt Nam, con cái không dám yêu cầu chia thừa kế khi cha hoặc mẹ còn sống hoặc cha, mẹ qua đời trong thời gian ngắn.[4]
Để khắc phục những bất cập về thời hiệu khởi kiện thừa kế trong Bộ luật dân sự năm 2005 và để bảo đảm phù hợp với quyền của người thừa kế, người khác có liên quan đến di sản và những đặc thù về văn hóa, tính chất của di sản, Điều 623 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định thời hiệu thừa kế theo hướng:
- Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó.
Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản thuộc về người chiếm hữu hoặc được lợi một cách ngay tình, liên tục, công khai theo quy định của Bộ luật này về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật theo quy định tại Điều 236 Bộ luật dân sự năm 2015; nếu không có người chiếm hữu hoặc được lợi về tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự thì di sản thuộc về Nhà nước.
- Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
- Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Người thừa kế có quyền nộp đơn khởi kiện lại trong trường hợp đã bị Tòa án trả lại đơn khởi kiện do thời hiệu khởi kiện đã hết theo Bộ luật dân sự năm 2005
Như đã phân tích ở trên, thời hiệu yêu cầu chia di sản là bất động sản tăng từ 10 năm theo Bộ luật dân sự năm 2005 lên 30 năm theo Bộ luật dân sự năm 2015. Vì vậy, sẽ phát sinh tình huống pháp lý là những vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế mà trước ngày Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực (01/01/2017) Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện hoặc ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện vì lý do "thời hiệu khởi kiện đã hết" theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 thì nay các đương sự có quyền nộp đơn khởi kiện lại? Để giải quyết tình huống pháp lý nói trên, cần căn cứ vào các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Bộ luật dân sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, đương sự có quyền nộp đơn khởi kiện lại trong các trường hợp sau đây:
a) Người khởi kiện đã có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;
b) Yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu mà theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại;
c) Đã có đủ điều kiện khởi kiện;
d) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.”
Để hướng dẫn cụ thể quy định trên, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017, hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2017.
Theo đó, Điều 7 của Nghị quyết đã quy định các trường hợp cụ thể mà đương sự có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế như sau:
a) Đối với những vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế tài sản mà trước ngày 01/01/2017, Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện hoặc ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện vì lý do "thời hiệu khởi kiện đã hết" nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 623, điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015, thời hiệu khởi kiện vụ án đó vẫn còn, thì người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 và điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Đối với những vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế tài sản mà trước ngày 01/01/2017 đã được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định (trừ quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự vì thời hiệu khởi kiện đã hết) đã có hiệu lực pháp luật thì theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, người khởi kiện không có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án đó.
Ví dụ: Vợ chồng Cụ A (có 05 người con) đều chết năm 2004, để lại di sản là căn nhà X nhưng không có di chúc và không có thỏa thuận khác. Năm 2012, ông B là một trong những người con của vợ chồng Cụ A khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế là căn nhà X nêu trên. Vụ án đã được xét xử qua hai cấp và Bản án số 123/2012/DS-PT ngày 15/5/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh C đã đã có hiệu lực pháp luật. Trường hợp này, ông B không có quyền nộp đơn khởi kiện lại yêu cầu chia di sản thừa kế là căn nhà X nêu trên.
b) Đối với những vụ án dân sự chia tài sản chung là di sản thừa kế đã hết thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế mà trước ngày 01/01/2017 Tòa án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện vì chưa đủ điều kiện khởi kiện chia tài sản chung (theo điểm 2.4 mục I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình), nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 623, điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015, thời hiệu khởi kiện vụ án chia thừa kế đối với di sản thừa kế đó vẫn còn, thì người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 và điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
Ví dụ: Cụ H và cụ K sinh được 02 người con là ông L và bà M. Cụ H chết năm 1990, cụ K chết năm 1992, cả hai đều không để lại di chúc. Hai cụ có tài sản chung là 970 m2 đất ở. Sau khi hai cụ chết, ông L tiếp tục sinh sống trên thửa đất này. Năm 2014, bà M khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung là 970m2 đất do hai cụ để lại theo quy định tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP. Tuy nhiên, ông L cho rằng cụ H còn có 1 người con riêng nữa nhưng bà M không thừa nhận nên Tòa án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện vì chưa đủ điều kiện khởi kiện chia tài sản chung (các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế theo quy định tại điểm 2.4 mục I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP). 
Trong trường hợp này, bà M có quyền nộp đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của Cụ H và cụ K và Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
Đối với những vụ án dân sự chia tài sản chung là di sản thừa kế đã hết thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế mà trước ngày 01/01/2017 đã được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định (trừ quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự vì thời hiệu khởi kiện đã hết) đã có hiệu lực pháp luật thì theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, người khởi kiện không có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án đó.
Có thể nói, hướng dẫn nêu trên của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là rất cần thiết, đã được ban hành kịp thời nhằm bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân./.
ThS. Tạ Đình Tuyên
Nguồn: Bộ Tư Pháp
Giải quyết tranh chấp thừa kế di sản là TS gắn liền trên đất và QSDĐ đã hết thời hiệu khởi kiện
Giải quyết tranh chấp thừa kế di sản là TS gắn liền trên đất và QSDĐ đã hết thời hiệu khởi kiện

Giải quyết tranh chấp thừa kế di sản là TS gắn liền trên đất và QSDĐ đã hết thời hiệu khởi kiện

25/04/2015
 
 

Cụ ông Trần Đình L, sinh năm 1920 và cụ bà Tăng Thị K, sinh năm 1922, có với nhau 03 người con là ông Trần Đình A, ông Trần Đình Q và bà Trần Thị Hồng S. Cụ L chết tháng 4/1982, cụ K chết tháng 12/2004 đều không để lại di chúc, sau khi hai cụ qua đời, ông A và vợ là bà H tiếp tục quản lý và sử dụng khối di sản của hai cụ để lại là ngôi nhà cấp 4 xây tường gạch, gỗ lim có diện tích 49 m2 được xây cất trên thửa đất có diện tích 394 m2, thể hiện trên bản đồ địa chính của địa phương thửa đất của hai cụ để lại nằm tại vị trí số 2, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại số 28, khu phố 4, đường N.T.T., phường M, thành phố B (chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở)

Ngày 04/8/2006, ông Trần Đình Q khởi kiện ông A yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ L và cụ K để lại; ngày 15/8/2006 ông A và bà H tự ý phá đi căn nhà cấp 4 nói trên. TAND thành phố B khi thụ lý đơn khởi kiện có căn cứ xác định: Đây là loại tranh chấp về quyền thừa kế di sản là tài sản gắn liền trên đất và quyền sử dụng đất do người chết để lại không có di chúc, các đương sự không tranh chấp về hàng thừa kế nhưng không có một trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2, mục 1, phần II của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (viết tắt Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP), hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình. Sau khi cụ L chết, cụ K tiếp tục quản lý, sử dụng ngôi nhà cấp 4 xây tường gạch, gỗ lim có diện tích 49 m2 được xây cất trên thửa đất có diện tích 394 m2 mà không tu bổ gì thêm. Quá trình thu thập tài liệu hồ sơ vụ án, UBND phường M, thành phố B có văn bản xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp và chưa kịp cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ L và cụ K. Xoay quanh việc giải quyết nội dung tranh chấp này, có các quan điểm sau:

Quan điểm thứ nhất, ngôi nhà cấp 4 xây tường gạch, gỗ lim có diện tích 49 m2 được xây cất trên thửa đất có diện tích 394 m2 không phải là di sản vì không thuộc trường hợp theo hướng dẫn tại tiểu mục 1.1, tiểu mục 1.2 và tiểu mục 1.3, mục 1, phần II của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP, mà theo đó, tiểu mục 1.1 có quy định: “Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.”; tiểu mục 1.2 có hướng dẫn: “Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.; tiểu mục 1.3 có ghi rõ: “Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1 này nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với quyền sử dụng đất đó …”. Bởi do hiện tại ngôi nhà cấp 4 là tài sản gắn liền trên đất đã bị phá bỏ, không tồn tại trên thực tế, nên trường hợp này phải vận dụng quy định tại tiểu mục 1.4, mục 1, phần II, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP để giải quyết, đó là: “Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ quy định tại tiểu mục 1.1, tiểu mục 1.2 mục 1 này và cũng không có di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất được hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 này, nếu có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Uỷ ban nhân dân theo quy định của pháp luật về đất đai.”. Do vậy, Tòa án căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011): Các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 168 của Bộ luật này mà Tòa án đã thụ lý;”để ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án do không thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND. Lập luận của quan điểm này nhấn mạnh, khi thụ lý vụ án di sản là ngôi nhà cấp 4 vẫn tồn tại, trong quá trình Tòa án xem xét để giải quyết ngôi nhà đó mới bị phá bỏ, nên phải xác định trường hợp này là không có di sản tồn tại trên đất và căn cứ vào hướng dẫn tại tiểu mục 1.4, mục 1, phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP, Tòa án phải đình chỉ giải quyết vụ án do thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND theo quy định của pháp luật về đất đai.

Quan điểm thứ hai, thời hiệu khởi kiện đối với phần di sản thừa kế của cụ L vẫn còn, bởi căn cứ vào hướng dẫn tại tiểu mục 1.2, mục 1, phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP: “Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.”. Theo quan điểm này, thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất đối với trường hợp người để lại thừa kế chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai (LĐĐ) năm 1987, LĐĐ năm 1993, LĐĐ năm 2003 nhưng có một trong các giấy tờ quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50[1] LĐĐ năm 2003 thì thời hiệu khởi kiện được bắt đầu lại từ ngày 01/7/2004, do vậy, thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế của các con cụ L vẫn còn và thời hiệu này phải đến hết ngày 01/7/2014.

Quan điểm thứ ba, trường hợp này không thuộc tiểu mục 1.4, mục 1, phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP, vì di sản do hai cụ để lại đều được các đồng thừa kế thừa nhận và tồn tại cho đến ngày 15/8/2006 mới bị phá bỏ. Theo tiểu mục 3.3, mục 3 phần I Thông tư liên tịch số 01/2002/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC ngày 03/01/2002 của Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tổng cục Địa chính, hướng dẫn về thẩm quyền của Tòa án nhân dân về giải quyết các tranh chấp liên quan đền quyền sử dụng đất, có quy định: Nếu tranh chấp về tài sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với việc sử dụng đất đó, thì Toà án thụ lý giải quyết.”nên vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND thành phố B. Hơn nữa, di sản là ngôi nhà ở cấp 4 được xây dựng trên diện tích đất như trên đã đề cập vẫn chưa được những người thuộc hàng thừa kế của hai cụ định đoạt, để khắc phục việc vợ chồng ông A tự phá bỏ ngôi nhà này, Tòa án cần tạo điều kiện cho các đương sự khai báo, xác minh, thẩm định và đề nghị cơ quan chuyên môn có thẩm quyền xác định giá trị tài sản đã bị hủy hoại, bị hư hỏng theo tinh thần Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Công an – Bộ Tư pháp, hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS năm 1999 làm căn cứ để giải quyết.

Quan điểm thứ tư, cụ L chết 4/1982, cụ K chết 12/2004, cả hai đều không để lại di chúc, do vậy, thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với phần di sản của cụ L để lại đã hết theo quy định tại Điều 645[2] BLDS năm 2005. Phần di sản ½ của cụ K trong khối tài sản chung của hai cụ được chia thừa kế theo pháp luật cho ba người con. Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng, thực chất đây là vụ án chia thừa kế theo pháp luật thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, nên phải tuân theo quy định tại Điều 645 BLDS để giải quyết. Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP, mà theo đó, thời hiệu khởi kiện liên quan đến thừa kế được hướng dẫn tại mục 2 phần I, còn việc xác định quyền sử dụng đất là di sản được hướng dẫn tại mục 1 phần II và nội dung hướng dẫn này có tính hồi tố về thực hiện quyền sử dụng đất chứ không có nghĩa được bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện về thừa kế. Hơn nữa, theo quy định tại Điều 165 BLDS năm 2005, về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự chỉ thuộc ba trường hợp sau:  a) Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện; b) Bên có nghĩa vụ thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện; c) Các bên đã tự hoà giải với nhau. Nên khi giải quyết vụ kiện này, Tòa án chỉ phân chia cho các đồng thừa kế phần di sản mà cụ K để lại trong khối di sản chung của hai cụ, riêng phần di sản của cụ L trong bản án cần giao quyền quản lý, sử dụng phần di sản đó cho người đang quản lý, sử dụng là vợ chồng ông A, đồng thời xác định quyền sở hữu đối với phần di sản đã hết thời hiệu theo Điều 247 BLDS.

Xoay quanh việc TAND thành phố B tiến hành phân chia phần di sản của cụ K để lại trong khối tài sản chung của hai cụ cho các đồng thừa kế, người viết không có ý kiến gì thêm. Riêng đối với các quan điểm khi bàn về việc giải quyết yêu cầu chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất mà thời hiệu khởi kiện đã hết, qua nghiên cứu người viết thấy rằng, trong trường hợp này có thể xem di sản của cụ L để lại là tài sản chung của các thừa kế, để từ đó tiến hành phân chia theo yêu cầu của các thừa kế trên cơ sở quy định của pháp luật hiện hành đối với tài sản chung, vì mấy lý do sau:

Một là, người viết đồng tình với nhận định của TAND thành phố B khi thụ lý và giải quyết đơn khởi kiện của ông Q, mà theo đó, thực chất đây là vụ án chia thừa kế theo pháp luật nên bản án, quyết định của Tòa án khi giải quyết nội dung đơn phải bảo đảm thỏa mãn yêu cầu chia di sản thừa kế, do cụ L chết 4/1982, cụ K chết 12/2004 nhưng đều không để lại di chúc. Đến ngày 04/8/2006 ông Q có đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế, tuy đã hết thời hạn là 10 năm theo quy định của pháp luật để các  thừa kế yêu cầu chia di sản kể từ thời điểm mở thừa kế (4/1982) khi cụ L mất, nhưng không vì thế mà Tòa án không giải quyết yêu cầu chia di sản theo lập luận như quan điểm thứ nhất và quan điểm thứ tư, nếu dựa vào lý do đã hết thời hiệu khởi kiện để bác yêu cầu chia di sản của cụ L cho các đồng thừa kế, trong khi giữa các đồng thừa kế đều thừa nhận đó là di sản của cha ruột họ để lại nhưng chưa chia là không hợp lý hợp tình để đưa đến công bằng, thật sự gây khó cho người dân, giải quyết không triệt để yêu cầu của đương sự một khi họ cần đến sự can thiệp của pháp luật. Như vậy, vấn đề đặt ra sẽ xử lý như thế nào phần di sản của cụ L để lại, thẩm quyền giải quyết thuộc về cơ quan nào (TAND hay UBND)? Liệu việc tòa án không giải quyết với lý do đã hết thời hiệu khởi kiện, các nguyên đơn có thỏa mãn và không tiếp tục đi kiện nữa không? ...

