Luật sư gia đình
Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....
                                   LS TRẦN MINH HÙNG - Trưởng Hãng Luật Gia Đình
 
 
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật sư chuyên tư vấn pháp luật thừa kế tại quận bình tân
Một Việt kiều khởi kiện cháu trai ra Tòa vì không đòi được đất nhờ đứng tên
 Quy định chung khi lập di chúc thừa kế
Luật sư chuyên tư vấn pháp luật thừa kế tại quận bình tân
TRANH CHẤP THỪA KẾ CÓ NGƯỜI NƯỚC NGOÀI
Những rủi ro pháp lý doanh nghiệp thường gặp
Luật sư chuyên về kinh tế
Thừa kế là gì, di sản thừa kế là gì, cách xác định di sản thừa kế
Luật sư giỏi chuyên tranh tụng tại tòa án
Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Công Ty
Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng
Luật sư giỏi chuyên tranh tụng tại tòa án
Luật sư giỏi chuyên tranh tụng tại tòa án
Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Công Ty
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Công Ty
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật sư giỏi chuyên tranh tụng tại tòa án
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Tranh Tụng Tại Tphcm
luật sư tư vấn nhà đất
Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Công Ty
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Tư Vấn Kỹ Năng Tranh Chấp Kinh Doanh Thương Mại
luật sư nhà đất
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Công Ty
luật sư chuyên nhà đất tại tphcm
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
luật sư nhà đất
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Hãng Luật Uy Tín Về Nhà Đất Thừa Kế Tại Việt Nam
luật sư doanh nghiệp
Luật Sư Hôn Nhân Gia Đình
luật sư nhà đất
luật sư tư vấn
luật sư doanh nghiệp
Luật Sư Hôn Nhân Gia Đình
Luật Sư Hôn Nhân Gia Đình
luật sư doanh nghiệp
luật sư doanh nghiệp
luật sư thừa kế
luật sư doanh nghiệp
luat su nha dat
luật sư tư vấn chia tài sản khi ly hôn
luật sư thừa kế
luat su nha dat
luật sư chuyên tư vấn chia thừa kế
luật sư ly hôn
luật sư doanh nghiệp
luat su tu van ly hon
luật sư nhà đất
luat su nha dat
luật sư chuyên tư vấn chia thừa kế
luật sư trả lời báo chí
luật sư nhà đất
luật sư riêng cho công ty
luật sư tư vấn tại tphcm
luật sư bào chữa tại tòa về kinh tế
luật sư doanh nghiệp
luật sư nhà đất
luật sư riêng
hình báo
ls
kinh tế
tranh tụng
nhà đất
hình tu van tại nhà
luật sư nhà đất
hung1
hinh luat su
luat su
luat su
luat su
Hình 1
Hình 2
Hình 3

HOẠT ĐỘNG LUẬT SƯ

Luật sư tư vấn tranh chấp thừa kế tại tphcm
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Công Ty
luật sư thừa kế
Luật sư giỏi chuyên tranh tụng tại tòa án
Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn
luật sư công ty
luật sư thừa kế nhà đất
Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Hợp Đồng
luật sư chuyên tư vấn chia thừa kế
luật sư nhà đất thừa kế ly hôn doanh nghiệp
luật sư tư vấn ly hôn
luật sư nhà đất
luật sư thừa kế
ls
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy quyết định cá biệt

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy quyết định cá biệt số 28/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 28/2023/DS-PT NGÀY 17/02/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ YÊU CẦU HỦY QUYẾT ĐỊNH CÁ BIỆT

Ngày 17 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 223 /2022/TLPT- DS ngày 14 tháng 11 năm 2022 về việc“Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 02/2022/DS-STngày 30 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 535/2022/QĐ-PT ngày 30 tháng 01 năm 2023; giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông A B (tên gọi khác: Thao B), sinh năm 1951; Địa chỉ:

tn M, xã N huyện N, tỉnh Kon Tum; có mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của ông A B: Chị Y Lệ, sinh năm 1983; địa chỉ: Thôn M, xã N huyện N, tỉnh Kon Tum; có mặt.

2. Bị đơn: Bà Đỗ Thị H, sinh năm 1962; địa chỉ: Thôn D, xã N huyện N, tỉnh Kon Tum.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Đỗ Thị H: Anh Phạm Ngọc Q, sinh năm 1982; địa chỉ: tỉnh Gia Lai; có mặt.

3.Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Ông A X, sinh năm 1951; địa chỉ: thôn M, xã N huyện N, tỉnh Kon Tum. (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

3.2. Ông Hoàng Văn Đ, sinh năm 1963; địa chỉ: thôn D, xã N huyện N, tỉnh Kon Tum. Người đại diện theo ủy quyền của ông Hoàng Văn Đ: Anh Phạm Ngọc Q, sinh năm 1982; Địa chỉ: tỉnh Gia Lai; (có mặt)

3.3. Bà Y L, sinh năm 1958; địa chỉ: thôn M, xã N huyện N, tỉnh Kon Tum. (Có đơn xin xét xử vắng mặt); Người đại diện theo ủy quyền của bà Y L: Chị Y Lệ, sinh năm 1983; địa chỉ: thôn M, xã N huyện N, tỉnh Kon Tum; có mặt.

3.4. Ủy ban nhân dân huyện N, tỉnh Kon Tum; địa chỉ: huyện N, tỉnh Kon Tum. Người đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Thanh H, Phó trưởng phòng Tài nguyên - Môi trường huyện N, có đơn xin xét xử vắng mặt.

4. Người kháng cáo: Bà Đỗ Thị H, có người đại diện theo ủy quyền là anh Phạm Ngọc Q ; địa chỉ: tỉnh Gia Lai; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1] Theo Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắc theo trình bày của các đương sự như sau:

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 08/10/2020 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:

Năm 1975, gia đình ông A B khai hoang một mảnh đất nằm trên đường quốc lộ 40 thuộc thôn M, xã N huyện N, tỉnh Kon Tum, sử dụng để làm ao nuôi cá. Năm 2000, khi chính quyền xã Pờ Y và huyện N tiến hành rà soát, đo đạc để xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cá nhân, hộ gia đình có đất tại thôn M, vợ chồng ông bà đề nghị đo đạc phần đất đã khai hoang nhưng Cán bộ nói đất của vợ chồng ông bà là đất ao hồ không cần phải đo đạc, kê khai mà họ chỉ đo đạc đối với đất ở và đất vườn nên tổng diện tích đã khai hoang là bao nhiêu thì ông không biết. Đến năm 2006, Nhà nước có dự án mở rộng quốc lộ 40 nên gia đình ông đã bị thu hồi một phần đất trên mảnh đất này để làm đường, đồng thời gia đình ông được đền bù theo quy định; còn phần đất còn lại (có hố bom) gia đình ông đã đổ đất, san lấp mặt bằng và để không. Đến năm 2015, khi gia đình ông A B làm móng nhà trên phần đất còn lại này thì bị bà Đỗ Thị H ngăn cản không cho làm và nói đây là đất của bà. Qua tìm hiểu, ông A B mới biết vào năm 2000 lợi dụng lúc gia đình ông đi vắng, bà H đã gọi cán bộ địa chính xuống đo đạc, kê khai làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà, nhưng đã đo đạt và kê khai luôn phần đất của của ông nói trên vào với thửa đất của bà. Sau đó, UBND huyện N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 922718 ngày 25/10/2000 cho hộ bà Đỗ Thị H, trong đó có diện tích đất của gia đình ông.

Ông A B yêu cầu Tòa án buộc bà Đỗ Thị H trả lại diện tích đất 160m(tứ cận cụ thể theo sơ đồ kèm theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ) và yêu cầu Tòa án hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 922718 do UBND huyện N cấp ngày 25/10/2000 cho hộ bà Đỗ Thị H liên quan đến diện tích đất tranh chấp.

