Sự tham gia của luật sư trong tố tụng không chỉ giúp bị can, bị cáo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mà còn góp phần trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, giúp việc điều tra, truy tố và xét xử được nhanh chóng, chính xác, tránh làm oan người vô tội, để lọt tội phạm. Tuy nhiên vị trí, vai trò của luật sư chưa được nhìn nhận đúng và chưa thực sự bảo đảm theo yêu cầu của pháp luật. Theo quy định của pháp luật, luật sư có thể tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, thậm chí còn sớm hơn là từ khi có quyết định tạm giữ. Nhưng trên thực tế tỉ lệ các vụ án luật sư được tham gia từ giai đoạn điều tra còn quá thấp so với tổng số vụ án hình sự bị khởi tố, trong đó có cả những vụ án theo quy định của pháp luật sự tham gia của luật sư là bắt buộc theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Về vấn đề này có nhiều nguyên nhân, là do bị can không biết mình có quyền mời luật sư hoặc biết nhưng vì có khó khăn về tài chính nên không thể thuê luật sư. Bên cạnh đó còn có một nguyên nhân là do cơ quan tố tụng chưa tạo điều kiện để luật sư thực hiện đầy đủ chức năng tố tụng của mình, một số điều tra viên chưa ủng hộ việc luật sư được tham gia từ giai đoạn điều tra. Trong một số trường hợp sự không ủng hộ này được thể hiện bằng cách khuyên bị can không nên mời luật sư mà tốt nhất là khai báo trung thực để được hưởng khoan hồng. Đối với bị can kém hiểu biết pháp luật, lại ở trong tình trạng tạm giam, do vậy tâm lý bất ổn, lo lắng, vì vậy thường nghe theo lời khuyên nói trên là điều thường có thể xảy ra. Trong trường hợp bị can từ chối luật sư, nhưng khi luật sư đề nghị được xem văn bản từ chối luật sư của bị can thì điều tra viên lấy lý do là luật sư chưa được cấp giấy chứng nhận là người bào chữa cho nên không được xem văn bản từ chối luật sư của bị can. Rất khó xác định được việc từ chối luật sư của bị can có phải xuất phát từ ý chí của bị can hay từ sức ép nào đó. Trong trường hợp này cơ quan điều tra phải tạo điều kiện để bị can được tiếp xúc với luật sư, còn quyền từ chối luật sư của bị can có thể thực hiện ở bất cứ giai đoạn nào của tố tụng. Việc gặp gỡ với luật sư không làm mất đi quyền từ chối luật sư của bị can, nó chỉ giúp cho bị can nhận thức đúng hơn về vai trò của luật sư cũng như sáng suốt hơn trong việc lựa chọn người bào chữa cho mình.
Sự tham gia của luật sư ở giai đoạn điều tra không chỉ mở rộng những nguyên tắc dân chủ trong tố tụng hình sự mà còn nâng cao chất lượng điều tra, tăng cường pháp chế trong giai đoạn điều tra. Việc bào chữa kiên định, dũng cảm trong vụ án hình sự không những không cản trở mà còn thúc đẩy cuộc đấu tranh chống tội phạm, giúp khắc phục những sai lầm trong việc xử lý vụ án. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác bằng những phương tiện hợp pháp luật sư thể hiện vai trò của mình trong việc bảo vệ quyền công dân, góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam. Vì vậy cần có nhận thức đúng về vị trí, vai trò của luật sư trong tố tụng nói riêng và trong xã hội nói chung. Nhận thức đó phải được quán triệt trong các cơ quan nhà nước, đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng và mọi người dân.
Theo quy định của Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự, luật sư có thể tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người thì luật sư có thể tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Nhưng trên thực tế đa phần luật sư chỉ đến được cánh cửa phòng trực ban của cơ quan điều tra để gửi giấy tờ làm thủ tục chờ được tham gia mà thôi với nhiều lý do khác nhau như cán bộ giải quyết vụ án bận, luật sư thiếu giấy tờ cần bổ sung (dù pháp luật không yêu cầu các giấy tờ đó), thủ trưởng cơ quan đi vắng, chờ cán bộ vào trại gặp hỏi ý kiến bị can có cần có luật sư không. Mặc dù việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa đã được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Luật sư và các văn bản có liên quan, tuy nhiên do nhận thức khác nhau về vấn đề này do vậy luật sư đã gặp không ít khó khăn khi tham gia tố tụng, nhất là trong giai đoạn điều tra vụ án .