Hai là, người viết cũng không đồng tình với quan điểm thứ hai cho rằng theo quy định tại tiểu mục 1.2 mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP, thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế của cụ L để lại vẫn còn và được tính từ ngày 01/7/2004. Ngày 01/7/2004 là ngày LĐĐ năm 2003 có hiệu lực thi hành, nhưng vì sao HĐTP TANDTC lại có hướng dẫn như quy định tại tiểu mục 1.2 mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP? Pháp luật về đất đai ở nước ta luôn có sự thay đổi cho phù hợp với tình hình kinh tế xã hội qua từng giai đoạn lịch sử, khi  LĐĐ năm 1987 đang còn hiệu lực, vào thời điểm đó, tại điểm a phần I nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thừa kế có quy định: “... đất đai thuộc sở hữu toàn dân, quyền sử dụng đất được giao không phải là quyền sở hữu về tài sản của công dân nên không thể trở thành di sản khi công dân chết...”, nhưng khi Luật Đất đai (LĐĐ) năm 1993 ra đời, thì Nhà nước đã cho phép cá nhân có quyền để lại tài sản là quyền sử dụng đất cho người thừa kế, rồi đến LĐĐ năm 2003 và hiện nay LĐĐ năm 2013 quyền để lại thừa kế là quyền sử dụng đất tiếp tục được pháp luật thừa nhận. Chính vì lẽ đó, để xác định quyền sử dụng đất là di sản, tại các tiểu mục 1.1 và 1.2, mục 1, phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP có hướng dẫn:

“1.1. Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.

1.2. Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.”. Hơn nữa, tại điểm b, tiều mục 2.2, mục 2, phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP có quy định rõ:“Đối với trường hợp thừa kế mở từ ngày 1/7/1996 thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều 648 của Bộ luật Dân sự”, nên cách hiểu thời hiệu thừa kế về quyền sử dụng đất trong vụ án này như quan điểm thứ hai rõ ràng là không đúng.

Ba là, ngày 04/8/2006, ông Trần Đình Q nộp đơn khởi kiện ông A đến TAND thành phố B để yêu cầu chia di sản thừa kế mà cụ L và cụ K để lại; ngày 15/8/2006 vợ chồng ông A tự ý phá bỏ đi căn nhà là di sản của bố mẹ để lại. Với những tình tiết này cho thấy, ngôi nhà cấp 4 là tài sản gắn liền trên đất, là di sản của cụ L và cụ K để lại được vợ chồng ông A quản lý, sử dụng cho đến khi phát sinh tranh chấp thừa kế (04/8/2006), nghĩa là vẫn tồn tại nguyên trạng như vốn có của nó từ khi cụ K mất cho đến khi vợ chồng ông A quyết định đập bỏ (15/8/2006) hay nói cách khác, tài sản là di sản mà hai cụ để lại như nguyên đơn trình bày là đúng với thực tế và theo đề nghị của nguyên đơn UBND phường M, thành phố B đã có văn bản xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, không có tranh chấp và chưa kịp cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Do vậy trường hợp này theo quan điểm của người viết, TAND thành phố B cần áp dụng hướng dẫn tại điểm a[3], tiểu mục 1.3, mục 1, phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP để giải quyết vụ án, vì:

i) Tuy trước khi qua đời hai cụ K và L để lại quyền sử dụng 394 m2 đất tọa lạc tại địa chỉ số 28, khu phố 4, đường N.T.T., phường M, thành phố B được thể hiện trên bản đồ địa chính vị trí số 2, tờ bản đồ số 14, nhưng lại không có những giấy tờ theo quy định tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2, mục 1, phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP.

ii) Di sản thừa kế mà hai cụ để lại trong đó có ngôi nhà cấp 4 xây tường gạch, gỗ lim có diện tích 49 m2 được xây cất trên thửa đất trên.

iii) Ông Trần Đình Q thuộc hàng thừa kế thứ nhất của hai cụ có đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế.

iv) Theo đề nghị, UBND phường M, thành phố B có văn bản xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, không có tranh chấp và chưa kịp cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Như vậy, TAND thành phố B phải giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền trên đất và quyền sử dụng đất đó là phù hợp. Còn vấn đề để khắc phục việc vợ chồng ông A tự phá bỏ ngôi nhà là đối tượng phải giải quyết, người viết thấy rằng Tòa án cần tạo điều kiện cho các đương sự khai báo, thu thập thông tin, tiến hành xác minh, khuyến khích các bên tìm được tiếng nói chung, nếu cần thiết đề nghị cơ quan chuyên môn có thẩm quyền định giá trị tài sản ngôi nhà cấp 4 đó, theo quy định tại Điều 20[4] về định giá tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn, của Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02/3/2005 của Chính phủ về Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự và Thông tư số 55/2006/TT-BTC ngày 22/6/2006 của Bộ Tài chính, hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02/3/2005 của Chính phủ về Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự.

Đây là loại tranh chấp di sản thừa kế tài sản gắn liền trên đất và quyền sử dụng đất, tuy tại thời điểm giải quyết vì lý do nào đó mà tài sản trên đất không còn, từ đó, xác định thẩm quyền giải quyết thuộc về UBND tại địa phương nơi đương sự cư trú là không đúng với quy định của pháp luật, chưa quán triệt hết tinh thần hướng dẫn của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP và như vậy sẽ làm ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn một khi bị đơn cố tình gây trở ngại cho việc giải quyết, thậm chí không bảo vệ được quyền lợi của nguyên đơn. Người viết cũng không đồng tình với quan điểm thứ ba, mà theo quan điểm này, căn cứ vào Thông tư liên tịch số 01/2002/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC ngày 03/01/2002 của Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tổng cục Địa chính, hướng dẫn về thẩm quyền của Tòa án nhân dân về giải quyết các tranh chấp liên quan đền quyền sử dụng đất, để giải quyết mà hướng dẫn tại tiểu mục 3.3, mục 3 phần I của Thông tư liên tịch này so với hướng dẫn tại tiểu mục 1.3, mục 1, phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP gần như giống nhau về mặt nội dung và cùng đều là văn bản nằm trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (Điều 2, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008). Vậy ưu tiên áp dụng văn bản nào? Theo quan điểm người viết, phải ưu tiên áp dụng văn bản ra đời sau. Điều này được thể hiện trong quyển Giáo trình kỹ năng tư vấn pháp luật – Bài “ Tư vấn đàm phán, ký kết hợp đồng” của tác giả TS Phan Chí Hiếu (2012) - NXB Công an nhân dân, tr 237 có ghi: “Nếu các văn bản cùng có giá trị pháp lý thì ưu tiên áp dụng văn bản ra đời sau”.

Bốn là, những người thừa kế theo pháp luật ở hàng thừa kế thứ nhất của cụ L được xác định là 04 người (gồm cụ K, ông A, ông Q và bà S). Cụ L chết không để lại di chúc, nên phát sinh quan hệ thừa kế theo pháp luật. Từ thời điểm mở thừa kế đã làm phát sinh quan hệ thừa kế theo pháp luật giữa cụ L và những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ, họ có các quyền và nghĩa vụ về tài sản do ông để lại. Theo quy định điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số 02, thì “... hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

a.1….

a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung”.

Trong vụ án này, tháng 4/1982 cụ L chết, tháng 12/2004 cụ K chết, ngày 04/8/2006 ông Q có đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của bố mẹ mình để lại, như vậy từ thời điểm mở thừa kế chia di sản của cụ L để lại tính đến thời điểm phát sinh tranh chấp (04/8/2006) là khoảng 24 năm, trong khi đó hướng dẫn của Nghị quyết số 02 như vừa nêu trên quy định “sau khi kết thúc thời hạn mười năm”- Đây là thỏa mãn thứ nhấttrong suốt quãng thời gian đó (sau khi kết thúc thời hạn 10 năm) các đồng thừa kế gồm cụ K, ông A, ông Q và bà S không có tranh chấp về hàng thừa kế - Đây là thỏa mãn thứ hai;  các đồng thừa kế đều thừa nhận đó là di sản của cụ L để lại chưa chia - Đây là thỏa mãn thứ ba. Từ 03 điều kiện đều thỏa mãn như vừa phân tích, theo quan điểm của người viết, trường hợp này đủ điều kiện để coi di sản mà cụ L để lại chuyển thành tài sản chung của các thừa kế, nên khi ông Q có đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thì Toà án không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết là phù hợp với hướng dẫn tại điểm a.3, tiểu mục 2.4, mục 2, phần I của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP.

Năm là, nếu vận dụng Điều 247 BLDS, xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu, như quan điểm thứ tư rõ ràng là không ổn, bởi theo quy định tại điều luật này:1. Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. 2. Người chiếm hữu tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước không có căn cứ pháp luật thì dù ngay tình, liên tục, công khai, dù thời gian chiếm hữu là bao lâu cũng không thể trở thành chủ sở hữu tài sản đó”. Kể từ thời điểm mở thừa kế sau khi cụ L chết cho đến trước khi ông Q có đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của cha mẹ để lại, thời gian này kéo dài khoảng 24 năm, tuy vợ chồng ông A công khai sử dụng và những người thân trong gia đình không ai phản đối, nhưng để xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều 247 BLDS, thì: ... thời hạn mười năm đối với động sản ba mươi năm đối với bất động sản. Hơn nữa ngôi nhà cấp 4 gỗ lim, xây tường gạch xung quanh có diện tích 49m2, là công trình được xây cất trên diện tích đất 394 m2, nên không thể tách biệt giữa động sản với bất động sản, do vậy việc áp dụng Điều 247 BLDS như quan điểm này đề xuất là không khả thi, không phù hợp với thực tế.

Từ những phân tích trên, theo quan điểm của người viết trong trường hợp này phải xem di sản của ông A để lại là tài sản chung của các thừa kế, khi có tranh chấp  yêu cầu Tòa án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết, có như vậy mới giải quyết triệt để yêu cầu khởi kiện, vì suy cho cùng mục đích cuối cùng của các nguyên đơn là chia tài sản của người chết để lại mà lẽ ra theo quy định của pháp luật họ được phải thừa hưởng và trong thực tế trong đời sống xã hội dân sự ở nước ta hiện nay đang tồn tại loại tranh chấp tương tự như thế là rất nhiều.

Trên đây là những quan điểm khác nhau về giải quyết tranh chấp thừa kế di sản là tài sản gắn liền trên đất và quyền sử dụng đất đã hết thời hiệu khởi kiện theo quy định của pháp luật về thừa kế. Rất mong nhận sự quan tâm trao đổi cùng Quí bạn đọc.

 

Th.S Lê Văn Sua


[1] 1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:

a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;

c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;

d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;

e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.

2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

5. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.

[2] Thời hiệu khởi kiện về thừa kế

Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

[3] Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1 này nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với quyền sử dụng đất đó mà có yêu cầu chia di sản thừa kế, thì cần phân biệt các trường hợp sau:

a. Trong trường hợp đương sự có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó.

[4] Định giá tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn

1. Trong trường hợp tài sản cần định giá bị thất lạc hoặc không còn, thì việc định giá tài sản được thực hiện trên hồ sơ của tài sản, trên cơ sở các thông tin, tài liệu thu thập được về tài sản cần định giá.

2. Việc định giá tài sản quy định tại khoản 1 Điều này phải tuân theo các trình tự, thủ tục định giá tài sản quy định tại Điều 11, 12, 13, 15, 16, 17, 18 và 19 của Nghị định này.

Nguồn: Bộ Tư Pháp
Luật Sư Tư Vấn Về Quyền Thừa Kế
Luật Sư Tư Vấn Về Quyền Thừa Kế

Từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1959, Sắc lệnh 90/SL ngày 10/10/1945 cho phép tạm thời áp dụng những văn bản pháp luật dân sự của chế độ cũ với điều kiện "những luật lệ ấy không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể cộng hoà". Tại Điều 27 Hiến pháp năm 1980 cũng ghi nhận "Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân". Tiếp theo, Thông tư số 81 ngày 27/7/1981 của Toà án nhân dân tối cao đã hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế. Ngày 30/8/1990, Hội đồng Nhà nước nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Pháp lệnh thừa kế.


Qua hơn 4 năm thực hiện Pháp lệnh thừa kế đã cho thấy về cơ bản những quy định của Pháp lệnh phù hợp với thực tế đời sống, do đó chế định thừa kế trong Bộ luật dân sự năm 1995 đã kế thừa hầu hết các quy định của Pháp lệnh thừa kế. Tuy nhiên, những quy định về thừa kế trong Bộ luật dân sự vẫn còn tồn tại những điểm chưa hợp lý, rõ ràng.

Tại Điều 58 Hiến pháp năm 1992 khẳng định: "Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác…Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân."

Trên tinh thần của Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Dân sự năm 1995 được ban hành là một bước phát triển mới trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự ở nước ta. Nội dung của Bộ luật dân sự năm 1995 tương đối đồng bộ và toàn diện nên về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu thực tế của xã hội thời kỳ này. Chế định thừa kế trong Bộ luật dân sự năm 1995 đã kế thừa hầu hết các quy định của Pháp lệnh thừa kế nói trên. Bên cạnh đó, Bộ luật dân sự năm 1995 đã bổ sung một số vấn đề mới trong lĩnh vực thừa kế, đặc biệt là việc thừa kế quyền sử dụng đất của cá nhân và thành viên của hộ gia đình, đây là những cơ sở pháp lý để nâng cao chất lượng thực thi quyền thừa kế tài sản trong đời sống xã hội.

Qua 10 năm thi hành Bộ luật Dân sự năm 1995, thực tiễn xét xử cho thấy những quy định pháp luật về thừa kế đã đi vào cuộc sống. Tuy nhiên, từ sau năm 1995 đến nay đã có hàng loạt văn bản pháp luật có liên quan được ban hành như Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Luật Đất đai năm 2003, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sửa đổi), Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi), dẫn đến những bất cập nhất định, trong đó có những quan hệ liên quan đến thừa kế. Vì vậy, Bộ luật Dân sự năm 2005 vừa được ban hành đã bổ sung, chỉnh sửa một số quy định về thừa kế tài sản phù hợp và mang tính khả thi hơn.

Tại Phần thứ tư của BLDS  năm 2005 quy định về thừa kế bao gồm 4 chương, từ Điều 631 đến Điều 687.