- Bị đơn và người đại diện hợp pháp của bị đơn trình bày:

Năm 1999, vợ chồng bà Đỗ Thị H, ông Hoàng Văn Đ nhận chuyển nhượng từ ông A X một thửa đất có diện tích khoảng hơn 02 sào (rộng 32m, dài 65m) tại thôn M, xã N huyện N, tỉnh Kon Tum. Khi nhận chuyển nhượng thì đất chưa được cấp Giấy chứng nhận nên vợ chồng ông bà và ông A X chỉ viết giấy tay (theo Giấy biên nhận tiền bán đất thổ cư ngày 17/12/1999). Sau khi nhận đất, gia đình bà H, ông Đ đã sử dụng ổn định, không tranh chấp với ai nên đến ngày 25/10/2000 thì được UBND huyện N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R922718 đối với thửa đất số 03, tờ bản đồ số 10, diện tích 2040m(400mthổ cư và 1640mđt kinh tế vườn). Hộ gia đình bà Đỗ Thị H tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gồm vợ chồng bà H, ông Đ và 03 người con là chị Hoàng Thị L, anh Hoàng Ngọc D, chị Hoàng Thị H.Sau khi được cấp Giấy chứng nhận, gia đình bà đã cho ông Nguyễn Văn C mượn một phần đất để trồng mì và làm nhà ở tạm một thời gian. Tuy nhiên, lợi dụng lúc gia đình bà không để ý, ông C đã xây dựng 01 căn nhà cấp 4 diện tích khoảng 125mtrên phần đất đã mượn. Phần đất còn lại thì gia đình bà đã trồng một số cây lâu năm và để đất trống. Vợ chồng ông bà không kê khai phần đất của ông A B và UBND huyện N đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Đỗ Thị H là đúng quy định pháp luật. Bà Đỗ Thị H không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, vì các lý do sau:

Thứ nhất: Diện tích đất ông A B khai hoang còn lại không nằm trong phần đất mà hộ bà Đỗ Thị H đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Tại Biên bản làm việc về việc giải quyết đơn kiến nghị của UBND xã Pờ Y ngày 13/8/2013, ông A B trình bày trước đây có khai hoang mảnh đất làm ao nuôi cá diện tích 250m2 có tứ cận: phía đông giáp đất ông A X, phía tây giáp đất ông Thao L và ông Hoàng Văn T, phía nam giáp quốc lộ 40, phía bắc giáp đất ông A X. Đại diện UBND xã Pờ Y và các bên tranh chấp đã đến thực địa tranh chấp và xác định phần đất tranh chấp như sau: chiều ngang mặt đường 11,5m, chiều sâu 9,5m, tổng diện tích 109,25m2. Căn cứ vào hồ sơ quản lý, phần đất bà Đỗ Thị H được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tính từ tim đường Quốc lộ 40 vào 25m. Biên bản trên đã kết luận “Hai bên tranh chấp công nhận phần đất tranh chấp mà ông B khiếu nại nằm trong phần đất lưu không của lộ giới quốc lộ 40, không ai được phép sử dụng. Nếu sử dụng là vi phạm pháp luật về đất đai với hành vi lấn chiếm đất công”. Biên bản đã được thông qua, ông A B và bà Đỗ Thị H cùng ký và có xác nhận của UBND xã Pờ Y.

Thứ hai, bị đơn được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng quy định pháp luật. Nguồn gốc đất do vợ chồng bà H nhận chuyển nhượng từ ông A X năm 1999, được thể hiện tại Giấy cam kết chuyển nhượng và Giấy biên nhận tiền bán đất cùng đề ngày 17/12/1999.Theo công văn số 1378/UBND-PTNMT ngày 11/5/2021 của UBND huyện N trả lời Tòa án đã thể hiện việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Đỗ Thị H là đúng quy định pháp luật.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông A X trình bày:

Ông là người sinh sống lâu năm ở thôn M, xã N huyện N, tỉnh Kon Tum. Cùng thời gian vợ chồng ông A B, bà Y L khai hoang phần đất đang tranh chấp hiện nay thì ông cũng có khai hoang một lô đất giáp ranh với ông A B nên biết rất rõ quá trình khai hoang và sử dụng đất của vợ chồng ông A B. Ông khẳng định diện tích đất tranh chấp là do vợ A B khai hoang từ những năm 1975-1976 và được vợ chồng ông A B sử dụng ổn định từ trước đến nay. Diện tích đất tranh chấp là của vợ chồng ông A B nên không có việc ông A X bán diện tích đất tranh chấp cho vợ chồng bà Đỗ Thi H. Năm 1999, ông có chuyển nhượng cho vợ chồng bà H diện tích đất khác có chiều ngang giáp quốc lộ 40 là 10m, chiều sâu 50m. Từ trước đến nay, gia đình bà H không sử dụng diện tích đất tranh chấp. Hiện xung quanh lô đất ông A B đã trồng các trụ bê tông, phần phía trước giáp đường đã xây 01 móng nhà.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Y L trình bày:

Bà là vợ của ông A B. Bà thống nhất với toàn bộ lời trình bày và yêu cầu khởi kiện của ông A B.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Hoàng Văn Đ trình bày:

Ông là chồng bà Đỗ Thị H. Ông nhất trí với toàn bộ lời trình bày của bà Đỗ Thị H và không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông A B.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND huyện N trình bày:

Năm 2000, thực hiện Chỉ thị số 18/1999/CT-TTg ngày 01/7/1999 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp đẩy mạnh việc hoàn thành cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất ở nông thôn vào năm 2000; Quyết định số 151/QĐ-ĐC ngày 24/6/2000 của Sở địa chính về việc phê duyệt phương án đo đạc bản đổ, đăng ký thống kê đất đai, lập hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở khu dân cư nông thôn các xã thuộc huyện N. Theo đó, Phòng địa chính (nay là Phòng Tài nguyên và Môi trường) huyện N đã tiến hành hợp đồng với Đội đo đạc – ĐTQH thuộc Sở địa chính tỉnh (nay là Sở Tài nguyên và Môi trường) thực hiện việc đo đạc, lập hồ sơ địa chính, đăng ký thống kê cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở nông thôn trên địa bàn xã Pờ Y.

Sau khi hoàn thành hồ sơ địa chính, Hội đồng đăng ký đất đai xã Pờ Y tiến hành xét duyệt cho 609 hộ gia đình, cá nhân với tổng diện tích 868.060m(đất thổ cư 235.715m2, đất vườn 632.345m2), trong đó có hộ bà Đỗ Thị H.

Ngày 19/10/2000, UBND xã Pờ Y có tờ trình số 10/TT-UB về việc xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở nông thôn cho 609 hộ gia đình, cá nhân với tổng diện tích 868.060m(đất thổ cư 235.715m2, đất vườn 632.345m2). UBND huyện đã ban hành Quyết định số 10/QĐ-UB ngày 25/10/2000 về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Qua kiểm tra hồ sơ, hộ bà Đỗ Thị H được UBND huyện N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất số 03, tờ bản đồ số 10 với diện tích 2040m(thổ cư 400m2, vườn 1640m2). Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Đỗ Thị H vào năm 2000 là đúng quy định pháp luật.

- Người làm chứng anh Thao Thành trình bày: Din tích đất tranh chấp do vợ chồng ông A B khai hoang. Tại thời điểm ông A B khai hoang có rất nhiều người, nhiều gia đình cùng khai hoang khu đất thuộc thôn M hiện nay, sau đó họ tự chia nhau và sử dụng đất. Sau khi khai hoang, anh thấy vợ chồng ông A B sử dụng đất cho đến nay. Thời gian đầu ông bà sử dụng đất để làm ao nuôi cá. Đến năm 2006 khi nhà nước tiến hành làm đường quốc lộ 40 thì ông A B thuê người đổ đất lấp ao cá rồi để đất trống. Một thời gian sau, anh thấy vợ chồng ông A B đào móng để xây nhà thì bà H đến tranh chấp và cho rằng đất đó của gia đình bà H. Anh chưa từng thấy bà H canh tác, sử dụng phần đất tranh chấp. Anh Thao Thành biết rõ nguồn gốc, quá trình sử dụng diện tích đất tranh chấp vì anh sinh sống ở thôn M và ở gần khu đất tranh chấp từ năm 1982 đến nay. Trong thời gian từ năm 2001 đến năm 2004 anh là thôn phó, từ năm 2004-2006 và từ năm 2008-2016 anh là thôn trưởng thôn M.

- Người làm chứng ông A Xiên trình bày: Diện tích đất tranh chấp là do vợ chồng ông A B khai hoang từ năm 1975-1976. Tại thời điểm ông A B khai hoang có nhiều người khác cùng khai hoang ở khu đất xung quanh đất của ông A B. Sau khi khai hoang, vợ chồng ông A B sử dụng đất để làm ao nuôi cá, đến nay đã được san lấp. Trước khi tranh chấp, ông chưa từng thấy gia đình bà H đến sử dụng đất. Ông biết rõ nguồn gốc đất tranh chấp vì ông là người sinh ra và sinh sống tại thôn M, hiện ông là già làng thôn. Thời điểm ông A B khai hoang đất, ông A Xiên là cán bộ của UBND xã Pờ Y.

- Người làm chứng ông A Khên trình bày: Khong năm 1975, ông có khai hoang thửa đất thại thôn M. Phần đất này nằm phía sau đuôi đất của ông A B khai hoang. Ông đã sử dụng đất một thời gian, sau đó tặng cho lại cho cháu là A L, A L tiếp tục sử dụng đất cho đến nay. Diện tích đất tranh chấp là do vợ chồng ông A B khai hoang vào năn 1975, 1976. Thời gian đầu, gia đình ông A B sử dụng đất để làm ao nuôi cá, sau đó chuyển nhượng một phần cho ông Hoàng Văn T. Ông biết rõ nguồn gốc đất tranh chấp là do vợ chồng ông A B khai hoang vì ông là người sinh ra và lớn lên tại thôn M từ trước đến nay và khai hoang cùng thời điểm với ông A B.