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã mở rộng quyền của luật sư trong việc tham gia tố tụng như có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, hỏi cung bị can, được gặp bị can, bị cáo, thu thập và xuất trình tài liệu, đồ vật, nghiên cứu hồ sơ vụ án...Tuy nhiên không phải lúc nào, nơi nào luật sư cũng được tạo điều kiện để thực hiện các quyền của mình đã được pháp luật quy định.
Trong giai đoạn điều tra luật sư có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu được điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can. Việc có mặt luạt sư trong các buổi lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can không những giúp cho họ tự tin hơn trong khai báo mà còn ngăn ngừa sự vi phạm từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, tránh tình trạng khi ra toà có sự phản cung, khiếu nại về việc dùng nhục hình, bức cung, mớm cung...Trên thực tế việc luật sư tham gia các hoạt động hỏi cung gặp không ít khó khăn. Thường thì cơ quan điều tra không báo thời gian hỏi cung hoặc đã hẹn ngày nhưng sau đó lại hoãn đôi khi lại hoãn nhiều lần.Nếu may mắn được tham dự việc hỏi cung thì chỉ được ngồi nghe mà không được hỏi vì điều tra viên không dành thời gian để luật sư hỏi bị can.
Để tạo thuận lợi cho luật sư trong việc bào chữa, Bộ luật Tố tụng hình sự còn quy định luật sư có quyền gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Trên thực tế việc luật sư gặp bị can, bị cáo gặp rất nhiều khó khăn, đòi hỏi phải xuất trình nhiều giấy tờ, thủ tục phiền hà. Còn việc gặp người bị tạm giữ chỉ là ước mơ mà thôi. Trong trường hợp được gặp bị can, bị cáo thì việc gặp đó đều có sự giám sát của điều tra viên hoặc cán bộ trại giam, thời gian và số lần gặp đều bị hạn chế. Việc gặp gỡ của luật sư với bị can, bị cáo là cần thiết, phải bảo đảm cho luật sư được gặp riêng bị can, bị cáo để trao đổi về những vấn đề có liên quan đến việc bào chữa. Không được có bất kỳ sự can thiệp, cản trở nào từ phía cơ quan điều tra, cơ quan quản lý trại tạm giam. Việc gặp gỡ đó không bị hạn chế về số lượng và thời gian gặp. Để tạo điều kiện cho luật sư được gặp riêng bị can, bị cáo thì việc giám sát đó chỉ trong "tầm nhìn" chứ không trong "tầm nghe".
Luật sư luôn đóng vai trò chính trong việc làm sáng tỏ hầu hết các vụ án oan, sai. Những chuyên gia pháp lý với lòng yêu nghề, sự dũng cảm và tôn chỉ bảo vệ công lý đã đấu tranh bền bỉ, “mưu trí” để chỉ ra những chứng cứ ngụy tạo, các vi phạm tố tụng nghiêm trọng, sự thật được làm sáng tỏ, bảo đảm công lý được thực thi. Nhưng có thể thấy vai trò của luật sư trong các vụ án oan, sai đều ở thời điểm mà người bị oan đang phải “chấp hành án”, có nghĩa những giai đoạn đầu của tố tụng, luật sư chưa thực sự được nhìn nhận và tôn trọng tương xứng với vai trò là “người chiến sĩ dấn thân vì công lý” cũng như trong việc phòng, chống án oan, sai.