Người có quyền thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam là công dân, tổ chức. Quyền thừa kế thuộc về cá nhân được thể hiện theo hai chủ thể nhất định, đó là chủ thể để lại tài sản (quyền của người để lại di sản) và chủ thể hưởng thừa kế di sản (quyền của người nhận di sản). Quyền thừa kế thuộc về tổ chức được thể hiện theo một chủ thể nhất định, đó là chủ thể hưởng thừa kế di sản (và chỉ trong trường hợp thừa kế theo di chúc).

Khi xem xét về vấn đề thừa kế thì di sản là một trong những vấn đề được quan tâm trước tiên. Di sản là cơ sở để thiết lập di chúc bên cạnh các căn cứ khác. Chỉ khi di sản còn tồn tại trên thực tế thì người lập di chúc mới có “cái” để định đoạt.

Những người được thừa kế theo quy định của pháp luật không phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi. Người có hay không có năng lực hành vi hoặc người có năng lực hành vi không đầy đủ đều có quyền thừa kế. Trong trường hợp này, người giám hộ sẽ thực hiện giúp những người này các quyền và nghĩa vụ trong phạm vi tài sản của họ.

I/ Một số nội dung trong các quy định về quyền của người để lại tài sản.

Đối với cá nhân người để lại tài sản, với tư cách là chủ sở hữu hợp pháp đối với những tài sản của mình, cá nhân có quyền lập di chúc để thực hiện quyền định đoạt tài sản của bản thân. Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân trong việc định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của họ trước khi chết.

Theo quy định tại Điều 648 Bộ luật Dân sự thì người lập di chúc có các quyền sau đây:

1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;

2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;

3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;

4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;

5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.

Ngoài ra, tại Điều 662 BLDS còn quy định người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc.

1. Chỉ định người thừa kế

Người lập di chúc có quyền để lại di sản cho bất cứ cá nhân hoặc tổ chức nào. Họ có thể là con, cha, mẹ, vợ, chồng… của người thuộc diện thừa kế theo luật dựa trên các quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng hoặc quan hệ huyết thống; và cũng có thể là những người khác như Nhà nước, tổ chức kinh tế, xã hội,…

2. Truất quyền hưởng di sản

Quyền định đoạt của người lập di chúc còn được thể hiện thông qua việc họ có thể truất quyền hưởng di sản của người thừa kế theo pháp luật, mà không nhất thiết phải nêu lý do. Người lập di chúc có thể chỉ định một hay nhiều người thừa kế theo luật không được hưởng di sản thừa kế của mình.

Tuy nhiên, do pháp luật không quy định cụ thể như thế nào là “truất” nên hiện nay còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Có quan điểm cho rằng, người bị truất quyền hưởng di sản là trường hợp người lập di chúc thể hiện rõ ràng trong di chúc rằng một hoặc nhiều người thừa kế theo pháp luật không có quyền hưởng di sản. Trong trường hợp này, nếu di chúc bị vô hiệu toàn bộ, thì tư cách người thừa kế theo luật của những người nói trên không ảnh hưởng. Tuy nhiên, trong trường hợp di chúc có hiệu lực toàn bộ hoặc có một phần vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của việc truất quyền hưởng di sản thì tư cách người thừa kế theo luật của họ đương nhiên bị mất. Do vậy, nếu có phần di sản liên quan đến phần di chúc không có hiệu lực, được chia theo pháp luật thì người đó vẫn không được hưởng. Quan điểm khác cho rằng, người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc nhưng không được người lập di chúc chỉ định hưởng tài sản. Khi đó người thừa kế không được chỉ định trở thành người bị truất quyền hưởng di sản. Trong trường hợp này, nếu có phần tài sản nào đó không được định đoạt trong di chúc, được chia theo pháp luật thì họ vẫn sẽ được hưởng, vì họ là người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản, quyền thừa kế của họ có được là do luật định.

3. Quyền phân định di sản cho từng người thừa kế

Người lập di chúc có quyền phân chia một cách cụ thể di sản của mình cho người thừa kế. Người lập di chúc có quyền phân chia di sản cho mỗi người không nhất thiết phải ngang nhau mà không cần phải nêu lý do. Người lập di chúc cũng có thể chỉ định nhiều người thừa kế và di sản được chia đều cho những người có tên trong di chúc. Nếu những người này có sự thỏa thuận về việc hưởng di sản thì việc phân chia di sản sẽ tuân theo sự thỏa thuận đó. Người lập di chúc cũng có thể phân định di sản theo tỷ lệ mà không xác định rõ phần di sản mà từng người thừa kế được hưởng và mỗi người thừa kế được hưởng phần di sản theo tỷ lệ đã được xác định trên tổng giá trị khối tài sản đang còn vào thời điểm phân chia. Hoặc người lập di chúc có thể phân định rõ trong di chúc người thừa kế nào được hưởng di sản là hiện vật gì; khi di sản được phân chia, các thừa kế được nhận hiện vật theo sự xác định trong di chúc

4. Quyền giao nghĩa vụ cho người thừa kế

Theo sự chỉ định trong di chúc, người thừa kế phải thực hiện một công việc vì lợi ích vật chất của người khác mà đáng lẽ khi còn sống, người để lại di sản phải thực hiện như trả nợ, bồi thường thiệt hại… Tuy nhiên, người thừa kế không phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản gắn liền với nhân thân của người để lại di sản. Trong trường hợp người để lại di sản có để lại một nghĩa vụ về tài sản nhưng trong di chúc không nói rõ người thừa kế nào phải thực hiện nghĩa vụ đó thì theo quy định của pháp luật, ai hưởng thừa kế thì người đó phải thực hiện. Tuy nhiên, người thừa kế chỉ phải thực hiện nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại trong phạm vi di sản thừa kế. Nếu người để lại thừa kế đã xác định rõ tỷ lệ nghĩa vụ mà từng người thừa kế phải thực hiện thì mỗi người phải thực hiện phần nghĩa vụ đó trong phạm vi di sản mà mình được hưởng. Phần nghĩa vụ vượt quá di sản người này được hưởng sẽ chia đều cho những người thừa kế khác thực hiện tương ứng với phần di sản mà họ đã nhận.

5. Người lập di chúc có quyền dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng và để di tặng

Người lập di chúc có thể để lại một phần di sản vào việc thờ cúng hoặc để di tặng cho người khác. Phần di sản dùng vào việc di tặng, thờ cúng không được chia thừa kế. Hiệu lực của việc di tặng về nguyên tắc, được xác định theo hiệu lực của di chúc. Nghĩa là việc di tặng chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm người lập di chúc chết và người được di tặng phải còn sống vào thời điểm đó. Người nhận tài sản di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các chủ nợ của người chết, pháp luật cũng quy định: “Trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này” (khoản 2 Điều 671 BLDS) và “Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng””(khoản 2 Điều 670 BLDS).

Pháp luật quy định người để lại di sản thừa kế có quyền dành một phần di sản của mình để di tặng là hoàn toàn hợp lý. Theo quy định về di tặng thì, người được di tặng có nhiều ưu tiên hơn người được thừa kế thông thường vì khi thực hiện nghĩa vụ về tài sản, thì người được di tặng chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi toàn bộ di sản của người lập di chúc không đủ để thanh toán các khoản nợ của họ. Tuy vậy, khi giải quyết các tranh chấp liên quan đến vấn đề này, còn tồn tại nhiều vướng mắc, cụ thể: Xét về bản chất, người được di tặng là người được hưởng một phần di sản theo di chúc. Như vậy, có áp dụng Điều 643 BLDS quy định về “người không được quyền hưởng di sản” đối với người nhận di tặng hay không?.

Vấn đề để lại di sản dùng vào việc thờ cúng cũng gặp vướng mắc tương tự. Di sản này cũng được hưởng ưu tiên khi thực hiện nghĩa vụ và không bị đem ra chia thừa kế. Tuy nhiên, pháp luật không quy định rõ phần di sản dùng vào việc thờ cúng của người để lại di sản tối đa là bao nhiêu. Do vậy, trường hợp người lập di chúc định đoạt tài sản dùng vào việc thờ cúng quá lớn sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của những người thừa kế. Trong thời gian tới, pháp luật dân sự cần quy định cụ thể về phần di sản được dùng vào việc thờ cúng và di tặng để tránh những vướng mắc nêu trên.

6. Quyền sửa đổi, bổ sung thay thế, hủy bỏ di chúc

Sửa đổi di chúc: là việc người lập di chúc bằng ý chí tự nguyện của mình làm thay đổi một phần di chúc đã lập. Những phần di chúc không bị sửa đổi vẫn có hiệu lực; phần di chúc đã bị sửa đổi sẽ không còn hiệu lực mà thay vào đó, pháp luật sẽ căn cứ vào ý chí thể hiện trong sự sửa đổi sau cùng.

Bổ sung di chúc: là việc người lập di chúc bổ sung thêm một số vấn đề mà trong di chúc đã lập chưa nói đến nhằm làm cho di chúc cụ thể, chi tiết hơn, rõ hơn. Khi người lập di chúc bổ sung di chúc thì cả di chúc đã lập và cả phần bổ sung đều có hiệu lực như nhau. Trường hợp di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật. BLDS không quy định điều kiện về hình thức của việc sửa đổi, bổ sung di chúc. Tuy nhiên, để tránh việc tẩy xóa, thêm bớt vào di chúc làm giảm tính chính xác và xác thực của di chúc pháp luật cần quy định việc sửa đổi bổ sung di chúc phải được thể hiện bằng văn bản riêng biệt kèm theo di chúc đã lập.

Thay thế di chúc: Thay thế di chúc là việc một người tuy đã lập di chúc định đoạt tài sản của mình cho người khác nhưng sau đó nếu họ thấy việc định đoạt của mình chưa phù hợp (hoặc không còn phù hợp) thì có quyền lập một di chúc khác để thay di chúc đã lập trước. Khoản 3 Điều 662 BLDS quy định: “Trong trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị hủy bỏ”.

Hủy bỏ di chúc: là người đã lập di chúc lại bằng ý chí tự nguyện của mình truất bãi di chúc đã lập. Khoản 3 Điểu 662 BLDS 2005 xác định một trường hợp được coi là hủy bỏ di chúc: khi người lập di chúc thay thế di chúc đã lập. Tuy nhiên, thực tế việc hủy bỏ di chúc còn có thể được người lập di chúc thực hiện bằng nhiều cách khác nhau, ví dụ: hủy bỏ di chúc trong trường hợp thực hiện hành vi xé, đốt, tiêu hủy di chúc mà người đó đã lập ra; hoặc khi người lập di chúc tuyên bố trước mọi người về việc phế truất di chúc đã lập hay viết vào bản di chúc là không thừa nhận di chúc đó nữa. BLDS không quy định về hình thức hủy bỏ di chúc, tuy nhiên, theo nhiều ý kiến, dù thực hiện bằng cách nào chăng nữa, nhưng nếu đó là ý chí tự nguyện của người lập di chúc thì đều được coi là hủy bỏ di chúc.

7. Quyền chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản

Để tránh việc thất lạc, hư hỏng di chúc, cũng như để đảm bảo ý nguyện của mình không bị người khác xâm phạm, người lập di chúc có thể gửi di chúc ở cơ quan công chứng nhà nước hoặc bất kỳ người nào mà mình tin tưởng giữ bản di chúc. Đồng thời, để di sản của người lập di chúc để lại không bị mất mát, hư hỏng cần có người quản lý di sản. Tôn trọng ý chí của người lập di chúc nên trước hết người quản lý di sản phải là người được chỉ định trong di chúc, khi nào trong di chúc không xác định người quản lý di sản thì sẽ xác định người quản lý di sản theo một trong các trường hợp sau:

– Là người được những người thừa kế cùng thỏa thuận cử ra để quản lý di sản trong thời gian di sản chưa được chia.

– Người đang chiếm giữ, quản lý di sản là người quản lý di sản trong thời gian những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản mới.

– Người đang chiếm giữ, sử dụng di sản thừa kế theo hợp đồng mà họ đã ký kết với người để lại di sản là người quản lý di sản cho đến khi hết hạn hợp đồng.

– Di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý khi chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý.

Người được chỉ định quản lý di sản trong di chúc có thể là một trong những người thừa kế theo luật của người đó nhưng cũng có thể là một người bất kỳ hoặc một cơ quan hay tổ chức nào đó. Ý chí này của người lập di chúc luôn luôn được pháp luật thừa nhận và bảo đảm thực hiện, nếu đúng là ý chí tự nguyện và không trái với pháp luật.

Người lập di chúc cũng có quyền chỉ định người phân chia di sản, việc phân chia di sản phải tuân theo di chúc. Trường hợp di chúc không xác định cách phân chia di sản thì phải chia theo sự thỏa thuận của những người thừa kế. Người phân chia di sản chỉ được hưởng thù lao đối với công việc chia di sản và theo mức mà người để lại di sản đã xác định, nếu trong di chúc có cho phép hưởng thù lao. Trường hợp di chúc không xác định điều này, nhưng nếu có sự thỏa thuận của những người thừa kế thì người phân chia di sản vẫn được hưởng thù lao theo sự thỏa thuận đó. Đồng thời, người được xác định phân chia tài sản có thể từ chối công việc đó nếu muốn và trong những trường hợp này những người thừa kế tự thỏa thuận để cử ra người phân chia di sản.

Trong một số trường hợp, pháp luật quy định quyền của những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, các đối tượng được thừa kế tài sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Cụ thể, Điều 669 BLDS quy định:

Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:

1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động

Tóm lại, quyền định đoạt của người lập di chúc được pháp luật bảo vệ và tôn trọng nhưng chỉ có hiện lực khi việc định đoạt bằng di chúc thỏa mãn các điều kiện về di chúc hợp pháp được quy định tại Điều 652 BLDS. Nếu người lập di chúc không tuân theo những điều kiện của di chúc hợp pháp thì di chúc đó bị xác định là không hợp pháp và mặc dù ý chí của người có tài sản được pháp luật bảo hộ và tôn trọng nhưng quyền định đoạt của người có di sản không phải là tuyệt đối. Quyền định đoạt tài sản của người lập di chúc không vượt ra ngoài khuôn khổ của pháp luật thừa kế. Quyền tự do ý chí ấy được thể hiện không những trong việc lập di chúc để định đoạt tài sản mà còn thể hiện ngay cả trong việc không lập di chúc để định đoạt tài sản để lại sau khi chết. Đây là cách thể hiện ý chí của cá nhân bằng việc không lập di chúc để định đoạt tài sản của họ mà ý chí đó thể hiện ở việc chỉ để di sản cho những người có quyền thừa kế theo pháp luật.