- Người làm chứng ông A L trình bày: Vào khoảng năm 1994, ông A L có khai hoang một lô đất tại thôn M và sử dụng cho đến nay. Phần đất ông khai hoang này ban đầu nằm giáp với lô đất mà vợ chồng ông A B khai hoang trước đó. Diện tích đất vợ chồng ông A B khai hoang ban đầu có vị trí một bên giáp đất ông A X khai hoang, một bên giáp đất của ông A L; phía trước giáp quốc lộ 40, phía sau giáp đất ông A Khên khai hoang, một phần còn lại giáp đất ông A X khai hoang. Khi tôi đến khai hoang đã thấy vợ chồng A B sử dụng diện tích đất tranh chấp để làm ao nuôi cá. Sau khi ông A B chuyển nhượng một phần diện tích đất cho ông Hoàng Văn T nên phần đất ông T mua nằm giáp đất tôi khai hoang. Đối với phần đất ông A Khên khai hoang đã cho tôi toàn bộ. Từ đó, tôi là người sử dụng, diện tích đất này nằm giáp với phần đất ông T nhận chuyển nhượng của ông A B.

- Người làm chứng ông Thao Đoàn trình bày: Năm 1999, ông Thao Đoàn là cán bộ địa chính của UBND xã N ông có chứng kiến việc vợ chồng ông A X chuyển nhượng cho vợ chồng bà Đỗ Thị H diện tích đất có chiều ngang giáp quốc lộ 40 là 10m, chiều sâu 50m. Sau đó, vợ chồng bà H có nhận chuyển nhượng thêm của ông A B một phần đất giáp quốc lộ 40 và nằm ngay trước lô đất mà ông bà H đã nhận chuyển nhượng từ ông A X để làm đường đi vào lô đất. Việc ông A X chuyển nhượng đất cho bà H có giấy viết tay. Một thời gian sau khi nhận chuyển nhượng từ ông A X, bà H đã đổi toàn bộ phần đất này cho ông Nguyễn Hữu C nên ông C là người đang sử dụng đất. Phần đất tranh chấp là do vợ chồng ông A B khai hoang khoảng từ năm 1976. Tại thời điểm khai hoang đất là bờ ao, hố bom, sau khi khai hoang thì vợ chồng ông A B dùng làm ao nuôi cá. Một thời gian sau, ông B chuyển nhượng một phần đất cho anh Hoàng Văn T, phần còn lại vợ chồng ông A B tiếp tục sử dụng. Sau đó, ông thấy phần đất này được đổ đất, san lấp mặt bằng rồi để trống. Một thời gian sau, vợ chồng ông A B đến xây móng nhà trên phần đất khai hoang còn lại thì ông B và bà H xảy ra tranh chấp. Ông Thao Đoàn cho rằng, việc gia đình bà H được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với toàn bộ phần đất mà ông A X đã khai hoang và phần đất là ao cá, hố bom do vợ chồng ông A B khai hoang là không đúng vì phần đất ao cá, hố bom là do vợ chồng ông A B khai hoang, vợ chồng bà H chỉ nhận chuyển nhượng từ ông A X diện tích 10mx50m. Từ trước đến nay, ông chưa từng thấy gia đình bà H đến sử dụng phần đất tranh chấp.

- Người làm chứng anh Hoàng Văn T trình bày: Anh T đến thôn M sinh sống từ năm 1998 đến nay, nhà ở cạnh lô đất tranh chấp nên biết rõ nguồn gốc. Thời gian đầu, anh có mượn ao (tức một phần đất ông A B khai hoang) để thả cá. Năm 1999, anh mua của ông A B ½ lô đất do ông A B khai hoang, có chiều ngang 25m, chiều dài 17m. Phần ao còn lại vợ chồng ông A B tiếp tục sử dụng. Khoảng năm 2006, ông thấy ông A B thuê xe để đổ đất lấp ao rồi để trống đất. Đến năm 2015, ông A B xây móng nhà thì bà H đến tranh chấp. Anh chưa bao giờ thấy bà H đến canh tác trên diện tích đất tranh chấp.

- Tại Văn bản trình bày ý kiến đề ngày 07/4/2021, chị Hoàng Thị H, chị Hoàng Thị L, anh Hoàng Đình D là con của bà Đỗ Thị H và ông Hoàng Văn Đ đều nêu ý kiến: Quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 03, tờ bản đồ số 10, diện tích 2040mtheo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 922718 do UBND huyện N cấp là của bố mẹ các anh chị, thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất anh chị còn nhỏ nên không biết gì. Ông A B khởi kiện thì các anh, chị không có ý kiến gì do thửa đất là tài sản của bố mẹ, quyền và lợi ích của các anh chị không bị ảnh hưởng nên đề nghị Tòa án không đưa các anh chị tham gia tố tụng.

[2] Kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 04/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện N (thực hiện theo Quyết định ủy thác thu thập chứng cứ số 220/2022/QĐ-UTTA ngày 15/7/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum) đã xác định:

- Hiện trạng thửa đất tranh chấp giữa ông A B - bà Đỗ Thị H có tứ cận:

Phía đông giáp phần đất còn lại của thửa đất số 03, tờ bản đồ số 10, dài 10,96m. Phía đông bắc giáp phần đất còn lại của thửa đất số 03, tờ bản đồ số 10, dài 8,21m. Phía tây giáp phần đất còn lại của thửa đất số 03, tờ bản đồ số 10, dài 17,47m. Phía nam giáp đường quốc lộ 40, rộng 10,86m.Phía bắc giáp phần đất còn lại của thửa đất số 03, tờ bản đồ số 10, rộng 4,93m.

Diện tích phần đất tranh chấp là 160m2. Toàn bộ phần đất nêu trên đều thuộc thửa đất số 03, tờ bản đồ số 10, do UBND huyện N cấp cho hộ bà Đỗ Thị H ngày 25/10/2000.

- Về tài sản trên đất:

+ Đối với thửa đất số 03, tờ bản đồ số 10 (không tính phần diện tích tranh chấp): Tại thời điểm xem xét, thẩm định tại chỗ có 01 căn nhà cấp 4 do vợ chồng anh Nguyễn Hữu C xây dựng và sử dụng.

+ Đối với phần đất tranh chấp: Trên toàn bộ diện tích tranh chấp tại thời điểm xem xét, thẩm định tại chỗ không có tài sản gì. Toàn bộ diện tích đất đang được để trống.

+ Trên các cạnh xác định ranh giới giữa phần đất tranh chấp với diện tích đất còn lại thuộc thửa đất số 03, tờ bản đồ số 10 có 10 trụ bê tông cốt thép cao 1,6m, rộng 15cmx15cm. Các trụ này do vợ chồng ông A B trồng để xác định ranh giới phần đất tranh chấp.

+ Tại thời điểm xem xét, thẩm định tại chỗ có 01 móng nhà kích thước 6mx9,7m, có kết cấu: xây gạch vữa xi măng, giằng sắt, đổ bê tông. Toàn bộ móng nhà được xây dựng trên đất lộ giới đường bộ, là phần tiếp giáp giữa đất tranh chấp với đường quốc lộ 40. Xung quanh móng nhà trồng 05 trụ bê tông có kích thước rộng 15cmx15cm, cao 1,6m. Toàn bộ các trụ bê tông và móng nhà đều do vợ chồng ông A B xây dựng vào năm 2010.

Kết quả định giá tài sản ngày 04/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện N (thực hiện theo Quyết định ủy thác thu thập chứng cứ số 220/2022/QĐ-UTTA ngày 15/7/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum) đã xác định:

- Đối với diện tích đất tranh chấp: Áp dụng mức giá trung bình của giá thị trường tại thời điểm chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên địa bàn tại thời điểm tiến hành định giá là 90.000.000đ/mét ngang. Diện tích đất tranh chấp có giá thị trường là 10,86m x 90.000.000đ/mét ngang = 977.400.000 đồng.

- Về các tài sản khác: Móng nhà: 7,58m3x2,744.000đ/m3x1,05 (hệsố bù cước vận chuyển tại N) = 21.839.496đ. 15 trụ bê tông: 24m x 75.000đ/mét ,58mx 2,744.000đ/mx 1,05 (hệ số bù cước vận chuyển tại N) = 1.890.000đ, tương ứng 126.000đ/01 trụ.

[3] Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2022/DS-STngày 30 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum đã quyết định:

Căn cứ khoản 9 Điều 26, Điều 34, Điều 37, Điều 39, Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 115 Bộ luật dân sự;

Căn cứ Điều 2, khoản 2 Điều 31, Điều 73 Luật đất đai 1993; Điều 100, Điều 101, điểm d khoản 2 Điều 106,Điều 166, Điều 203 Luật đất đai 2003.