Nguyên nhân dẫn đến những vụ án oan, sai đó là:
- Do năng lực, trình độ của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán còn hạn chế; có biểu hiện bệnh thành tích, nôn nóng trong giải quyết vụ án, tin tưởng hoàn toàn vào lời nhận tội của bị can, bị cáo; việc thu thập, đánh giá chứng cứ chưa thật đầy đủ, khách quan, toàn diện, từ đó có thái độ đối xử với người bị bắt, bị can, bị cáo như là người có tội..., nên tình trạng ép cung, bức cung trong giai đoạn khởi tố, điều tra của điều tra viên với người bị tạm giam, bị can vẫn còn diễn ra. Công tác kiểm sát quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án chưa theo sát diễn biến vụ việc, thiếu kiểm tra các “tình tiết phạm tội” trong vụ án hình sự, các chi tiết trong án dân sự dẫn đến hiện tượng chỉ dựa vào kết luận điều tra để truy tố. Trong xét xử vẫn chủ yếu dựa vào hồ sơ nên hình thành “án tại hồ sơ” mà ngại “lật giở” lại các tình tiết, nội dung của vụ án. Việc ra các quyết định thi hành án còn vi phạm về thời gian, ra quyết định không đúng, không đủ các nội dung trong quyết định, bản án của tòa án;
- Việc giám định trong quá trình tố tụng còn “yếu và thiếu”, giám định lĩnh vực xây dựng còn gặp nhiều khó khăn về kinh phí thuê mướn nhân công, thuê và vận chuyển máy móc thiết bị chuyên dùng đến nơi giám định. Việc giám định trong lĩnh vực tài chính rất chậm, kéo dài do lựa chọn phương pháp, cách thức, khối lượng công việc lớn, quá khả năng của tổ chức giám định, do vậy nhiều vụ án phải tạm đình chỉ điều tra hoặc thay đổi biện pháp ngăn chặn do chưa có kết luận giám định, chất lượng giám định trong một số trường hợp chưa bảo đảm, còn chung chung. Người giám định trong nhiều trường hợp không hợp tác, “né tránh” việc tham gia tố tụng vì ngại giải thích, trình bày trước tòa, nhất là án tham nhũng, án kinh tế, gây khó khăn về căn cứ trong quá trình tranh tụng, làm sáng tỏ vụ việc[2].
- Pháp luật tố tụng còn thiếu quy định cụ thể về căn cứ, cách thức trưng cầu để bảo đảm sự độc lập, khách quan và hiệu quả của hoạt động tố tụng và hoạt động giám định; cơ chế xem xét, đánh giá và sử dụng kết luận giám định trong hoạt động tố tụng với tư cách là một loại chứng cứ đặc biệt trong hoạt động tố tụng, những trường hợp bắt buộc người giám định tư pháp phải có mặt tham dự phiên tòa để trình bày và bảo vệ kết quả giám định chưa được quy định cụ thể thành điều luật. Các quy định về bắt và tạm giữ vẫn còn nghiêng về “cưỡng chế” vì người bị tạm giữ phải được biết lý do mình bị tạm giữ, được giải thích về quyền và nghĩa vụ, trình bày lời khai, khiếu nại việc tạm giữ. Người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai, được hỏi và thu thập chứng cứ từ người tạm giữ, bị can (quyền bào chữa có từ khi người bị tình nghi phạm tội). Tuy nhiên, trong thực tế các quy định này không có hiệu quả một phần là do rào cản từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, một phần do vai trò luật sư chưa được thực hiện đầy đủ theo quy định của pháp luật.
- Vai trò của luật sư trong từng giai đoạn của vụ án chưa thể hiện tính quyết liệt, một phần do rào cản từ cơ quan tiến hành tố tụng như gặp bị can, bị cáo trong vụ án hình sự, dự hỏi cung, đối chất, thực nghiệm điều tra thường không thường xuyên đầy đủ và kịp thời, một phần do trách nhiệm và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của một số luật sư còn hạn chế. Đặc biệt trong các vụ án dân sự, luật sư có quyền chủ động gặp khách hàng để tìm hiểu, trao đổi, thu thập chứng cứ song kết quả không được là bao, vẫn còn biểu hiệu ngại “va chạm” với cơ quan tiến hành tố tụng nên kết quả có án oan, án sai là tất yếu bên cạnh các nguyên nhân đã được đề cập ở trên. Án oan, sai là một sâu chuỗi của hệ quả các giai đoạn từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trong tố tụng, giám sát việc điều tra, xét xử, kết quả của việc bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ quyền và lợi ích của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, pháp nhân chưa được đảm bảo. Vai trò của luật sư trong việc đi tìm chứng cứ, tính phản biện xã hội, tranh tụng còn hạn chế, những kiến nghị giúp người bị tình nghi phạm tội kháng cáo chưa “sắc bén”, đặc biệt là phát hiện sớm những dấu hiệu, tình tiết oan, sai còn hạn chế, chưa khẳng định rõ tính khách quan, toàn diện và sự thật của từng vụ án, kết quả tranh tụng chưa cao, mục đích bảo vệ công lý chưa được bảo đảm. |