II/ Một số nội dung trong các quy định về quyền của người nhận di sản.

Điều 642 BLDS quy định về việc từ chối nhận di sản như sau:

1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.

2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.

3. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế.”

Pháp luật thừa kế của nước ta quy định người thừa kế có quyền nhận di sản hoặc từ chối nhận di sản nếu sự từ chối quyền hưởng di sản của người thừa kế phù hợp với những điều kiện mà pháp luật đã quy định. Sự từ chối quyền hưởng di sản của người thừa kế được quy định trong điều luật nêu trên quy định thời hạn có hiệu lực của sự khước từ, hình thức và thủ tục khước từ quyền hưởng di sản và trường hợp không có quyền từ chối quyền hưởng di sản. Quyền từ chối nhận di sản thừa kế được pháp luật cho phép nếu phù hợp với điều kiện, nguyên tắc, thời hạn theo quy định tại Điều 642 BLDS.

Từ chối quyền hưởng thừa kế theo di chúc cũng là sự thể hiện ý chí của người được chỉ định thừa kế theo di chúc đã không nhận thừa kế theo sự định đoạt của người để lại di sản. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc đồng thời là người thuộc hàng thừa kế theo pháp luật được hưởng di sản thì việc thể hiện ý chí của người đó có thể xảy ra các trường hợp sau:

– Chỉ từ chối quyền hưởng thừa kế theo di chúc mà không từ chối quyền hưởng thừa kế theo pháp luật.

– Chỉ từ chối quyền hưởng thừa kế theo pháp luật mà không từ chối quyền hưởng thừa kế theo di chúc

– Từ chối cả quyền hưởng thừa kế theo di chúc và quyền hưởng thừa kế theo pháp luật.

Theo tinh thần của điều luật này, thì việc từ chối nhận di sản được coi là một quyền năng của người được hưởng thừa kế. Tuy nhiên việc thực hiện quyền năng này chỉ được pháp luật chấp nhận trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày mở thừa kế; nếu quá thời hạn kể trên, người được hưởng di sản mới bày tỏ ý kiến về việc từ chối nhận di sản thì việc từ chối đó không được pháp luật chấp nhận và người đó buộc phải chấp nhận việc hưởng quyền năng của mình đó là “quyền hưởng thừa kế di sản”.

Thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế, rất ít trường hợp người nhận di sản thực hiện việc từ chối nhận di sản trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày mở thừa kế (tức là ngày mà người để lại di sản chết). Trong không ít trường hợp, sau khi người để lại di sản chết hàng vài năm, việc phân chia di sản mới được đặt ra (điều này là hoàn toàn phù hợp với cách xử sự truyền thống của người Việt Nam). Khi đó, tranh chấp về thừa kế mới nảy sinh, các bên đương sự đưa nhau ra tòa, yêu cầu Tòa án giải quyết. Nhiều người trong số các đương sự này vì không muốn tham gia vào vụ tranh chấp hoặc vì các lý do khác đã không muốn nhận di sản thừa kế và lúc này họ mới có ý định từ chối nhận di sản. Những người này làm đơn xin Tòa án cho phép họ từ chối nhận di sản (tức là họ từ bỏ một quyền năng của mình). Nếu Tòa án chấp nhận thì sẽ vi phạm quy định về thời hạn từ chối di sản theo Điều 642 Bộ luật dân sự. Nếu Tòa án không cho họ thực hiện quyền năng này, rõ ràng ý chí định đoạt quyền năng của họ đã không được đảm bảo.

Như vậy, quyền thừa kế đối với một khối di sản nhất định về bản chất cũng là một quyền tài sản. Người có quyền năng này cũng chính là chủ sở hữu của khối tài sản đó. Theo Điều 195 Bộ luật dân sự thì chủ sở hữu có toàn quyền định đoạt số phận pháp lý của tài sản thuộc sở hữu của mình, tức là có quyền chuyển nhượng, tặng cho hoặc thậm chí từ bỏ quyền sở hữu của mình. Như vậy, việc cho phép người được hưởng di sản thừa kế có quyền từ chối nhận di sản thừa kế là hoàn toàn hợp lý. Việc thực hiện quyền năng này ngoài thời hạn 06 tháng (nếu không phải để trốn tránh một nghĩa vụ tài sản) thì hoàn toàn không “gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác” như nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu quy định tại Điều 165 Bộ luật dân sự.

Rõ ràng, chưa có sự thống nhất trong quy định của các Điều 642, Điều 195 và Điều 165 Bộ luật dân sự. Việc áp dụng một cách máy móc Điều 642 làm phức tạp hóa quan hệ dân sự, gây phiền phức cho người dân, chứ chưa thực nhằm mục đích làm ổn định quan hệ xã hội. Vì vậy, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của những người thừa kế, cũng như tạo điều kiện cho Tòa án giải quyết nhánh chóng, kịp thời các tranh chấp về thừa kế, nên sửa đổi quy định tương ứng của BLDS theo hướng, không quy định hạn chế thời hạn từ chối nhận di sản thừa kế. Đồng thời, pháp luật cũng không nên hạn chế phương thức thể hiện việc từ chối mà người từ chối có thể báo với các cơ quan Nhà nước hoặc Tòa án và những người thừa kế khác tại bất kỳ thời điểm nào trước khi di sản thừa kế được chia.

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Luật sư Gia Đình đang mở rộng và luôn nỗ lực hoàn thiện nhiều loại hình dịch vụ đa dạng trong khu vực, trong nước và trên thế giới nhằm mang lại cho khách hàng của mình những dịch vụ tư vấn hoàn hảo nhất.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hỗ trợ luật sư là đối tác tư vấn pháp luật trên Đài tiếng nói Bình Dương, Đài truyền hình Bình Dương, Đài Đài Truyền hình HTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Đài VOV Giao Thông, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Trân trọng cảm ơn.

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Khai Thừa Kế Bỏ Sót Thừa Kế Giải Quyết Thế Nào?
Khai Thừa Kế Bỏ Sót Thừa Kế Giải Quyết Thế Nào?

Bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản trước

Hễ dính tới người ở nước ngoài thì người trong nước hay gặp khó khăn khi đi làm thủ tục nhà, đất. Lúc này đã đỡ hơn chứ thời gian dài trước đây nhiều hồ sơ đã bị tắc tị do có yếu tố nước ngoài. Đây là một trong những lý do mà nhiều gia đình khai sót người thừa kế ở nước ngoài. Phòng chúng tôi cũng gặp phải những tình huống này và đã có cách xử lý phù hợp với loại văn bản công chứng. Đối với văn bản thỏa thuận phân chia di sản như bài viết đã nêu, tất cả đồng thừa kế có thể thỏa thuận hủy bỏ văn bản phân chia này và sau đó làm lại văn bản thỏa thuận mới có ghi thêm tên và nội dung thỏa thuận của người bị bỏ sót. Nếu chỉ làm văn bản khai nhận di sản (không chia di sản), người bị sót tên có thể liên hệ với cơ quan công chứng để khai nhận tiếp. Trong trường hợp này, sau khi niêm yết xong, công chứng viên sẽ kết hợp với văn bản khai nhận trước để chứng nhận văn bản khai nhận mới ghi đầy đủ tên của các đồng thừa kế”.

Việc bỏ sót tên người thừa kế vẫn hay xảy ra do lỗi của những người yêu cầu công chứng. “Nếu có tranh chấp tài sản thì không còn cách nào khác là các bên phải khởi kiện ra tòa. Ngược lại, nếu không có tranh chấp thì người bị bỏ sót có thể làm thủ tục khai nhận bổ sung hoặc thỏa thuận phân chia lại để trên cơ sở đó làm thủ tục đăng ký quyền sở hữu, sử dụng tài sản” - ông Cheo nói.

Cá nhân có quyền chọn lựa các cơ quan công chứng để thực hiện các thủ tục trên nhưng cần lưu ý nếu khai nhận bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản trước thì phải đến chính cơ quan công chứng đã công chứng văn bản trước. Trường hợp làm văn bản mới thì cơ quan công chứng nào cũng chứng nhận được. Thủ tục niêm yết hai loại văn bản trên là 15  ngày nhưng từ ngày.

Về phí công chứng, do các văn bản trước đã được thu phí công chứng tính theo giá trị tài sản nên khi những người thừa kế bổ sung tên hoặc hủy bỏ, làm văn bản mới cũng về tài sản đó, cơ quan công chứng chỉ thu phí công chứng không theo giá trị tài sản. Mức phí cho việc hủy bỏ hợp đồng, giao dịch là 20.000 đồng, cho việc bổ sung, thỏa thuận lại là 40.000 đồng. Nếu so sánh với cách khởi kiện (lệ phí việc dân sự là 200.000 đồng, thời gian giải quyết có thể là mấy tháng) thì rõ ràng cách đi công chứng ít tốn kém hơn.

Theo Nghị quyết 01/2012 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao, yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu là việc dân sự (không phải vụ án dân sự) và người yêu cầu tòa án giải quyết việc này phải nộp lệ phí tòa án là 200.000 đồng. Do vậy, trong vụ việc của Phòng Công chứng số 6, TP.HCM, tôi cũng cho rằng yêu cầu của một người thừa kế bị bỏ sót về việc hủy bỏ văn bản thỏa thuận phân chia di sản có nội dung không đúng là việc dân sự và nếu thụ lý là vụ án dân sự thì tòa đã làm chưa đúng.

Để các yêu cầu tương tự được giải quyết đúng quy định, tòa án cấp phúc thẩm cần hủy án sơ thẩm theo hướng xác định đó là việc dân sự và các cơ quan công chứng phải đi hầu tòa với tư cách người có liên quan chứ không phải là bị đơn.

 

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Luật sư Gia Đình đang mở rộng và luôn nỗ lực hoàn thiện nhiều loại hình dịch vụ đa dạng trong khu vực, trong nước và trên thế giới nhằm mang lại cho khách hàng của mình những dịch vụ tư vấn hoàn hảo nhất.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hỗ trợ luật sư là đối tác tư vấn pháp luật trên Đài tiếng nói Bình Dương, Đài truyền hình Bình Dương, Đài Truyền hình HTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Trân trọng cảm ơn.


ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
 
 
 
Khai nhận thừa kế theo di chúc có phải khai anh em vào không?
Khai nhận thừa kế theo di chúc có phải khai anh em vào không?

1. Căn cứ pháp lý

–Bộ luật dân sự 2015

2. Giải quyết vấn đề

Theo thông tin bạn cung cấp ngoại bạn có một mảnh đất có viết di chúc lại cho mẹ bạn, thời gian qua mẹ bạn làm giấy thừa kế chuyển tên qua cho mẹ bạn và chính quyền cho thời gian niêm yết để kiện là 15 ngày, sau thời gian đó không ai kiện tụng thì quyền sử dụng đất đã được chuyển sang cho mẹ bạn.

Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.

Theo quy định của Điều 609 Bộ luật dân sự năm 2015 quyền thừa kế cá nhân như sau:

“Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.”

Di chúc của ngoại bạn đáp ứng đủ điều kiện di chúc hợp pháp, thì thực hiện theo nội dung di chúc.

Theo thông tin mà bạn cung cấp thì ngoại bạn để lại di chúc giao toàn bộ tài sản cho mẹ bạn thì ngoại bạn có thể định đoạt phần tài sản của mình.

Điều kiện để một di chúc hợp pháp như sau:

+ Người lập di chúc: Người lập di chúc phải là người thành niên minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa cưỡng ép.

+ Nội dung di chúc: Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

+ Hình thức của bản di chúc: Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.

Di chúc bằng văn bản bao gồm: di chúc bằng văn bản không có người làm chứng;  Di chúc bằng văn bản có người làm chứng; Di chúc bằng văn bản có công chứng; di chúc bằng văn bản có chứng thực; Như vậy, tùy thuộc vào loại di sản mà pháp luật quy định hình thức của di chúc, di chúc bằng văn bản không có yêu cầu công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện đã nêu ở trên.

Di chúc bằng miệng: Trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng. Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.

+ Nội dung của di chúc: Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau: Ngày, tháng, năm lập di chúc; Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc; Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; Di sản để lại và nơi có di sản. Ngoài các nội dung trên, di chúc có thể có các nội dung khác. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc. Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.

+ Hiệu lực của di chúc: Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế.

Như vậy, trong trường hợp, di chúc của ngoại bạn để lại đủ các điều kiện nêu trên thì được coi là một di chúc hợp pháp và được chỉ định tức là mẹ bạn là người có quyền hưởng thừa kế và 2 dì của bạn sẽ không có quyền được hưởng phần di sản này.

Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu bạn sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. Chúng tôi là luật sư sẽ hội đủ những điều kiện trên và tiêu chí của chúng tôi luôn cố gắng để hoàn thiện đầy đủ những yếu tố trên. Chúng tôi quán triệt các luật sư trong văn phòng cũng như công tác viên, cộng sự, nhân viên đều phải rèn luyện đạo đức và tài năng để hoạt động đúng tiêu chí mà chúng tôi quan niệm theo đuổi trong suốt quá trình hành nghề.

Chúng tôi là Văn phòng Luật sư Gia Đình - Đoàn Luật sư TP.HCM tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn giỏi, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi đang mở rộng và luôn nỗ lực hoàn thiện nhiều loại hình dịch vụ đa dạng trong khu vực, trong nước và trên thế giới nhằm mang lại cho khách hàng của mình những dịch vụ tư vấn hoàn hảo nhất.

         Tên Luật sư Gia Đình không có nghĩa là chúng tôi chỉ chuyên về gia đình mà tên Luật sư Gia Đình là do Văn phòng luật sư chúng tôi bao gồm các luật sư xuất thân từ trong các gia đình yêu và đam mê nghề luật nên ý tưởng manh nha của các luật sư sáng lập đặt tên là Văn phòng luật sư Gia Đình.