Tuyên xử:

1.Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông A B.

Công nhận ông A B và bà Y L được quyền sử dụng diện tích đất160m(cụ thể theo sơ đồ trích lục thửa đất kèm theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 04/8/2022) thuộc thửa đất số 03, tờ bản đồ số 10, tại thôn M, xã N huyện N, tỉnh Kon Tum.

Buộc bà Đỗ Thị H trả cho ông A B và bà Y L diện tích đất 160m(cụ thể theo sơ đồ trích lục thửa đất kèm theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 04/8/2022) thuộc thửa đất số 03, tờ bản đồ số 10, tại thôn M, xã N huyện N, tỉnh Kon Tum.

Hy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R922718 do UBND huyện N cấp cho hộ bà Đỗ Thị H ngày 25/10/2000 đối với diện tích đất 160m2(vị trí, tứ cận cụ thể như sơ đồ kèm theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ) thuộc thửa đất số 03, tờ bản đồ số 10, tại thôn M, xã N huyện N, tỉnh Kon Tum.

Ông A B và bà Y L có quyền, nghĩa vụ liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục đăng ký cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đấtđối với diện tích đất được công nhận theo quy định của pháp luật về đất đai.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí thẩm định giá.

[4] Kháng cáo:

Ngày 04-10-2022, bà Đỗ Thị H kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Lý do kháng cáo là Bản án sơ thẩm không khách quan, không đúng quy định pháp luật.

[5] Tại phiên tòa phúc thẩm:

Người kháng cáo giữ nguyên kháng cáo, trình bày tranh luận là diện tích đất ông A B khai hoang còn lại không nằm trong phần đất mà hộ bà Đỗ Thị H đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tại Biên bản làm việc về việc giải quyết đơn kiến nghị của UBND xã Pờ Y ngày 13/8/2013 đã kết luận “Hai bên tranh chấp công nhận phần đất tranh chấp mà ông B khiếu nại nằm trong phần đất lưu không của lộ giới quốc lộ 40, không ai được phép sử dụng. Nếu sử dụng là vi phạm pháp luật về đất đai với hành vi lấn chiếm đất công”. Biên bản đã được thông qua, ông A B và bà Đỗ Thị H cùng ký và có xác nhận của UBND xã Pờ Y. Đề nghị hủy bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại.

Đại diện Viện kiểm sát cấp cao Đà Nẵng tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Thư ký Tòa án và những người tham gia tố tụng đã thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với kháng cáo của bà Đỗ Thị H do không có căn cứ nên không chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1] Về yêu cầu khởi kiện:

Ông A B khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Đỗ Thị H trả lại diện tích đất 160mvà hủy phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 922718 do UBND huyện N cấp ngày 25/10/2000 cho hộ bà Đỗ Thị H liên quan đến diện tích đất tranh chấp, nằm trong thửa đất số 03, tờ bản đồ số 10, diện tích 2040m2, [2] Xem xét các căn cứ sử dụng đất của đương sự:

Bà Đỗ Thị H cho rằng nguồn gốc phần đất tranh chấp nằm trong thửa đất số 03, tờ bản đồ số 10, diện tích 2040m2, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BR922718 do UBND huyện N cấp cho hộ bà Đỗ Thị H ngày 25/10/2000 là do vợ chồng bà H, ông Đ nhận chuyển nhượng từ ông A X năm 1999 với diện tích 2000m(rộng 32m, dài 65m). Tuy nhiên, hồ sơ vụ án chỉ có bản photo Giấy cam kết nhượng đất thổ cư ngày 17/12/1999 thể hiện nhận chuyển nhượng đất từ ông Thao Sân (không thể hiện diện tích, tứ cận diện tích đất chuyển nhượng), bản photo Giấy biên nhận tiền bán đất thổ cư ngày 17/12/1999 thể hiện việc bên mua là ông Hoàng Đình Đ, bà Đỗ Thị H đã giao đủ tiền mua đất cho ông Thao Sân là 3.900.000 đồng. Các bản photo này có dấu hiệu sửa chữa, ghi thêm, không đúng tên ông A X, không có bản gốc để đối chiếu, nên không có giá trị chứng minh.

Ông A X thừa nhận có chuyển nhượng cho bà H phần đất do vợ chồng A X khai hoang có chiều ngang giáp mặt đường quốc lộ 40 là 10m, chiều dài 50m, thành 500m(phn đất này bà H để cho vợ chồng anh Nguyễn Hữu C đang sử dụng) không liên quan đến 160mđất tranh chấp trong vụ án. Ông A X khẳng định phần đất tranh chấp 160mlà do ông A B khai hoang nên ông không có quyền chuyển nhượng diện tích này cho bà H.

Khi mở rộng đường quốc lộ 40, Nhà nước đã đền bù cho cá nhân, hộ gia đình có đất bị thu hồi thì ông A B là người được kê khai, nhận tiền đền bù khi bị thu hồi một phần của lô đất đã khai hoang (phần còn lại là diện tích đất tranh chấp). Theo Biên bản kiểm tra xác minh khối lượng phát sinh bồi thường hỗ trợ và tái định cư, biên bản chi trả tiền bồi thường, phiếu chi do Ban quản lý khu kinh tế tỉnh Kon Tum cung cấp thể hiện ông A B được bồi thường đối với ao cá diện tích 112,2mlà phù hợp với lời khai của vợ chồng ông A B, ông A X, những người làm chứng và ý kiến của UBND xã Pờ Y đã khẳng định thời gian đầu ông A B sử dụng phần đất khai hoang để làm ao nuôi cá, sau này mới đổ đất san lấp mặt bằng.

UBND nhân dân xã N huyện N tại Biên bản làm việc ngày 29/6/2021 cho biết: Nguồn gốc diện tích đất tranh chấp là do vợ chồng ông A B khai hoang. Tại thời điểm khai hoang, ngoài phần diện tích đất tranh chấp nêu trên còn có phần đất vợ chồng ông Hoàng Văn T làm nhà ở hiện nay cũng do vợ chồng ông A B khai hoang. Sau khi khai hoang, thì vợ chồng ông A B tận dụng phần đất sình lầy để làm ao nuôi cá nhưng không đăng ký kê khai với chính quyền địa phương. Vào năm 2000, bà Đỗ Thị H nhận chuyển nhượng một phần đất của ông A X với chiều ngang là 10m, giáp Quốc lộ 40. Khi nhà nước có chủ trương cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ dân tại thôn M thì gia đình bà Đỗ Thị H kê khai đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cả phần đất của ông A X đã mua trước đó và cả phần đất của ông A B khai hoang (phần đất đang tranh chấp hiện nay). Thời điểm được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tới nay, gia đình bà H chưa bao giờ đến sử dụng phần đất đang tranh chấp với ông A B. Riêng đối với vợ chồng ông A B, sau khi khai hoang và sử dụng làm ao nuôi cá đến khi Nhà nước mở rộng đường Quốc lộ 40 thì vợ chồng ông A B được Hội đồng bồi thường tái định cư của Ban quản lý khu cửa khẩu thực hiện bồi thường một phần ao của ông, còn phần còn lại ông đã đổ đất để sử dụng. Phần ao còn lại thuê đổ đất lấp một phần ao nuôi cá rồi để đất không. Đến năm 2015, khi ông A B làm móng nhà trên đất (phần hành lang đường, ở phía trước đất) thì xảy ra tranh chấp với gia đình bà Đỗ Thị H.

Bị đơn căn cứ Biên bản làm việc về việc giải quyết đơn kiến nghị của ông A B do UBND xã Pờ Y lập ngày 13/8/2013 để cho rằng phần đất mà ông A B khai hoang có một phần chuyển nhượng cho ông Hoàng Văn T năm 1999, một phần bị nhà nước thu hồi mở rộng quốc lộ 40 và phần đất còn lại nằm trong phần đất lưu không lộ giới quốc lộ 40, diện tích khai hoang đã hết nên ông A B không còn phần đất nào nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà hộ bà H được cấp. Tuy nhiên,UBND xã Pờ Y cho biết nội dung Biên bản làm việc về việc giải quyết đơn kiến nghị của ông A B do UBND xã Pờ Y lập ngày 13/8/2013với Biên bản làm việc ngày 29/6/2021 và Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ của Tòa án về diện tích đất tranh chấp đều không có sự mâu thuẫn, cụ thể: Tại thời điểm năm 2013, ông A B khiếu nại yêu cầu UBND xã Pờ Y giải quyết tranh chấp đất đai với bà Đỗ Thị H, qua kiểm tra hiện trạng thì phần đất này không nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ bà Đỗ Thị H mà toàn bộ phần đất tranh chấp này là đất lưu không (đất lộ giới) của đường quốc lộ 40. (Đây là phần đất ông A B xây móng nên xảy ra tranh chấp, nằm ở phía trước giữa phần đất tranh chấp giáp với Quốc lộ 40, nên là đất lộ giới). Còn phần đất tranh chấp hiện nay giữa ông A B với bà Đỗ Thị H mà Tòa án đang giải quyết đúng như được xác định tại Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ của Tòa án và Biên bản làm việc ngày 29/6/2021. Như vậy, hai phần đất nêu trên là khác nhau, nhưng cả hai phần đất này đều có nguồn gốc là do ông A B khai hoang; bà H không có căn cứ sử dụng đất này.

Qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của ông A X, những người làm chứng là những người sinh sống lâu năm tại khu vực diện tích đất tranh chấp và ý kiến của UBND xã Pờ Y có cơ sở khẳng định diện tích đất tranh chấp là do vợ chồng ông A B khai hoang, sử dụng từ trước cho đến nay, còn bà Đỗ Thị H chưa bao giờ đến sử dụng phần đất đang tranh chấp.

[3] Xem xét việc đăng ký kê khai, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất tranh chấp:

Diện tích đất tranh chấp do vợ chồng A B khai hoang, trực tiếp sử dụng ổn định từ năm 1975-1976. Trong khi đó, bà H không chứng minh được diện tích đất tranh chấp là do nhận chuyển nhượng hợp pháp từ ông A X năm 1999, đồng thời bà H cũng không phải là người đang sử dụng diện tích đất này tại thời điểm đăng ký kê khai. Do đó, việc UBND huyện N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Đỗ Thị H đối với diện tích đất 160mtranh chấp là không đúng đối tượng, chồng lên diện tích đất vợ chồng ông A B, bà Y L đang sử dụng là không đúng quy định pháp luật, xâm phạm quyền lợi ích hợp pháp của ông A B và bà Y L.

[4] Bản án sơ thẩm quyết định buộc bà Đỗ Thị H trả cho ông A B và bà Y L 160mđất thuộc thửa đất số 03, tờ bản đồ số 10 tại thôn M, xã N huyện N; và hủy phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R922718 do UBND huyện N cấp cho hộ bà Đỗ Thị H đối với phần diện tích đất 160m(vị trí, tứ cận cụ thể như sơ đồ kèm theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ) là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết mới làm thay đổi nội dung vụ án nên không chấp nhận kháng cáo, HĐXX phúc thẩm giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.

Bản án sơ thẩm đã quyết định “ Công nhận ông A B và bà Y L được quyền sử dụng diện tích đất 160m2...“ .Tuy nhiên, đơn khởi kiện không có yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất; người được xác định có căn cứ sử dụng đất nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cơ quan có thẩm quyền. Phạm vi vụ án này là xác định ai là người có quyền sử dụng diện tích đất tranh chấp, do đó cần điều chỉnh lại từ ngữ cho phù hợp; đồng thời chỉnh sửa lại phần áp dụng căn cứ pháp luật cho phù hợp với vụ án. Vợ chồng ông A B và vợ chồng bà Đỗ Thị H đều có quyền liên hệ Cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần diện tích đất được thừa nhận có căn cứ sử dụng hợp pháp.

[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: người kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ theo quy định tại khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; không chấp nhận kháng cáo của bà Đỗ Thị H, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2022/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum

2. Áp dụng Điều 166 Bộ luật Dân sự; Điều 2, khoản 2 Điều 31, Điều 73 Luật đất đai 1993; Điều 100, Điều 101, điểm d khoản 2 Điều 106, Điều 166, Điều 203 Luật Đất đai 2013;

Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông A B.

Ông A B và bà Y L có quyền sử dụng diện tích đất 160m(cụ thể theo sơ đồ trích lục thửa đất kèm theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 04/8/2022) thuộc thửa đất số 03, tờ bản đồ số 10, tại thôn M, xã N huyện N, tỉnh Kon Tum.

Buộc bà Đỗ Thị H trả cho ông A B và bà Y L diện tích đất 160m(cụ thể theo sơ đồ trích lục thửa đất kèm theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 04/8/2022) thuộc thửa đất số 03, tờ bản đồ số 10, tại thôn M, xã N huyện N, tỉnh Kon Tum.

Hy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R922718 do UBND huyện N cấp cho hộ bà Đỗ Thị H ngày 25/10/2000 đối với phần diện tích đất 160m(vị trí, tứ cận cụ thể như sơ đồ kèm theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ) thuộc một phần thửa đất số 03, tờ bản đồ số 10, tại thôn M, xã N huyện N, tỉnh Kon Tum.

Ông A B và bà Y L, vợ chồng bà Đỗ Thị H có quyền, nghĩa vụ liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm các thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất được thừa nhận có căn cứ sử dụng hợp pháp, theo đúng các quy định của pháp luật về đất đai.

3. Các Quyết định còn lại của Bản án sơ thẩm được giữ nguyên như Bản án sơ thẩm.

4. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Đỗ Thị H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng tại Biên lai số 0000029 ngày 17-10-2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum.

Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án. 

LS TRẦN MINH HÙNG, LS GIỎI VÀ UY TÍN TRÊN TRUYỀN HÌNH CÔNG AN ANTV, VTV, VTC, HTV, THVL.....BÁO CHÍ..

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 

                    Luật sư Trần Minh Hùng là một trong những luật sư sáng lập văn phòng luật, giàu kinh nghiệm về kiến thức và thực tiễn đã dành nhiều thắng lợi vụ kiện và quan trọng luật sư Hùng luôn coi trọng chữ Tâm của nghề luật sư và trách nhiệm đối với xã hội nên đã được nhiều hãng báo chí, truyền thông, Đài truyền hình, Đài tiếng nói Việt nam phỏng vấn nhiều lĩnh vực quan trọng liên quan đến đời sống. Luật sư Trần Minh Hùng được nhiều hãng truyền thông, báo chí trong nước  tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn trên VOV Giao Thông – Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài truyền hình TP.HCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Truyền hình SCTV, THĐN, Truyền hình Quốc Hội VN, Truyền hình Công an ANTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Đài phát thanh kiên giang, Đài Bình Dương... và các hãng báo chí trên cả nước, được các tổ chức, trường Đại học Luật TP.HCM mời làm giám khảo các cuộc thi Phiên tòa giả định với Đại học cảnh sát, mời làm chuyên gia ý kiến về các sự kiện……là đối tác tư vấn luật của các hãng truyền thông này và luôn mang lại niềm tin cho khách hàng và ghi nhận sự đóng góp của chúng tôi cho xã hội...là luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như Viettinbank, các vụ Giết Người do mâu thuẫn hát karaoke tại Bình Chánh, Bào chữa chủ tịch Huyện Đông Hòa, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành- Dầu Dây, Bào chữa bị cáo Huân không đeo khẩu trang mùa Covit, Vụ Nữ sinh Tân Bình bị cắt tai, bảo vệ cho MC Trấn Thành, Bào chữa, bảo vệ vụ "Bác sĩ khoa rút ống thở", Bảo vệ cho người cho thuê nhà vụ Công ty Thế giới Di Động không trả tiền thuê nhà mùa dịch covid, Tư vấn cho nghệ sĩ Thương Tín, bảo vệ vụ đổ xăng đốt 10 người tại TPHCM, các vụ Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, cưỡng đoạt, cướp, gây thương tích, tham ô, mua bán ma túy, cố ý làm trái, bào chữa vụ án cựu Cảnh sát Buôn Lậu và các bị cáo kiên quan, bào chữa vụ khai thác cát Cần giờ- Tiền Giang, bào chữa vụ chiếm đoạt tiền công nghệ của nước Úc của bị can về công nghệ, bào chữa vụ Mua bán khẩu trang mùa covid, bào chữa nhiều vụ án ma túy, bào chữa vụ lợi dụng chức vụ quyền hạn của tổ chức tín dụng... .… và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi..…là hãng luật tư vấn luật cho nhiều công ty Việt Nam và nước ngoài trên cả nước luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Trân trọng cảm ơn.


ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
64 Võ Thị Sáu, Tân Định, quận 1, TPHCM
Điện thoại: 028-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006



Hỗ trợ trực tuyến

ĐIỆN THOẠI GẶP LUẬT SƯ: 0972238006(zalo, viber)

Hỗ trợ trực tuyến:
Skype: Skype
0972238006
Thừa kế là gì, di sản thừa kế là gì, cách xác định di sản thừa kế
THỦ TỤC CÔNG CHỨNG CHO THUÊ NHÀ ĐẤT
Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Công Ty
Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng
Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng
Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn
Luật Sư Chuyên Về Tranh Chấp Nhà Đất
luật sư ly hôn
Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng
Hợp Đồng Tặng Cho Tài Sản Nhà Đất
luật sư tư vấn thường xuyên cho doanh nghiệp
luat su rieng cho cong ty
luật sư doanh nghiệp
luat su nha dat
luật sư doanh nghiệp
luật sư trả lời đài truyền hình
luật sư trả lời báo chí
Trang chủ | Luật sư chuyên giải quyết thuận tình ly hôn tại tphcm | Luật sư chuyên đại diện ủy quyền ly hôn | Luật sư chuyên soạn thảo các loại hợp đồng | Luật sư ly hôn tại Tân Bình, Gò Vấp | Luật sư chuyên đại diện cho doanh nghiệp tại tòa án | Văn phòng luật sư tư vấn | Luật sư chuyên tranh chấp nhà đất với người nước ngoài | Luật sư chuyên tranh chấp nhà đất cho việt kiều tại sài gòn | Luật sư chuyên khởi kiện tranh chấp thừa kế | Luật sư chuyên khởi kiện thu hồi nợ | Luật sư chuyên làm giấy tờ nhà đất tại tphcm | Luật sư giỏi tại thành phố hồ chí minh | Dịch vụ sang tên sổ đỏ sổ hồng | Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng thuê nhà xưởng | Tư vấn người nước ngoài ly hôn với người việt nam | Luật sư giỏi về thừa kế tại tphcm | Luật sư tư vấn luật đất đai | Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị hại trong vụ án hình sự | Luật sư chuyên tư vấn chia tài sản sau khi ly hôn | Luật sư pháp chế doanh nghiệp | Phí thuê luật sư ly hôn tại tphcm | Tư vấn thủ tục nhận thừa kế nhà đất | Luật sư cho việt kiều và người nước ngoài | Luật sư giỏi chuyên tố tụng | Luật sư cho công ty tại quận 6, bình tân | Luật sư cho công ty tại quận 5, quận 11, quận 10 | Luật sư tư vấn kiện đòi nhà cho thuê | Luật sư chuyên nhà đất quận 9, quận 12 | Luật sư tư vấn cho cá nhân | Luật sư chuyên soạn thảo, review hợp đồng | Luật sư chuyên bào chữa các vụ án hình sự | Luật sư tại thành phố Thủ Đức | Luật sư tư vấn vu khống nói xấu xúc phạm danh dự trên facebook | Luật sư tư vấn soạn thảo văn bản, hợp đồng | Luật sư tư vấn soạn đơn khởi kiện | Luật sư hình sự tại thành phố hồ chí minh | Luật sư nhà đất tại thành phố thủ đức | Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội lây lan dịch bệnh | Luật sư giỏi chuyên về lao động | Việt kiều có được thừa kế nhà đất tại việt nam không? | Luật sư chuyên giải quyết tranh chấp mua bán nhà đất | Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng thuê nhà mùa covid | Luật sư tư vấn phân chia tài sản chung của vợ chồng | Luật sư tư vấn thu hồi công nợ | Luật sư chuyên giải quyết tranh chấp | Luật Sư Làm Ly Hôn Nhanh Tại Tphcm | Tư Vấn Kiện Đòi Lại Nhà Cho Ở Nhờ | Luật sư tư vấn kiện đòi nhà | Luật sư tư vấn mua bán nhà đất | Luật sư tư vấn hợp đồng vô hiệu | Tư vấn hợp đồng giả cách | Luật Sư Hòa Giải Tranh Chấp Đất Đai | Tư Vấn Tranh Chấp Ly Hôn | Luật Sư Chuyên Ly Hôn Nhanh Trọn Gói | Tư Vấn Chuyển Nhượng Cổ Phần Vốn Góp | Luật Sư Bảo Hộ Doanh Nghiệp | Luật Sư Giải Quyết Ly Hôn Nhanh Tại Tphcm | Tư Vấn Kiện Đòi Nợ | Luật Sư Tranh Chấp Nhà Ở | Luật Sư Chuyên Soạn Đơn Khởi Kiện Khiếu Nại | Luật sư tư vấn soạn đơn ly hôn | Luật Sư Tư Vấn Thành Lập Doanh Nghiệp | Luật Sư Tư Vấn Tại Công Ty | Luật Sư Chuyên Nhà Đất Tại Quận 6, Bình Tân, Bình Chánh | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Nuôi Con Khi Ly Hôn | Luật Sư Tư Vấn Cho Người Hoa Tại tphcm/Hoa Kiều | Luật Sư tư Vấn Đơn Phương Chấm Dứt Hợp Đồng Lao Động | Luật Sư Tư Vấn Cho Việt Kiều Úc, Mỹ, Canada | Luật Sư Tư Vấn Luật Thường Xuyên Cho Doanh Nghiệp | Công Chứng Khai Nhận Thừa Kế | Văn Phòng Luật Sư Tư Vấn Chia Tài Sản Khi Ly Hôn | Luật Sư Tư Vấn Bất Động Sản | Luật Sư Tư vấn Thừa Kế Tại Quận 6, Bình Tân | Luật Sư Tranh Chấp Kinh Doanh Thương Mại | Luật Sư Chuyên Đại Diện Ủy Quyền Tại Tòa Án | Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Tại Bình Tân | Luật Sư Ly Hôn Tại Quận 6 | Luật Sư Chuyên Ly Hôn Tại Bình Thạnh, Gò Vấp | Luật Sư Hình Sự Tại Biên Hòa | Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Tại Quận 10, Quận 11 | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Cố Phần Vốn Góp | Luật Sư Bảo Vệ Bào Chữa Tại Trung Tâm Trọng Tài | luật sư giỏi uy tín tại tphcm | Luật Sư tại Quận Tân Phú | Luật Sư Quận tại Phú Nhuận | Luật Sư tại Quận Gò Vấp | Dịch Vụ Hợp Thức Hóa Nhà Đất | Luật Sư Tư Vấn Thừa Kế Nhà Đất Cho Việt Kiều | Luật Sư Tư Vấn Cho Công Ty | Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Tại Bình Chánh | Luật Sư Chuyên Khởi Kiện Án Hành Chính | Luật Sư Tư Vấn Lấn Chiếm Đất | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Nhà Đất | Tư Vấn Cấp Sổ Đỏ, Sổ Hồng | Luật Sư Tư Vấn Phân Chia Thừa Kế | Luật Sư Tư Vấn Cho Công Ty Bất Động Sản | Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Đất Đai Tại Bình Chánh | Luật Sư Bào Chữa Hình Sự | Luật Sư Tư Vấn Ngoài Giờ | Tranh Chấp Thừa Kế Có Yếu Tố Nước Ngoài | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Đòi Lại Tài Sản | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Đứng Tên Dùm Nhà Đất | Luật sư chuyên tư vấn doanh nghiệp | luật sư chuyên thuận tình ly hôn cho việt kiều/người nước ngoài | Luật sư tư vấn đơn phương ly hôn với việt kiều | Tư vấn ly hôn chia tài sản với việt kiều | Luật sư tư vấn kháng cáo | Luật sư chuyên về tranh chấp đất đai tại tphcm | Luật sư cho ca sĩ, diễn viên | Tư vấn thay đổi trụ sở, giấy phép công ty | Luật sư tư vấn tranh chấp nhà thuộc sở hữu chung | Luật sư tư vấn lập di chúc | Luật sư giỏi về hình sự tại thành phố hồ chí minh | Luật sư giỏi về nhà đất tại tphcm | Luật sư giỏi di chúc thừa kế tại tphcm | Luật sư chuyên tranh chấp nhà chung cư | Luật sư giỏi về hình sự tại sài gòn | Luật sư chuyên tranh chấp hợp đồng góp vốn | Luật sư chuyên thừa kế di chúc | Luật sư chuyên tranh chấp vay tiền | Luật sư tư vấn luật đất đai | Kê khai thừa kế | tư vấn công chứng mua bán nhà đất | luật sư tư vấn thành lập công ty | luật sư chuyên tư vấn ly hôn chia tài sản | dịch vụ luật sư di sản thừa kế | Dịch vụ luật sư nhà đất tại TPHCM | luật sư tại quận 1 | luật sư tại quận 2 | luật