          Với hàng chục nghìn khách hàng được tư vấn về pháp luật tại Luật Sư Gia Đình, chúng tôi là một trong những luật sư tiên phong trong việc giúp các cá nhân, doanh nhân đạt được kết quả tốt nhất và khởi sự kinh doanh nhanh chóng và thuận lợi. Luật sư Gia Đình- "Hãng luật uy tín của bạn" là khẩu hiệu mà Luật sư Gia Đình chọn làm phương châm xuyên suốt trong mọi hoạt động hành nghề. Mỗi khách hàng đối với chúng tôi là một người bạn, một vinh dự quý báu và đáng trân trọng nên chúng tôi có nghĩa vụ phục vụ tốt nhất cho khách hàng. Mỗi hoạt động mà Văn phòng Luật sư Gia Đình dành cho khách hàng của mình cũng là để góp phần gìn giữ và xây dựng những danh hiệu quý báu ấy và bảo đảm được mong muốn, quyền lợi của khách hàng góp phần bảo vệ công lý nói chung. Luật sư Gia Đình luôn coi trọng chữ “Tâm” và “Đức” của nghề luật sư, chữ "tâm" là cốt lõi của nghề luật sư và mục tiêu chúng tôi hướng tới nhằm góp phần cho sự bảo vệ công lý và công bằng xã hội. Chúng tôi luôn đặt lợi ích và quyền lợi của khách hàng lên hàng đầu. Luật sư Gia Đình là một trong những luật sư uy tín tại Việt Nam và là đối tác đáng tin cậy của nhiều doanh nghiệp, cá nhân và gia đình trong và ngoài nước. Tại đây tập trung các Luật sư có đạo đức và luật sư chuyên nghiệp trong chuyên môn cũng như trong cách giải quyết công việc, hồ sơ cho khách hàng hiệu quả. Với 12 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp lý và công tác tại nhiều thành phố khác nhau cùng với kinh nghiệm, học hỏi nhiều luật sư, bạn bè đang làm việc tại nhiều thành phố trên thế giới…Hãng luật Gia Đình hội đủ những phẩm chất, kỷ năng, kinh nghiệm về chuyên môn và đạo đức đủ khả năng giải quyết và tranh tụng những vụ việc,các tranh chấp  phức tạp và khó xảy ra tại các thành phố lớn ở Việt Nam. Hơn nữa, chúng tôi luôn làm việc với các cơ quan như Tòa án, Viện kiểm sát, Công an Điều tra, Sở tư pháp, Sở kế hoạch đầu tư, Cơ quan thi hành, các doanh nghiệp trong và ngoài nước, các luật sư đồng nghiệp…nhằm đạt được công việc hiệu quả và nhanh chóng cho khách hàng...

        Luật sư Trần Minh Hùng là một trong những luật sư sáng lập văn phòng luật, giàu kinh nghiệm về kiến thức và thực tiễn đã dành nhiều thắng lợi vụ kiện và quan trọng luật sư Hùng luôn coi trọng chữ TÂM của nghề luật sư và trách nhiệm đối với xã hội nên đã được nhiều hãng báo chí, truyền thông, Đài tiếng nói Việt nam phỏng vấn nhiều lĩnh vực quan trọng liên quan đến đời sống. Luật sư Trần Minh Hùng được nhiều hãng truyền thông, báo chí trong nước  tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn trên VOV Giao Thông – Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài truyền hình TP.HCM (HTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Đài phát thanh kiên giang... Báo pháp luật TP.HCM, Báo đời sống và pháp luật, báo Đời sống và tuổi trẻ,báo Dân Trí, Báo VNxpress, Báo Soha, Kênh 14, Một thế giới, Báo tin tức Việt nam– Các tạp chí như Tiếp Thị Gia Đình, Báo điện tử, báo Infonet,  VTC NEW, Báo Mới, Báo gia đình Việt nam, Báo ngày nay, Báo người lao động, Báo Công an nhân dân, Kiến thức ngày nay, Báo Gia đình và xã hội, Tầm nhìn, được các tổ chức, trường Đại học Luật TP.HCM mời làm giám khảo các cuộc thi Phiên tòa giả định, mời làm chuyên gia ý kiến về các sự kiện……là đối tác tư vấn luật của các hãng truyền thông này và luôn mang lại niềm tin cho khách hàng và ghi nhận sự đóng góp của chúng tôi cho xã hội...

Là văn phòng luật chuyên tư vấn luật trên báo chí các sự kiện nổi bật, nóng hổi trên cả nước nhằm tuyên truyền pháp luật cho mọi người và thể hiện được sự uy tín, kinh nghiệm kiến thức và thực tiễn của chúng tôi.

           Ngoài lĩnh vực hoạt động, Văn phòng Luật sư Gia Đình còn tham gia nhiều hoạt động từ thiện, tư vấn pháp luật miễn phí cho đối tượng chính sách, người nghèo, bào chữa, bảo vệ miễn phí cho nhiều đối tượng... Khách hàng đến với Văn phòng luật sư Gia Đình luôn nhận được sự quan tâm, chia sẻ sâu sắc về mọi mặt trong đời sống của các Luật sư Gia Đình.

            Văn Phòng Luật sư Gia Đình xin gửi lời chúc sức khoẻ và cảm lời cảm ơn sâu sắc đến với tất cả Quý khách hàng đã và đang hợp tác với chúng tôi trong thời gian qua. Chúng tôi tin rằng khi đến với Luật sư Gia Đình quý khách sẽ nhận được được những dịch vụ pháp lý hoàn hảo và đáng tin cậy, sự tận tâm, tận tình của chúng tôi. Với đội ngũ Luật sư và các chuyên gia dày dặn kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật là yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công của chúng tôi. Yếu tố quyết định cho sự thành công bền vững của Luật sư Gia Đình chính là sự chuyên nghiệp, uy tín, trung thực đối với khách hàng và không ngừng học hỏi, nâng cao chuyên môn và đạo đức của Luật sư trong nước và Luật sư thế giới thể hiện trong việc phân công đội ngũ nhân sự phù hợp, phát huy tốt nhất nhân tố con người.

Là văn phòng luật chuyên tư vấn luật trên báo chí các sự kiện nổi bật, nóng hổi trên cả nước nhằm tuyên truyền pháp luật cho mọi người và thể hiện được sự uy tín, kinh nghiệm kiến thức và thực tiễn của chúng tôi.

Chúng tôi chuyên tư vấn và thực hiện dịch vụ tại các tỉnh khắp trên cả nước như tư vấn tại Bình Dương, TP.HCM, đồng nai, Long An, Vũng Tàu, Hà Nội, Nha Trang, biên hòa, Đà Nẵng, Vinh… 

Đại diện Văn phòng Luật sư Gia Đình

                                                                                                                                                      

 Luật sư Trần Minh Hùng  

Tư Vấn Tranh Chấp Nhà Đất Anh Em Với Nhau
Tư Vấn Tranh Chấp Nhà Đất Anh Em Với Nhau

Theo quy định tại Điều 33 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 về tài sản chung của vợ chồng:

“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.”

Vậy quyền sử dụng đất ở đây, cụ thể là đất vườn và đất ruộng được coi là tài sản chung của ông và bà, khi ông tiến hành tặng cho quyền sử dụng đất cho các con thì chỉ có quyền quyết định đối với một nửa số tài sản đó chứ không có quyền quyết định tất cả vì một nửa số tài sản kia là thuộc sở hữu của bà. Trong trường hợp này, do ông và bà bạn mất đều không để lại di chúc nên tài sản thừa kế sẽ được chia theo pháp luật. Tuy nhiên mảnh đất vườn 3000m2 mà ông bạn để lại cho chú bạn thì chú  bạn đã xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sử dụng từ năm 2002 đến nay, việc này cần phải xem xét việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó có hợp pháp hay không, nếu chỉ do ông bạn tự ý quyết định sang tên cho chú bạn mà không được bà bạn đồng ý thì việc cấp là không hợp pháp. Bác của bạn sẽ có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đã cấp và khởi kiện thừa kế chia lại tài sản mà ông bà bạn để lại vì bác bạn và chú bạn đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất có quyền hưởng di sản. Cụ thể quy định tại khoản 2 Điều 106 Luật đất đai 2013 về đính chính, thu hồi giấy chứng nhận đã cấp và Điều 676 Bộ luật dân sự về hàng thừa kế:

“Điều 106. Đính chính, thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp

2. Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp sau đây:

a) Nhà nước thu hồi toàn bộ diện tích đất trên Giấy chứng nhận đã cấp;

b) Cấp đổi Giấy chứng nhận đã cấp;

c) Người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất mà phải cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;

d) Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai.”

“Điều 676. Người thừa kế theo pháp luật

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”

Trên đây là ý kiến giải đáp của chúng tôi về câu hỏi của bạn. Việc đưa ra nội dung nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do người hỏi cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Luật sư Gia Đình đang mở rộng và luôn nỗ lực hoàn thiện nhiều loại hình dịch vụ đa dạng trong khu vực, trong nước và trên thế giới nhằm mang lại cho khách hàng của mình những dịch vụ tư vấn hoàn hảo nhất.

      Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hỗ trợ luật sư là đối tác tư vấn pháp luật trên Đài tiếng nói Bình Dương, Đài truyền hình Bình Dương, Đài HTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho cuộc thi Phiên tòa giả định, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân và chuyên gia cho các hãng truyền thông uy tín, bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng cho thân chủ.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực cho xã hội của chúng tôi.

Trân trọng cảm ơn.

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
 



-- 

Download các văn bản pháp luật, công văn hành chính, biểu mẫu hợp đồng, tố tụng, các biểu mẫu liên quan, tìm hiểu về chúng tôi tại đây:


Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Luật sư Gia Đình đang mở rộng và luôn nỗ lực hoàn thiện nhiều loại hình dịch vụ đa dạng trong khu vực, trong nước và trên thế giới nhằm mang lại cho khách hàng của mình những dịch vụ tư vấn hoàn hảo nhất.

       Chúng tôi là hãng luật chuyên tư vấn luật thường xuyên cho nhiều doanh nghiệp và cá nhân trong nước và ngoài nước đồng thời là luật sư Riêng cho các doanh nghiệp cá nhân này.

      Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hỗ trợ luật sư là đối tác tư vấn pháp luật trên Đài tiếng nói Bình Dương, Đài truyền hình Bình Dương, Đài HTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho cuộc thi Phiên tòa giả định, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân và chuyên gia cho các hãng truyền thông uy tín,  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng cho thân chủ.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực cho xã hội của chúng tôi.


ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
Luật Sư Tư Vấn Pháp Luật Thừa Kế
Luật Sư Tư Vấn Pháp Luật Thừa Kế

Lĩnh vực tư vấn pháp luật và tranh tụng về thừa kế là một trong những lĩnh vực mà chúng tôi rất chú trọng trong việc tổ chức cung cấp dịch vụ pháp lý. Để cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật và tranh tụng tốt hơn cho Quý khách hàng cũng như tăng cường sự chuyên sâu và tính hiệu quả của lĩnh vực này, Văn phòng Luật sư Gia Đình chú trọng vào chất lượng công việc và bố trí Luật sư có nhiều năm kinh nghiệm phụ trách lĩnh vực này. Lĩnh vực này do Luật Sư chuyên trách về thừa kế phụ trách tư vấn và tham gia tranh tụng. Với kinh nghiệm và hiểu biết của chúng tôi, Văn phòng Luật sư Gia Đình cam kết sẽ tư vấn và đưa ra giải pháp hiệu quả nhất cho khách hàng. Đồng thời, chúng tôi sẽ thực hiện việc tranh tụng bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho quý khách hàng khi đến với chúng tôi.

Văn phòng Luật sư Gia Đình cung cấp đến Quý khách các dịch vụ về:

 1. Tư vấn thủ tục lập di chúc:

 - Tư vấn soạn thảo, lập di chúc;
- Tư vấn luật về quyền thừa kế không phụ thuộc di chúc, chia tài sản thừa kế không phụ thuộc di chúc;
- Thủ tục lập di chúc đối với tài sản là đồng sở hữu, tài sản chung vợ chồng;
- Cách thức chia thừa kế, hàng thừa kế, phân chia di sản thừa kế theo pháp luật, theo di chúc;
- Thủ tục để làm di chúc theo đúng quy định của pháp luật về thừa kế để có bảng di chúc hợp pháp, đảm bảo tính hiệu lực của di chúc. Tư vấn các vấn đề liên quan đến lập di chúc cho tài sản khác.

2. Tư vấn về Di sản thừa kế:

 - Tư vấn luật về quyền thừa kế theo pháp luật, theo di chúc;
- Tư vấn xác định giá trị pháp lý của di chúc.
- Tính hợp pháp của di sản thừa kế. Đặc biệt trong trường hợp thừa kế đất đai, nhà ở;
- Tư vấn giá trị từng phần cho mỗi đồng thừa kế. Đặc biệt trong trường hợp thừa kế đất đai, thừa kế nhà ở;
- Cách thức phân chia tài sản thừa kế theo pháp luật, chia thừa kế theo di chúc;
- Thủ tục khai nhận di sản, từ chối nhận di sản thừa kế;
- Tư vấn xác định hàng thừa kế, phần công sức đóng góp của người trực tiếp quản lý di sản thừa kế.Đặc biệt trong trường hợp thừa kế đất đai, thừa kế nhà ở;
- Liên hệ các cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật luật về thừa kế để phân chia di sản thừa kế.

3. Tư vấn thủ tục giải quyết tranh chấp quyền thừa kế, hàng thừa kế, tài sản thừa kế, giá trị pháp lý của di chúc:

- Tư vấn pháp luật về quyền thừa kế, tài sản thừa kế, xác định hàng thừa kế để chia thừa kế. Giải quyết tranh chấp trong việc chia thừa kế theo pháp luật, chia thừa kế theo di chúc giữa các đồng thừa kế;
- Thay mặt các bên tiến hành đàm phán, hòa giải, thương lượng chia thừa kế;
- Dựa trên những tài liệu, chứng cứ của khách hàng. Luật sư chúng tôi đánh giá và phân tích vụ việc tranh chấp một cách toàn diện. Đưa ra những phương án cụ thể có lợi nhất trong quá trình đàm phán, hòa giải với đối phương. Giúp khách hàng hoặc thay mặt khách hàng soạn thảo văn bản, giấy tờ liên quan đến việc giải quyết tranh chấp gửi đến cơ quan có thẩm quyền liên quan đến vụ việc.
- Hướng dẫn và tư vấn cho khách hàng trình tự thủ tục khởi kiện, thời hiệu khởi kiện, điều kiện khởi kiện, tư cách chủ thể và soạn đơn khởi kiện gửi đến Tòa án có thẩm quyền.
- Kiến nghị hoặc hướng dẫn khách hàng khiếu nại các cơ quan tiến hành tố tụng liên quan khi ban hành những quyết định không đúng thủ tục, trình tự…gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng.
- Tham gia gia tố tụng với tư cách là luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của  khách hàng tại tòa án các cấp.
- Tham gia tố tụng với tư cách là đại diện ủy quyền- nhân danh khách hàng thực hiện tất cả các phương án và cách thức theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng một cách tốt nhất tại tòa án các cấp.

4. Liên hệ luật sư tư vấn và thực hiện:

Tư Vấn Thủ Tục Công Chứng Thừa Kế
Tư Vấn Thủ Tục Công Chứng Thừa Kế

Quy định của pháp luật về thừa kế đất đai 

Để thừa kế quyền sử dụng đất theo di chúc hoặc theo pháp luật; tổ chức, cá nhân,…  được nhận chuyển quyền sử dụng đất thông qua việc nhận thừa kế. Người sử dụng đất phải thực hiện kê khai đăng ký đất đai; làm đầy đủ thủ theo quy định của pháp luật về thừa kế.