sư tại quận 3 | luật sư tại quận 4 | luật sư tại quận 5 | Luật Sư Tại Quận 6 | luật sư tại quận 7 | luật sư tại quận 8 | luật sư tư vấn, bào chữa tội chống người thi hành công vụ | Luật sư tại quận 10 | Luật sư tại quận 11 | luật sư tại quận 12 | Luật sư tại quận bình thạnh | Luật sư tại huyện bình chánh | Luật sư huyện Nhà Bè | luật sư huyện hóc môn | Văn phòng Luật sư Nhà Đất | Luật sư huyện Cần Giờ | Văn phòng luật sư tại TPHCM | Luật Sư Tại Sài Gòn | luật sư việt nam | Luật sư Uy Tín | Luật sư Công Ty | luật sư tư vấn ly hôn tại thủ đức | Luật sư chuyên tranh chấp thừa kế | luật sư bào chữa tại tòa án | luật sư tại quận bình tân | Dịch thuật công chứng tại tphcm | luật sư giỏi và uy tín | luật sư tư vấn tại nhà | luật sư tư vấn hợp đồng mua bán nhà đất | mẫu hợp đồng mua bán nhà | mẫu hợp đồng đặt cọc mua bán nhà | luật sư chuyên hình sự | luật sư tư vấn thu hồi nợ | luật sư chuyên nhà đất | luật sư chuyên về khiếu nại, khởi kiện | luật sư giỏi về nhà đất | luật sư chuyên hợp đồng kinh tế | luật sư tư vấn hợp đồng mua bán hàng hóa | luật sư tư vấn tại bình dương | luật sư tại biên hòa đồng nai | Văn phòng luật sư tư vấn ly hôn | Luật Sư tư vấn tại Long An | Luật sư tư vấn tại cần thơ | Văn Phòng Luật Sư Chuyên Thừa Kế | Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn | Luật Sư Làm Chứng | Tư Vấn Công Chứng Nhà Đất | Luật Sư Tư Vấn Cho Người Nước Ngoài | Luật Sư Riêng Cho Công Ty | Luật Sư Tư Vấn Thừa Kế Nhà Đất | Luật Sư Tư Vấn Về Thuế Kế Toán | Tư Vấn Công Chứng Tại Nhà | Luật Sư Thừa Kế Tại Tphcm | Tư Vấn Luật Cho Việt Kiều Mỹ | Luật Sư Tư Vấn Cho Việt Kiều Mua Nhà Tại Việt Nam | Luật Sư Tại Thành Phố Hồ Chí Minh | Luật Sư Tư Vấn Luật Lao Động | Luật Sư Riêng Cho Các Công Ty Tại Sài Gòn | Luật Sư Quận Tân Bình | Luật Sư Cho Doanh Nghiệp | luật sư riêng cho các công ty | luật sư tư vấn thừa kế nhà đất cho việt kiều | luật sư riêng cho công ty nước ngoài tại việt nam | Đoàn luật sư tphcm - VPLS Gia Đình | Tư vấn chia tài sản khi ly hôn | luật sư tư vấn tranh chấp tại toà án | Luật sư tư vấn ly hôn có yếu tố nước ngoài | luật sư bào chữa tại tòa án tphcm | luật sư tại quận 1 | tin tức nóng | luật sư tại quận 3 | Luật sư tư vấn bảo hiểm nhân thọ | luật sư tại quận 5 | luật sư bào chữa tư vấn tội cưỡng đoạt tài sản | luật sư tại quận 7 | luật sư tại quận 8 | Luật sư chuyên tranh chấp nhà đất quận 9, quận 2 | luật sư tại quận 10 | luật sư tư vấn bào chữa tội tham ô | Thuê luật sư bào chữa hình sự | luật sư nhà đất thừa kế tại quận tân bình | luật sư thừa kế tại huyện bình chánh | luật sư chuyên thừa kế nhà đất tại quận bình tân | luật sư bào chữa tội làm con dấu, tài liệu, hồ sơ giả | luật sư chuyên thừa kế tại quận phú nhuận | luật sư bào chữa tư vấn tội cố ý gây thương tích | Luật sư tư vấn về xây dựng/luật xây dựng | Luật Sư Chuyên Về Di Chúc | luật sư giỏi về nhà đất tại quận bình thạnh | Tư vấn du học xin visa | Luật sư tranh chấp nhà đất | Luật sư tư vấn di chúc | Luật sư thừa kế nhà đất tại gò vấp | luật sư tranh tụng tại tòa án | luật sư tư vấn hợp đồng đặt cọc mua bán nhà đất | luật sư chuyên tư vấn hợp đồng thuê nhà | Văn Phòng Luật Sư Chuyên Hình Sự Tại Tphcm | Luật sư chuyên tranh chấp hợp đồng | Luật sư tranh chấp bất động sản | Văn phòng luật sư doanh nghiệp | Luật Sư Bào Chữa Tại TPHCM | Luật sư tư vấn hợp đồng vay tiền | Thủ tục tuyên bố 1 người tâm thần | Luật sư tư vấn tranh chấp công ty | luật sư tư vấn thu hồi nợ | luật sư tư vấn thuận tình ly hôn | luật sư tư vấn đơn phương ly hôn | Luật sư tư vấn tranh chấp đất đai | Dịch vụ luật sư làm sổ hồng sổ đỏ | Luật Sư Tố Tụng | Dịch Vụ Luật Sư Ly Hôn Nhanh | Luật sư tư vấn ly hôn tại quận 5, quận 11 | Luật Sư Tư Vấn Nghĩa Vụ Cấp Dưỡng | luật sư tư vấn thừa kế theo di chúc | Luật sư tư vấn phân chia thừa kế quận 6, quận 11, quận 10, quận 5 | Luật sư thừa kế tại quận 1, quận 2, quận 3, quận 4, quận 7 | Luật sư tư vấn phân chia thừa kế tại quận 8, quận 9, quận 12 | Luật sư phân chia thừa kế tại bình chánh, Tân Phú, Bình Thạnh, nhà bè | Luật Sư Cho Doanh Nghiệp | Luật Sư Chuyên Tư Vấn Thừa Kế Tại Quận 5 | Tổng đài tư vấn pháp luật hình sự, ly hôn, thừa kế, nhà đất, doanh nghiệp | Luật sư tư vấn bào chữa tội đánh bạc/đá gà/lô đề/cá độ | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Mua Bán Nhà | Tư Vấn Công Chứng Thừa Kế | Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Kinh Doanh | Luật Sư Tư Vấn Soạn Thảo Hợp Đồng | Thừa Kế Nước Ngoài | Luật Sư Tư Vấn Đòi Lại Nhà Đất | Dịch Vụ Luật Sư Thu Hồi Nợ Khó Đòi | Luật sư tư vấn tranh chấp cổ đông công ty | Khởi Kiện Bồi Thường Danh Dự Nhân Phẩm | Luật Sư Tranh Chấp Thừa Kế Nhà Đất | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Nhà | Luật Sư Chuyên Tư Vấn Khởi Kiện | Luật Sư Hôn Nhân Gia Đình | Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng Góp Vốn | Tranh Chấp Tài Sản Chung Của Vợ Chồng | Luật Sư Giỏi Uy Tín Tại Việt Nam | Luật Sư Tại Sài Gòn Việt Nam Tư Vấn Cho Việt Kiều | Giải Quyết Tranh Chấp Bằng Trọng Tài | Dịch Vụ Thành Lập Công Ty Trọn Gói Tại Tphcm | Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Doanh Nghiệp | Tổng Đài Tư Vấn Pháp Luật | Luật Sư Tư Vấn Mua Nhà Đang Thế Chấp Ngân Hàng | Quyền Thừa Kế Nhà Đất Người Việt Nam Định Cư Ở Nước Ngoài | Luật Sư Tư Vấn Tặng Cho Nhà Đất | Luật Sư Tư Vấn Đứng Tên Dùm Nhà Đất Căn hộ Chung Cư | Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Cho Việt Kiều | Luật Sư Tư Vấn Mua Bán Căn hộ | Luật sư tư vấn Thỏa Thuận Tài Sản Của Vợ Chồng | Tư Vấn Pháp Luật Thừa Kế | Luật Sư Tư Vấn Trọn Gói Cho Doanh Nghiệp | Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Tại Bình Thạnh, Bình Tân, Quận 6, Gò Vấp | Luật Sư Sài Gòn Chuyên Bào Chữa Ở Miền Tây | Dịch Vụ Luật Sư Đòi Nợ | Luật Sư Tư Vấn Mua Đất Nền | Luật Sư Tư Vấn Đơn Phương Ly Hôn Tại Quận 6 | Luật Sư Giải Quyết Tranh Chấp Tài Sản Với Người Nước Ngoài | Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Đất | Tư vấn Thành Lập Chi Nhánh Văn Phòng Đại Diện | Luật Sư Tư Vấn Công Ty Cổ Phần | Luật Sư Chuyên Tư Vấn Khai Di Sản Thừa Kế | Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Thừa Kế Nhà Đất Tại Biên Hòa | Tranh Chấp Hợp Đồng Thuê Nhà | Điều Kiện Việt Kiều Mua Nhà Sài Gòn | Tư Vấn Bồi Thường Khi Bị Thu Hồi Đất | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Nội Bộ Doanh Nghiệp | Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Mua Bán Căn Hộ Chung Cư | Luật sư trên truyền hình và báo chí | Luật sư tư vấn đăng ký nhãn hiệu logo độc quyền | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Lao