Đối với người được nhà nước cho thuê thu tiền thuê đất hàng năm thì có quyền để thừa kế, tặng cho tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê; người nhận thừa kế, người được tặng cho tài sản được Nhà nước tiếp tục cho thuê đất theo mục đích đã được xác định.

Trường hợp tất cả người nhận thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất đều là người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam thì người nhận thừa kế không được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất nhưng được chuyển nhượng hoặc được tặng cho quyền sử dụng đất thừa kế.

Hồ sơ khai nhận thừa kế về đất đai

Để được nhận thừa kế về đất đai, cần chuẩn bị các hồ sơ sau:


Hồ sơ được lập thành một bộ và thực hiện các thủ tục như chúng tôi tư vấn sau đây.

Trình tự, thủ tục thực hiện việc khai nhận thừa kế đất đai

a/ Khai nhận thừa kế

Các bên chuẩn bị hồ sơ và nộp tại văn phòng công chứng (tại tỉnh nơi có đất) để làm thủ tục lập văn bản khai nhận thừa kế. Cán bộ công chứng kiểm tra hồ sơ, đối chiếu bản gốc, xét thấy hợp lệ sẽ soạn thảo văn bản khai nhận di sản thừa kế để tiến hành thủ tục niêm yết công khai.

b/ Niêm yết văn bản khai nhận di sản thừa kế

Văn bản khai nhận di sản thừa kế trước khi được công chứng phải được niêm yết công khai tại UBND xã nơi có đất hoặc nơi người để lại di sản cư trú trước khi chết.

Trong thời giạn 15 ngày mà không có khiếu nại hoặc tranh chấp, Chủ tịch UBND xã sẽ xác nhận vào văn bản khai nhận thừa kế để làm cơ sở văn phòng công chứng tiến hành công chứng văn bản khai nhận thừa kế.

c/ Tiến hành thủ tục sang tên quyền sử dụng đất.

sau khi có văn bản khai nhận di sản thừa kế được công chứng, các bên bổ sung vào hồ sơ được tư vấn ở mục 2 và nộp tại BPMC văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh quận/huyện (trong trường hợp người được hưởng thừa kế là cá nhân); cấp tỉnh (trường hợp người được hưởng thừa kế là tổ chức) để làm thủ tục sang tên quyền sử dụng đất.

Để thực hiện việc khai nhận thừa kế, chúng tôi hỗ trợ các bạn:


Tư vấn luật thừa kế

  • Cách lập di chúc hợp pháp.
  • Phân chia tài sản thừa kế theo di chúc.
  • Phân chia tài sản thừa kế theo pháp luật.
  • Tính hợp pháp của di sản thừa kế.
  • Tư vấn xác định hàng thừa kế, công sức đóng góp của cá nhân, tổ chức cụ thể vào di sản thừa kế.
  • Thủ tục từ chối nhận di sản thừa kế.
  • Thủ tục khai nhận di sản thừa kế
  • Công chứng, chứng thực về thừa kế để phân chia di sản thừa kế.

Và bất cứ vấn đề nào khác có liên quan khi quý khách cần tư vấn luật thừa kế.

Giải quyết tranh chấp chia thừa kế

Văn Phòng Luật Sư ưu tiên giải quyết tranh chấp chia thừa kế theo hướng ôn hòa. Trường hợp không giải hòa được, chúng tôi cung cấp dịch vụ luật sư tranh tụng tại tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ với các trách nhiệm:

Thu thập thông tin, chứng cứ để đánh giá toàn diện vụ việc. 

Đưa ra phương án có lợi nhất cho thân chủ.Soạn thảo văn bản, giấy tờ liên quan đến vụ việc gửi cho cơ quan có thẩm quyền.

Hướng dẫn thủ tục, thời điểm và điều kiện khởi kiện.

Tham gia tố tụng với tư cách luật sư bào chữa hoặc đại diện ủy quyền để bảo vệ quyền và lợi ích của khách hàng một cách tốt nhất.

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Luật sư Gia Đình đang mở rộng và luôn nỗ lực hoàn thiện nhiều loại hình dịch vụ đa dạng trong khu vực, trong nước và trên thế giới nhằm mang lại cho khách hàng của mình những dịch vụ tư vấn hoàn hảo nhất.

       Chúng tôi là hãng luật chuyên tư vấn luật thường xuyên cho nhiều doanh nghiệp và cá nhân trong nước và ngoài nước đồng thời là luật sư Riêng cho các doanh nghiệp cá nhân này.

      Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hỗ trợ luật sư là đối tác tư vấn pháp luật trên Đài tiếng nói Bình Dương, Đài truyền hình Bình Dương, Đài HTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho cuộc thi Phiên tòa giả định, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân và chuyên gia cho các hãng truyền thông uy tín, bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng cho thân chủ.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực cho xã hội của chúng tôi.

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)

5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)

68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM

Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958

Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

Những người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
Những người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc

Trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

Theo quy định tại Điều 646 Bộ luật dân sự 2005 thì: "Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết".

Đồng thời, theo quy định về người lập di chúc quy định tại Điều 647 Bộ luật dân sự thì:

"1. Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.

2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý". 

Như vậy, di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân người để lại tài sản cho người khác trước khi chết. Nếu đủ điều kiện để lập di chúc theo Điều 647 nêu trên thì người lập di chúc có thể chỉ định người thừa kế và phân định tài sản của mình mà không cần sự đồng ý của bất kỳ ai.

Vì vậy, chồng của bạn có quyền lập di chúc để lại toàn bộ tài sản cho người vợ trước và các con của người vợ trước.

Tuy nhiên, về quyền lợi của các con bạn, Điều 669 Bộ luật dân sự có quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc như sau:

"Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:

 

1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

 

2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động".

 

Pháp luật Việt Nam không có sự tách biệt về quyền thừa kế của con ngoài giá thú với con trong giá thú. Giấy khai sinh của các con bạn có ghi tên người cha chính là căn cứ để chứng minh quan hệ cha con ở đây. Vì 2 người con của bạn vẫn chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi), do đó, mặc dù không được người cha để lại thừa kế theo di chúc nhưng 2 cháu vẫn sẽ được chia một phần di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật.

 

Về quyền thừa kế của bạn, pháp luật hôn nhân hiện hành chỉ công nhận quan hệ hôn nhân giữa nam nữ chung sống với nhau như vợ trước ngày 3/01/1987. Do đó, nếu như bạn chung sống với chồng trước thời điểm trên thì bạn cũng là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Nếu chung sống sau thời điểm trên mà không có đăng ký kết hôn thì quan hệ hôn nhân chưa được pháp luật công nhận nên bạn không có quyền thừa kế theo quy định trên, khi đó bạn chỉ có thể đòi quyền lợi cho 2 người con của mình.

Trường hợp này bạn có thể khởi kiện ra tòa án nhân dân quận/huyện để yêu cầu chia thừa kế

Luật Sư Chuyên Tư Vấn Phân Chia Thừa Kế
Luật Sư Chuyên Tư Vấn Phân Chia Thừa Kế

Luật sư tư vấn pháp luật về thừa kế


Lĩnh vực tư vấn luật thừa kế là một trong những lĩnh vực mà chúng tôi tổ chức cung cấp dịch vụ pháp lý chuyên sâu. Với nhiều năm kinh nghiệm và hiểu biết của về lĩnh vực pháp lý, Luật sư sẽ tư vấn và đưa ra giải pháp hiệu quả nhất cho khách hàng. Đồng thời, chúng tôi sẽ thực hiện việc bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho quý khách.

Luật sư  sẽ tư vấn các vấn đề sau:

 

1. Tư vấn thủ tục lập di chú:

Tư vấn soạn thảo, làm di chúc (lập di chúc);

Tư vấn luật về quyền thừa kế không phụ thuộc di chúc, chia tài sản thừa kế không phụ thuộc di chúc;

Thủ tục làm di chúc (thủ tục lập di chúc) đối với tài sản là đồng sở hữu, tài sản chung vợ chồng;

Cách thức chia thừa kế, hàng thừa kế, phân chia di sản thừa kế theo pháp luật, theo di chúc;

Thủ tục để làm di chúc theo đúng quy định của pháp luật về thừa kế để có bảng di chúc hợp pháp, đảm bảo tính hiệu lực của di chúc. Tư vấn các vấn đề liên quan đến làm di chúc (lập di chúc) cho tài sản khác.

2. Tư vấn về Di sản thừa kế:

- Tư vấn luật về quyền thừa kế theo pháp luật, theo di chúc;

Tư vấn xác định giá trị pháp lý của di chúc.

Tính hợp pháp của tài sản thừa kế (di sản thừa kế). Đặc biệt trong trường hợp thừa kế đất đai, thừa kế nhà ở;

Tư vấn giá trị từng phần cho mỗi đồng thừa kế. Đặc biệt trong trường hợp thừa kế đất đai, thừa kế nhà ở;

Cách thức phân chia tài sản thừa kế theo pháp luật, chia thừa kế theo di chúc;

Thủ tục khai nhận di sản, từ chối nhận di sản thừa kế;

Tư vấn xác định hàng thừa kế, phần công sức đóng góp của người trực tiếp quản lý tài sản thừa kế (di sản thừa kế). Đặc biệt trong trường hợp thừa kế đất đai, thừa kế nhà ở;

Liên hệ các cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật luật về thừa kế để phân chia tài sản thừa kế (di sản thừa kế).

Luật sư tư vấn luật thừa kế

3. Tư vấn thủ tục giải quyết tranh chấp quyền thừa kế, hàng thừa kế, tài sản thừa kế, giá trị pháp lý của di chúc:

Tư vấn luật về quyền thừa kế, tài sản thừa kế, xác định hàng thừa kế để chia thừa kế. Giải quyết tranh chấp trong việc chia thừa kế theo pháp luật, chia thừa kế theo di chúc giữa các đồng thừa kế;

Thay mặt các bên tiến hành đàm phán, hòa giải, thương lượng chia thừa kế;

Dựa trên những tài liệu, chứng cứ của khách hàng. Luật sư chúng tôi đánh giá và phân tích vụ việc tranh chấp một cách toàn diện. Đưa ra những phương án cụ thể có lợi nhất trong quá trình đàm phán, hòa giải với đối phương. Giúp khách hàng hoặc thay mặt khách hàng soạn thảo văn bản, giấy tờ liên quan đến việc giải quyết tranh chấp gửi đến cơ quan có thẩm quyền liên quan đến vụ việc.

Hướng dẫn và tư vấn cho khách hàng trình tự thủ tục khởi kiện, thời hiệu khởi kiện, điều kiện khởi kiện, tư cách chủ thể và soạn đơn khởi kiện gửi đến Tòa án có thẩm quyền.

Kiến nghị hoặc hướng dẫn khách hàng khiếu nại các cơ quan tiến hành tố tụng liên quan khi ban hành những quyết định không đúng thủ tục, trình tự…Ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng.

Tham gia gia tố tụng với tư cách là luật sư- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của  khách hàng tại các cấp tòa xét xử.

Tham gia tố tụng với tư cách là đại diện ủy quyền- nhân danh khách hàng thực hiện tất cả các phương án và cách thức theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng một cách tốt nhất tại các cấp tòa xét xử.

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Luật sư Gia Đình đang mở rộng và luôn nỗ lực hoàn thiện nhiều loại hình dịch vụ đa dạng trong khu vực, trong nước và trên thế giới nhằm mang lại cho khách hàng của mình những dịch vụ tư vấn hoàn hảo nhất.

Chúng tôi là những luật sư xuất thân trong các gia đình có truyền thống yêu nghề luật, đam mê nghề luật nên các luật sư sáng lập thống nhất đặt tên là Văn phòng luật sư Gia Đình.

       Chúng tôi là hãng luật chuyên tư vấn luật thường xuyên cho nhiều doanh nghiệp và cá nhân trong nước và ngoài nước đồng thời là luật sư Riêng cho các doanh nghiệp cá nhân này.

      Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng - Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hỗ trợ luật sư là đối tác tư vấn pháp luật miễn phí trên Đài tiếng nói Bình Dương, Đài truyền hình Bình Dương, Đài HTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân, báo Pháp luật Gia Đình, Báo Soha, Kênh 14, Một thế giới, Báo tin tức Viêt nam, Báo ngày nay– Các tạp chí như Tiếp Thị Gia Đình, Báo đời sống và pháp luật, báo Infonet, VTC NEW, Báo Mới, là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho cuộc thi Phiên tòa giả định, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân và chuyên gia cho các hãng truyền thông uy tín.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực cho xã hội của chúng tôi.

Chúng tôi chuyên tư vấn và thực hiện dịch vụ tại các tỉnh khắp trên cả nước như tư vấn tại Bình Dương, TP.HCM, đồng nai, Long An, Vũng Tàu, Hà Nội, Nha Trang, biên hòa, Đà Nẵng, Vinh…

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
Cha Mẹ Chết Không Có Di Chúc Tài Sản Được Phân Chia Thế Nào?
Cha Mẹ Chết Không Có Di Chúc Tài Sản Được Phân Chia Thế Nào?

Theo quy định tại Điều 645 Bộ luật dân sự thì: “Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.

 

Như vậy, sau thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế (thời điểm người để lại di sản chết), người thừa kế không còn quyền khởi kiện thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác; và sau thời hạn là 3 năm, cá nhân, tổ chức không còn quyền khởi kiện yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại.

 

Tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP hướng dẫn như sau:

 

- Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

 

+ Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

 

+ Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

 

+ Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

 

- Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản. 

 

Đối chiếu với quy định nêu trên thì thắc mắc của bạn sẽ được giải quyết như sau:

 

- Trường hợp các anh em của bạn không có tranh chấp: thì căn hộ đó được chuyển thành tài sản chung của 7 anh em. Trường hợp muốn để 1 người đứng tên làm chủ sở hữu thì cần phải sự đồng ý của tất cả 7 anh em, cùng kí tên chuyển nhượng.

 

- Trường hợp có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết thì sẽ áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết.

 

- Trường hợp rao bán căn hộ đó thì cần phải sự đồng ý của tất cả 7 anh em. Trường hợp có người không đồng ý thì theo quy định tại Điều 96 - Luật Nhà ở: Việc bán nhà ở thuộc sở hữu chung hợp nhất phải có sự đồng ý của tất cả các chủ sở hữu bằng văn bản.

 

+ Trường hợp có chủ sở hữu nhà ở thuộc sở hữu chung không đồng ý bán thì các chủ sở hữu nhà ở thuộc sở hữu chung khác có quyền làm đơn yêu cầu toà án giải quyết theo quy định của pháp luật. Các chủ sở hữu nhà ở thuộc sở hữu chung được quyền ưu tiên mua, nếu các chủ sở hữu nhà ở thuộc sở hữu chung không mua thì nhà ở đó được bán cho người khác.

 

+ Trong trường hợp có chủ sở hữu nhà ở thuộc sở hữu chung bán phần quyền sở hữu nhà ở của mình thì các chủ sở hữu nhà ở thuộc sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua; trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày nhận được thông báo về việc bán phần quyền sở hữu nhà ở và điều kiện bán mà không có chủ sở hữu nhà ở thuộc sở hữu chung nào mua thì phần quyền đó được bán cho người khác. Trong trường hợp vi phạm quyền ưu tiên mua thì xử lý theo quy định của pháp luật dân sự.

 

- Trường hợp có 1 người là con riêng thì theo quy định tại Điều 679 Bộ luật dân sự về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế thì: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định của pháp luật…”

 

Như vậy, người con riêng của vợ sẽ được chia di sản thừa kế của người cha dượng đã mất theo quy định trên.

Trân trọng




Hỗ trợ trực tuyến

ĐIỆN THOẠI GẶP LUẬT SƯ : 0972238006(zalo, viber, telegram)
Hỗ trợ trực tuyến:
0972238006
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Thừa kế là gì, di sản thừa kế là gì, cách xác định di sản thừa kế
THỦ TỤC CÔNG CHỨNG CHO THUÊ NHÀ ĐẤT
Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Công Ty
Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng
Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng
Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
luật sư ly hôn
Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng
Hợp Đồng Tặng Cho Tài Sản Nhà Đất
luật sư tư vấn thường xuyên cho doanh nghiệp
luat su rieng cho cong ty
luật sư doanh nghiệp
luat su nha dat
luật sư doanh nghiệp
luật sư trả lời đài truyền hình
luật sư trả lời báo chí
Trang chủ | Luật sư giải quyết thuận tình ly hôn tại tphcm | Luật sư chuyên đại diện ủy quyền ly hôn | Luật sư chuyên soạn thảo các loại hợp đồng | Luật sư ly hôn tại Tân Bình, Gò Vấp | Luật sư chuyên đại diện cho doanh nghiệp tại tòa án | Văn phòng luật sư tư vấn | Luật sư chuyên tranh chấp nhà đất với người nước ngoài | Luật sư chuyên tranh chấp nhà đất cho việt kiều tại sài gòn | Luật sư chuyên khởi kiện tranh chấp thừa kế | Luật sư chuyên khởi kiện thu hồi nợ | Luật sư chuyên làm giấy tờ nhà đất tại tphcm | Luật sư giỏi tại thành phố hồ chí minh | Dịch vụ sang tên sổ đỏ sổ hồng | Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng thuê nhà xưởng | Tư vấn người nước ngoài ly hôn với người việt nam | Luật sư giỏi về thừa kế tại tphcm | Luật sư tư vấn luật đất đai | Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị hại trong vụ án hình sự | Luật sư chuyên tư vấn chia tài sản sau khi ly hôn | Luật sư pháp chế doanh nghiệp | Phí thuê luật sư ly hôn tại tphcm | Tư vấn thủ tục nhận thừa kế nhà đất | Luật sư cho việt kiều và người nước ngoài | Luật sư giỏi chuyên tố tụng | Luật sư cho công ty tại quận 6, bình tân | Luật sư cho công ty tại quận 5, quận 11, quận 10 | Luật sư tư vấn kiện đòi nhà cho thuê | Luật sư chuyên nhà đất quận 9, quận 12 | Luật sư tư vấn cho cá nhân | Luật sư chuyên soạn thảo, review hợp đồng | Luật sư chuyên bào chữa các vụ án hình sự | Luật sư tại thành phố Thủ Đức | Luật sư tư vấn vu khống nói xấu xúc phạm danh dự trên facebook | Luật sư tư vấn soạn thảo văn bản, hợp đồng | Luật sư tư vấn soạn đơn khởi kiện | Luật sư hình sự tại thành phố hồ chí minh | Luật sư nhà đất tại thành phố thủ đức | Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội lây lan dịch bệnh | Luật sư giỏi chuyên về lao động | Việt kiều có được thừa kế nhà đất tại việt nam không? | Luật sư chuyên giải quyết tranh chấp mua bán nhà đất | Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng thuê nhà mùa covid | Luật sư tư vấn phân chia tài sản chung của vợ chồng | Luật sư tư vấn thu hồi công nợ | Luật sư chuyên giải quyết tranh chấp | Luật Sư Làm Ly Hôn Nhanh Tại Tphcm | Tư Vấn Kiện Đòi Lại Nhà Cho Ở Nhờ | Luật sư tư vấn kiện đòi nhà | Luật sư tư vấn mua bán nhà đất | Luật sư tư vấn hợp đồng vô hiệu | Tư vấn hợp đồng giả cách | Luật Sư Hòa Giải Tranh Chấp Đất Đai | Tư Vấn Tranh Chấp Ly Hôn | Luật Sư Chuyên Ly Hôn Nhanh Trọn Gói | Tư Vấn Chuyển Nhượng Cổ Phần Vốn Góp | Luật Sư Bảo Hộ Doanh Nghiệp | Luật Sư Giải Quyết Ly Hôn Nhanh Tại Tphcm | Tư Vấn Kiện Đòi Nợ | Luật Sư Tranh Chấp Nhà Ở | Luật Sư Chuyên Soạn Đơn Khởi Kiện Khiếu Nại | Luật sư tư vấn soạn đơn ly hôn | Luật Sư Tư Vấn Thành Lập Doanh Nghiệp | Luật Sư Tư Vấn Tại Công Ty | Luật Sư Chuyên Nhà Đất Tại Quận 6, Bình Tân, Bình Chánh | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Nuôi Con Khi Ly Hôn | Luật Sư Tư Vấn Cho Người Hoa Tại tphcm/Hoa Kiều | Luật Sư tư Vấn Đơn Phương Chấm Dứt Hợp Đồng Lao Động | Luật Sư Tư Vấn Cho Việt Kiều Úc, Mỹ, Canada | Luật Sư Tư Vấn Luật Thường Xuyên Cho Doanh Nghiệp | Công Chứng Khai Nhận Thừa Kế | Văn Phòng Luật Sư Tư Vấn Chia Tài Sản Khi Ly Hôn | Luật Sư Tư Vấn Bất Động Sản | Luật Sư Tư vấn Thừa Kế Tại Quận 6, Bình Tân | Luật Sư Tranh Chấp Kinh Doanh Thương Mại | Luật Sư Chuyên Đại Diện Ủy Quyền Tại Tòa Án | Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Tại Bình Tân | Luật Sư Ly Hôn Tại Quận 6 | Luật Sư Chuyên Ly Hôn Tại Bình Thạnh, Gò Vấp | Luật Sư Hình Sự Tại Biên Hòa | Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Tại Quận 10, Quận 11 | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Cố Phần Vốn Góp | Luật Sư Bảo Vệ Bào Chữa Tại Trung Tâm Trọng Tài | luật sư giỏi uy tín tại tphcm | Luật Sư tại Quận Tân Phú | Luật Sư Quận tại Phú Nhuận | Luật Sư tại Quận Gò Vấp | Dịch Vụ Hợp Thức Hóa Nhà Đất | Luật Sư Tư Vấn Thừa Kế Nhà Đất Cho Việt Kiều | Luật Sư Tư Vấn Cho Công Ty | Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Tại Bình Chánh | Luật Sư Chuyên Khởi Kiện Án Hành Chính | Luật Sư Tư Vấn Lấn Chiếm Đất | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Nhà Đất | Tư Vấn Cấp Sổ Đỏ, Sổ Hồng | Luật Sư Tư Vấn Phân Chia Thừa Kế | Luật Sư Tư Vấn Cho Công Ty Bất Động Sản | Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Đất Đai Tại Bình Chánh | Luật Sư Bào Chữa Hình Sự | Luật Sư Tư Vấn Ngoài Giờ | Tranh Chấp Thừa Kế Có Yếu Tố Nước Ngoài | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Đòi Lại Tài Sản | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Đứng Tên Dùm Nhà Đất | Luật sư chuyên tư vấn doanh nghiệp | luật sư chuyên thuận tình ly hôn cho việt kiều, người nước ngoài | Luật sư tư vấn đơn phương ly hôn với việt kiều | Tư vấn ly hôn chia tài sản với việt kiều | Luật sư tư vấn kháng cáo | Luật sư chuyên về tranh chấp đất đai tại tphcm | Luật sư cho ca sĩ, diễn viên | Tư vấn thay đổi trụ sở, giấy phép công ty | Luật sư tư vấn tranh chấp nhà thuộc sở hữu chung | Luật sư tư vấn lập di chúc | Luật sư giỏi về hình sự tại thành phố hồ chí minh | Luật sư giỏi về nhà đất tại tphcm | Luật sư giỏi di chúc thừa kế tại tphcm | Luật sư chuyên tranh chấp nhà chung cư | Luật sư giỏi về hình sự tại sài gòn | Luật sư chuyên tranh chấp hợp đồng góp vốn | Luật sư chuyên thừa kế di chúc | Luật sư chuyên tranh chấp vay tiền | Luật sư tư vấn luật đất đai | Kê khai thừa kế | tư vấn công chứng mua bán nhà đất | luật sư tư vấn thành lập công ty | luật sư chuyên tư vấn ly hôn chia tài sản | dịch vụ luật sư di sản thừa kế | Dịch vụ luật sư nhà đất tại TPHCM | luật sư tại quận 1 | luật sư tại quận 2 | luật sư tại quận 3 | luật sư tại quận 4 | luật sư tại quận 5 | Luật Sư Tại Quận 6 | luật sư tại quận 7 | luật sư tại quận 8 | luật sư tư vấn, bào chữa tội chống người thi hành công vụ | Luật sư tại quận 10 | Luật sư tại quận 11 | luật sư tại quận 12 | Luật sư tại quận bình thạnh | Luật sư tại huyện bình chánh | Luật sư huyện Nhà Bè | luật sư huyện hóc môn | Văn phòng Luật sư Nhà Đất | Luật sư huyện Cần Giờ | Văn phòng luật sư tại TPHCM | Luật Sư Tại Sài Gòn | luật sư việt nam | Luật sư Uy Tín | Luật sư Công Ty | luật sư tư vấn ly hôn tại thủ đức | Luật sư chuyên tranh chấp thừa kế | luật sư bào chữa tại tòa án | luật sư tại quận bình tân | Dịch thuật công chứng tại tphcm | luật sư giỏi và uy tín | luật sư tư vấn tại nhà | luật sư tư vấn hợp đồng mua bán nhà đất | mẫu hợp đồng mua bán nhà | mẫu hợp đồng đặt cọc mua bán nhà | luật sư chuyên hình sự | luật sư tư vấn thu hồi nợ | luật sư chuyên nhà đất | luật sư chuyên về khiếu nại, khởi kiện | luật sư giỏi về nhà đất | luật sư chuyên hợp đồng kinh tế | luật sư tư vấn hợp đồng mua bán hàng hóa | luật sư tư vấn tại bình dương | luật sư tại biên hòa đồng nai | Văn phòng luật sư tư vấn ly hôn | Luật Sư tư vấn tại Long An | Luật sư tư vấn tại cần thơ | Văn Phòng Luật Sư Chuyên Thừa Kế | Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn | Luật Sư Làm Chứng | Tư Vấn Công Chứng Nhà Đất | Luật Sư Tư Vấn Cho Người Nước Ngoài | Luật Sư Riêng Cho Công Ty | Luật Sư Tư Vấn Thừa Kế Nhà Đất | Luật Sư Tư Vấn Về Thuế Kế Toán | Tư Vấn Công Chứng Tại Nhà | Luật Sư Thừa Kế Tại Tphcm | Tư Vấn Luật Cho Việt Kiều Mỹ | Luật Sư Tư Vấn Cho Việt Kiều Mua Nhà Tại Việt Nam | Luật Sư Tại Thành Phố Hồ Chí Minh | Luật Sư Tư Vấn Luật Lao Động | Luật Sư Riêng Cho Các Công Ty Tại Sài Gòn | Luật Sư Quận Tân Bình | Luật Sư Cho Doanh Nghiệp | luật sư riêng cho các công ty | luật sư tư vấn thừa kế nhà đất cho việt kiều | luật sư riêng cho công ty nước ngoài tại việt nam | Đoàn luật sư tphcm - VPLS Gia Đình | Tư vấn chia tài sản khi ly hôn | luật sư tư vấn tranh chấp tại toà án | Luật sư tư vấn ly hôn có yếu tố nước ngoài | luật sư bào chữa tại tòa án tphcm | luật sư tại quận 1 | tin tức nóng | luật sư tại quận 3 | Luật sư tư vấn bảo hiểm nhân thọ | luật sư tại quận 5 | luật sư bào chữa tư vấn tội cưỡng đoạt tài sản | luật sư tại quận 7 | luật sư tại quận 8 | Luật sư chuyên tranh chấp nhà đất quận 9, quận 2 | luật sư tại quận 10 | luật sư tư vấn bào chữa tội tham ô | Thuê luật sư bào chữa hình sự | luật sư nhà đất thừa kế tại quận tân bình | luật sư thừa kế tại huyện bình chánh | luật sư chuyên thừa kế nhà đất tại quận bình tân | luật sư bào chữa tội làm con dấu, tài liệu, hồ sơ giả | luật sư chuyên thừa kế tại quận phú nhuận | luật sư bào chữa tư vấn tội cố ý gây thương tích | Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng xây dựng | Luật Sư Chuyên Về Di Chúc | luật sư giỏi về nhà đất tại quận bình thạnh | Tư vấn du học xin visa | Luật sư tranh chấp nhà đất | Luật sư tư vấn di chúc | Luật sư thừa kế nhà đất tại gò vấp | luật sư tranh tụng tại tòa án | luật sư tư vấn hợp đồng đặt cọc mua bán nhà đất | luật sư chuyên tư vấn hợp đồng thuê nhà | Văn Phòng Luật Sư Chuyên Hình Sự Tại Tphcm | Luật sư chuyên tranh chấp hợp đồng | Luật sư tranh chấp bất động sản | Văn phòng luật sư doanh nghiệp | Luật Sư Bào Chữa Tại TPHCM | Luật sư tư vấn hợp đồng vay tiền | Thủ tục tuyên bố 1 người tâm thần | Luật sư tư vấn tranh chấp công ty | luật sư tư vấn thu hồi nợ | luật sư tư vấn thuận tình ly hôn | luật sư tư vấn đơn phương ly hôn | Luật sư tư vấn tranh chấp đất đai | Dịch vụ luật sư làm sổ hồng sổ đỏ | Luật Sư Tố Tụng | Dịch Vụ Luật Sư Ly Hôn Nhanh | Luật sư tư vấn ly hôn tại quận 5, quận 11 | Luật Sư Tư Vấn Nghĩa Vụ Cấp Dưỡng | luật sư tư vấn thừa kế theo di chúc | Luật sư tư vấn phân chia thừa kế quận 6, quận 11, quận 10, quận 5 | Luật sư thừa kế tại quận 1, quận 2, quận 3, quận 4, quận 7 | Luật sư tư vấn phân chia thừa kế tại quận 8, quận 9, quận 12 | Luật sư phân chia thừa kế tại bình chánh, Tân Phú, Bình Thạnh, nhà bè | Luật Sư Cho Doanh Nghiệp | Luật Sư Chuyên Tư Vấn Thừa Kế Tại Quận 5 | Tổng đài tư vấn pháp luật hình sự, ly hôn, thừa kế, nhà đất, doanh nghiệp | Luật sư tư vấn bào chữa tội cá độ, đánh bạc, đá gà | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Mua Bán Nhà | Tư Vấn Công Chứng Thừa Kế | Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Kinh Doanh | Luật Sư Tư Vấn Soạn Thảo Hợp Đồng | Thừa Kế Nước Ngoài | Luật Sư Tư Vấn Đòi Lại Nhà Đất | Dịch Vụ Luật Sư Thu Hồi Nợ Khó Đòi | Luật sư tư vấn tranh chấp cổ đông công ty | Khởi Kiện Bồi Thường Danh Dự Nhân Phẩm | Luật Sư Tranh Chấp Thừa Kế Nhà Đất | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Nhà | Luật Sư Chuyên Tư Vấn Khởi Kiện | Luật Sư Hôn Nhân Gia Đình | Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng Góp Vốn | Tranh Chấp Tài Sản Chung Của Vợ Chồng | Luật Sư Giỏi Uy Tín Tại Việt Nam | Luật Sư Tại Sài Gòn Việt Nam Tư Vấn Cho Việt Kiều | Giải Quyết Tranh Chấp Bằng Trọng Tài | Dịch Vụ Thành Lập Công Ty Trọn Gói Tại Tphcm | Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Doanh Nghiệp | Tổng Đài Tư Vấn Pháp Luật | Luật Sư Tư Vấn Mua Nhà Đang Thế Chấp Ngân Hàng | Quyền Thừa Kế Nhà Đất Người Việt Nam Định Cư Ở Nước Ngoài | Luật Sư Tư Vấn Tặng Cho Nhà Đất | Luật Sư Tư Vấn Đứng Tên Dùm Nhà Đất Căn hộ Chung Cư | Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Cho Việt Kiều | Luật Sư Tư Vấn Mua Bán Căn hộ | Luật sư tư vấn Thỏa Thuận Tài Sản Của Vợ Chồng | Tư Vấn Pháp Luật Thừa Kế | Luật Sư Tư Vấn Trọn Gói Cho Doanh Nghiệp | Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Tại Bình Thạnh, Bình Tân, Quận 6, Gò Vấp | Luật Sư Sài Gòn Chuyên Bào Chữa Ở Miền Tây | Dịch Vụ Luật Sư Đòi Nợ | Luật Sư Tư Vấn Mua Đất Nền | Luật Sư Tư Vấn Đơn Phương Ly Hôn Tại Quận 6 | Luật Sư Giải Quyết Tranh Chấp Tài Sản Với Người Nước Ngoài | Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Đất | Tư vấn Thành Lập Chi Nhánh Văn Phòng Đại Diện | Luật Sư Tư Vấn Công Ty Cổ Phần | Luật Sư Chuyên Tư Vấn Khai Di Sản Thừa Kế | Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Thừa Kế Nhà Đất Tại Biên Hòa | Tranh Chấp Hợp Đồng Thuê Nhà | Điều Kiện Việt Kiều Mua Nhà Sài Gòn | Tư Vấn Bồi Thường Khi Bị Thu Hồi Đất | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Nội Bộ Doanh Nghiệp | Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Mua Bán Căn Hộ Chung Cư | Luật sư trên truyền hình và báo chí | Luật sư tư vấn đăng ký nhãn hiệu logo độc quyền | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Lao Động | Luật Sư Tư Tranh Chấp Mua Bán Đất Nền | Luật Sư Tại Chợ Lớn | Luật Sư Tư Vấn Về Án Phí | Tư Vấn Khởi Kiện Tranh Chấp Đất Đai | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Hợp Đồng Đặt Cọc | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Ranh Giới Đất | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Lối Đi Chung | Luật sư tư vấn giữ quốc tịch cho việt kiều | Luật sư tư vấn xác nhận nguồn gốc việt nam | Luật sư tư vấn thủ tục ly hôn cho việt kiều | Luật sư tư vấn thủ tục ly hôn tại sài gòn việt nam | Luật sư tư vấn kiện đòi nhà cho việt kiều | Dịch vụ luật sư nhà đất dành cho việt kiều | Luật sư tư vấn thủ tục ly hôn tại việt nam | Luật sư chuyên bào chữa cho bị can bị cáo | Luật sư tư vấn đơn phương ly hôn và thuận tình ly hôn | Cần Tìm Thuê Luật Sư Giỏi Tại Tphcm | Luật sư tư vấn ly hôn nhanh tại bình tân, quận 6 | Luật sư tư vấn luật thừa kế tại tphcm | Làm sao để dành được quyền nuôi con khi ly hôn | Luật sư tư vấn lập vi bằng | Luật sư tư vấn tố cáo vi phạm hình sự | Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng do bất khả kháng | Luật sư tư vấn ly hôn đơn phương | luật sư chuyên tư vấn đòi nợ | Luật sư chuyên tranh tụng hình sự | Luật sư tư vấn tranh chấp giáp ranh nhà đất | Luật sư tư vấn kiện hủy giấy chứng nhận sổ hồng sổ đỏ | Luật sư chuyên tư vấn bào chữa cho người bị hiếp dâm trẻ em | Luật sư chuyên tư vấn luật đất đai nhà ở | Luật sư tư vấn thời hiệu khởi kiện thừa kế | Luật sư tư vấn bào chữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản | Luật sư chuyên bào chữa hình sự tại tphcm | Luật sư chuyên về kinh tế | Luật sư chuyên tư vấn khởi kiện vụ án hành chính quyết định hành chính | Luật sư chuyên tư vấn kiện đòi đất | Luật sư giỏi chuyên về tranh chấp hợp đồng kinh tế thương mại kinh doanh | Luật sư tư vấn nhà đất | Luật sư tư vấn làm mới và gia hạn visa - Renew and extend visa | Luật sư tư vấn làm thẻ tạm trú – Renew/extend temporary residence | Luật sư tư vấn giấy phép lao động cho người nước ngoài/Working permit | Luật sư tư vân kết hôn với người nước ngoài | Luật sư chuyên bào chữa tội mua bán vận chuyển tàng trữ ma túy | Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng thuê nhà hàng, khách sạn, mặt bằng | Luật sư tư vấn tranh chấp ranh đất | Luật sư tư vấn luật hình sự | Luật sư tư vấn tại ngoại, bảo lãnh | Luật sư tư vấn qua điện thoại, online, trực tuyến | Luật sư tư vấn thừa kế do chết vì covid | Luật sư tư vấn hợp đồng nhà xưởng, văn phòng | Lawyer at Ho Chi Minh City, Viet nam | divorce lawyer at Ho Chi Minh City | Luật sư tư vấn thừa kế sổ tiết kiệm, tài sản | Luật sư tư vấn thừa kế cổ đông cổ phần vốn góp cổ phiếu trong công ty | Luật sư tư vấn thừa phát lại | Văn phòng luật sư tại quận 1 | Luật sư tư vấn ly hôn với người nước ngoài | Luật sư tư vấn tố cáo, khiếu nại | Luật sư tư vấn thừa kế nhà đất tại bình thạnh | Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội phạm công nghệ cao, mạng internet, facebook | Luật sư chuyên tư vấn mua bán đất dự án | Luật sư chuyên tư vấn mua bán nhà đất bằng tay | Luật sư chuyên bào chữa tội tham ô, hối lộ, lợi dụng chức vụ | Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội buôn lậu | Luật sư tư vấn bào chữa tội trốn thuế | Luật sư giỏi tại tphcm | Luật sư công giáo | Luật sư tư vấn làm đơn giám đốc thẩm | Luật sư giỏi chuyên đòi nhà đất | Luật sư chuyên tư vấn thi hành án | Luật sư tư vấn đòi lại tiền mua đất nền dự án | Luật sư chuyên tư vấn kiện đòi giấy chứng nhận, sổ đỏ, sổ hồng | Thế nào là tội cho vay nặng lãi | Luật sư giỏi chuyên bào chữa án ma túy | Tư vấn về hành vi ngoại tình vợ chồng | Luật sư tư vấn bào chữa về tai nạn giao thông | Luật sư tư vấn bào chữa về tội mua bán hàng cấm | Luật sư tư vấn tranh chấp tín dụng ngân hàng | Luật sư tư vấn hợp đồng hợp tác kinh doanh | Luật sư tư vấn kiện thẩm mỹ viện | Luật sư chuyên tư vấn mua bán doanh nghiệp | Luật sư tư vấn bào chữa tội mua bán ma túy | Luật sư tư vấn hộ kinh doanh cá thể | Luật sư chuyên tư vấn bào chữa về tiền bitcoin | Luật sư chuyên tư vấn ủy quyền | Các án lệ | Luật sư chuyên tư vấn đầu tư nước ngoài | Luật sư giỏi chuyên bào chữa án kinh tế | Luật sư tư vấn bào chữa khi bị bắt | Luật sư giỏi chuyên tư vấn bào chữa tại đà nẵng | Tư vấn đòi nhà đất đứng tên dùm | Luật sư giỏi tại long thành đồng nai | Luật sư chuyên giải quyết các loại tranh chấp | Làm sao để được án treo? | Luật sư tư vấn đòi nợ cho công ty | luật sư tư vấn hoàn công, giấy phép xây dựng | Luật sư tư vấn bào chữa tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy | Luật sư nhận ủy quyền đại diện | Tư vấn bào chữa để được án treo tại ngoại | Luật sư tư vấn kiện thừa kế cho việt kiều | Luật sư chuyên bào chữa tội phạm kinh tế | Luật sư tư vấn ủy quyền cho việt kiều bên nước ngoài | Có cần mời luật khi bị bắt không? | Luật sư giỏi chuyên bào chữa tội lừa đảo | Luật sư giỏi chuyên tư vấn luật giao thông? | Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội buôn bán thuốc lá | Luật sư tư vấn hình phạt tử hình | Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội mua bán hàng giả hàng nhái | Luật sư giỏi chuyên về án dân sự tại tphcm | Luật sư chuyên tư vấn lừa đảo qua mạng | Luật sư chuyên tư vấn luật lao động cho công ty | Luật sư tư vấn bào chữa tội mua bán hóa đơn trái phép | Luật sư tư vấn bào chữa làm sao để được giảm án? | Luật sư chuyên tư vấn tranh chấp mua bán hàng hóa | Luật sư tư vấn bào chữa cho người nước ngoài | Luật sư tư vấn bào chữa tội mua bán pháo lậu | Luật sư tư vấn đòi tiền nhà cho thuê | Luật sư chuyên tư vấn khởi kiện tranh chấp nhà đất cho việt kiều | Luật sư chuyên về dân sự tại thành phố hồ chí minh | Luật sư tư vấn bào chữa tội lợi dụng quyền tự do dân chủ | Luật sư chuyên tư vấn bào chữa đánh bài bạc online trên mạng | Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự | Giới thiệu | VIDEO LS TRẦN MINH HÙNG TƯ VẤN LUẬT TRÊN TRUYỀN HÌNH | Luật Sư tư vấn bào chữa tội giết người | Luật Sư Thừa kế | Thành Công Đạt Được | Luật Sư Riêng Cho Gia Đình Và Doanh Nghiệp | Báo Chí Và Chúng Tôi | Luật Sư Doanh Nghiệp | Luật Sư Nhà Đất | Luật Sư Di Trú | Luật sư Dân sự | Luật Sư Hình Sự | Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn | Luật Sư Tranh Tụng | Luật sư tư vấn luật lao động | Văn phòng luật sư tư vấn cho việt kiều | Luật sư Chuyên Kinh Tế | Luật Sư Giỏi Về Hình Sự | Luật Sư Tư Vấn Thừa Kế Nhà Đất | Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Doanh Nghiệp | Luật Sư Thi Hành Án | Luật Sư Tư Vấn Miễn Phí | Dịch Thuật Công Chứng | Luật Sư Riêng Cho Công Ty Nước Ngoài | Luật Sư Tư Vấn | Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng | Luật Sư Công Nợ | Luật Sư Chuyên Tranh Tụng Tại Tphcm | Luật Sư bào chữa tư vấn tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản | Luật Sư Kinh Nghiệm | Hỏi đáp pháp luật | Văn bản pháp luật | Liên Hệ

  ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - VĂN PHÒNG LUẬT SƯ GIA ĐÌNH

Chúng tôi tư vấn cho tất cả các khách hàng tại quận 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, tân bình, phú nhuận, Bình Thạnh, bình tân, tân phú, bình chánh, Thủ Đức... và các tỉnh trong cả nước. Chúng tôi tư vấn tận nhà, tận công ty nếu quý khách có nhu cầu thì liên hệ các luật sư gần nhất địa điểm quý vị đang sinh sống.

Liên hệ gặp luật sư: 

Văn phòng quận 6: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Quận 6, TP.HCM

(bên cạnh Phòng công chứng số 7).

Văn phòng quận 1: 68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TPHCM

Văn phòng Biên Hòa: 5/1 Nguyễn Du, Quang Vinh,

Biên Hoà, Đồng Nai.


Luật Sư Trần Minh Hùng, Trưởng văn phòng, điện thoại: 0972238006 (zalo-viber)- 028.38779958

Để thuận tiện cho quý vị muốn gặp trực tiếp luật sư, vui lòng điện thoại trước cho luật sư khi quý vị đến văn phòng chúng tôi. 

Trân trọng cảm ơn.




Email: vanphongluatsugiadinh@gmail.com
http://www.luatsugiadinh.net.vn
Giấy phép số: 41.01.1999/TP/ĐKHĐ do Sở tư pháp Tphcm cấp 03/06/2013, chủ sở hữu website: Trần Minh Hùng