Động | Luật Sư Tư Tranh Chấp Mua Bán Đất Nền | Luật Sư Tại Chợ Lớn | Luật Sư Tư Vấn Về Án Phí | Tư Vấn Khởi Kiện Tranh Chấp Đất Đai | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Hợp Đồng Đặt Cọc | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Ranh Giới Đất | Luật Sư Tư Vấn Tranh Chấp Lối Đi Chung | Luật sư tư vấn giữ quốc tịch cho việt kiều | Luật sư tư vấn xác nhận nguồn gốc việt nam | Luật sư tư vấn thủ tục ly hôn cho việt kiều | Luật sư tư vấn thủ tục ly hôn tại sài gòn việt nam | Luật sư tư vấn kiện đòi nhà cho việt kiều | Dịch vụ luật sư nhà đất dành cho việt kiều | Luật sư tư vấn thủ tục ly hôn tại việt nam | Luật sư chuyên bào chữa cho bị can bị cáo | Luật sư tư vấn đơn phương ly hôn và thuận tình ly hôn | Cần Tìm Thuê Luật Sư Giỏi Tại Tphcm | Luật sư tư vấn ly hôn nhanh tại bình tân, quận 6 | Luật sư tư vấn luật thừa kế tại tphcm | Làm sao để dành được quyền nuôi con khi ly hôn | Luật sư tư vấn lập vi bằng | Luật sư tư vấn tố cáo vi phạm hình sự | Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng do bất khả kháng | Luật sư tư vấn ly hôn đơn phương | luật sư chuyên tư vấn đòi nợ | Luật sư chuyên tranh tụng hình sự | Luật sư tư vấn tranh chấp giáp ranh nhà đất | Luật sư tư vấn kiện hủy giấy chứng nhận sổ hồng sổ đỏ | Luật sư chuyên tư vấn bào chữa cho người bị hiếp dâm trẻ em | Luật sư chuyên tư vấn luật đất đai nhà ở | Luật sư tư vấn thời hiệu khởi kiện thừa kế | Luật sư tư vấn bào chữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản | Luật sư chuyên bào chữa hình sự tại tphcm | Luật sư chuyên về kinh tế | Luật sư chuyên tư vấn khởi kiện vụ án hành chính quyết định hành chính | Luật sư chuyên tư vấn kiện đòi đất | Luật sư giỏi chuyên về tranh chấp hợp đồng kinh tế thương mại kinh doanh | Luật sư tư vấn nhà đất | Luật sư tư vấn làm mới và gia hạn visa - Renew and extend visa | Luật sư tư vấn làm thẻ tạm trú – Renew/extend temporary residence | Luật sư tư vấn giấy phép lao động cho người nước ngoài/Working permit | Luật sư tư vân kết hôn với người nước ngoài | Luật sư chuyên bào chữa tội mua bán vận chuyển tàng trữ ma túy | Luật sư tư vấn tranh chấp hợp đồng thuê nhà hàng, khách sạn, mặt bằng | Luật sư tư vấn tranh chấp ranh đất | Luật sư tư vấn luật hình sự | Luật sư tư vấn tại ngoại, bảo lãnh | Luật sư tư vấn qua điện thoại, online, trực tuyến | Luật sư tư vấn thừa kế do chết vì covid | Luật sư tư vấn hợp đồng nhà xưởng, văn phòng | Lawyer at Ho Chi Minh City, Viet nam | divorce lawyer at Ho Chi Minh City | Luật sư tư vấn thừa kế sổ tiết kiệm, tài sản | Luật sư tư vấn thừa kế cổ đông cổ phần vốn góp cổ phiếu trong công ty | Luật sư tư vấn thừa phát lại | Văn phòng luật sư tại quận 1 | Luật sư tư vấn ly hôn với người nước ngoài | Luật sư tư vấn tố cáo, khiếu nại | Luật sư tư vấn thừa kế nhà đất tại bình thạnh | Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội phạm công nghệ cao, mạng internet, facebook | Luật sư chuyên tư vấn mua bán đất dự án | Luật sư chuyên tư vấn mua bán nhà đất bằng tay | Luật sư chuyên bào chữa tội tham ô, hối lộ, lợi dụng chức vụ | Luật sư chuyên tư vấn bào chữa tội buôn lậu | Luật sư tư vấn bào chữa tội trốn thuế | Luật sư giỏi tại tphcm | Luật sư công giáo | Luật sư tư vấn làm đơn giám đốc thẩm | Luật sư giỏi chuyên đòi nhà đất | Luật sư chuyên tư vấn thi hành án | Luật sư tư vấn đòi lại tiền mua đất nền dự án | Luật sư chuyên tư vấn kiện đòi giấy chứng nhận, sổ đỏ, sổ hồng | Thế nào là tội cho vay nặng lãi | Luật sư giỏi chuyên bào chữa án ma túy | Tư vấn về hành vi ngoại tình vợ chồng | Luật sư tư vấn bào chữa về tai nạn giao thông | Luật sư tư vấn bào chữa về tội mua bán hàng cấm | Luật sư tư vấn tranh chấp tín dụng ngân hàng | Luật sư tư vấn hợp đồng hợp tác kinh doanh | Luật sư tư vấn kiện thẩm mỹ viện | Luật sư chuyên tư vấn mua bán doanh nghiệp | Luật sư tư vấn bào chữa tội mua bán ma túy | Luật sư tư vấn hộ kinh doanh cá thể | Luật sư chuyên tư vấn bào chữa về tiền bitcoin | Luật sư chuyên tư vấn ủy quyền | Các án lệ | Luật sư chuyên tư vấn đầu tư nước ngoài | Luật sư giỏi chuyên bào chữa án kinh tế | Luật sư tư vấn bào chữa khi bị bắt | Luật sư giỏi chuyên tư vấn bào chữa tại đà nẵng | Tư vấn đòi nhà đất đứng tên dùm | Luật sư giỏi tại long thành đồng nai | Luật sư chuyên giải quyết các loại tranh chấp | Làm sao để được án treo? | Luật sư tư vấn đòi nợ cho công ty | luật sư tư vấn hoàn công, giấy phép xây dựng | Luật sư tư vấn bào chữa tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy | Luật sư nhận ủy quyền đại diện | Tư vấn bào chữa để được án treo tại ngoại | Giới thiệu | VIDEO LS TRẦN MINH HÙNG TƯ VẤN LUẬT TRÊN TRUYỀN HÌNH | Luật Sư tư vấn bào chữa tội giết người | Luật Sư Thừa kế | Thành Công Đạt Được | Luật Sư Riêng Cho Gia Đình Và Doanh Nghiệp | Báo Chí Và Chúng Tôi | Luật Sư Doanh Nghiệp | Luật Sư Nhà Đất | Luật Sư Di Trú | Luật sư Dân sự | Luật Sư Hình Sự | Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn | Luật Sư Tranh Tụng | Luật sư tư vấn luật lao động | Văn phòng luật sư tư vấn cho việt kiều | Luật sư Chuyên Kinh Tế | Luật Sư Giỏi Về Hình Sự | Luật Sư Tư Vấn Thừa Kế Nhà Đất | Luật Sư Tư Vấn Thường Xuyên Cho Doanh Nghiệp | Luật Sư Thi Hành Án | Luật Sư Tư Vấn Miễn Phí | Dịch Thuật Công Chứng | Luật Sư Riêng Cho Công Ty Nước Ngoài | Luật Sư Tư Vấn | Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng | Luật Sư Công Nợ | Luật Sư Chuyên Tranh Tụng Tại Tphcm | Luật Sư bào chữa tư vấn tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản | Luật Sư Kinh Nghiệm | Hỏi đáp pháp luật | Văn bản pháp luật | Liên Hệ

  ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - VĂN PHÒNG LUẬT SƯ GIA ĐÌNH

Chúng tôi tư vấn cho tất cả các khách hàng tại quận 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, tân bình, phú nhuận, Bình Thạnh, bình tân, tân phú, bình chánh, Thủ Đức... và các tỉnh trong cả nước. Chúng tôi tư vấn tận nhà, tận công ty nếu quý khách có nhu cầu thì liên hệ các luật sư gần nhất địa điểm quý vị đang sinh sống.

Liên hệ gặp luật sư: 

Văn phòng trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Quận 6, TP.HCM

(bên cạnh Phòng công chứng số 7).

Chi nhánh tại Biên Hòa: 5/1 Nguyễn Du, Quang Vinh,

Biên Hoà, Đồng Nai.

64 Võ Thị Sáu, Tân Định, quận 1, TPHCM



Luật Sư Trần Minh Hùng, Trưởng văn phòng, điện thoại: 0972238006 (zalo-viber)- 028.38779958

Để thuận tiện cho quý vị muốn gặp trực tiếp luật sư, vui lòng điện thoại trước cho luật sư khi quý vị đến văn phòng chúng tôi. 

Trân trọng cảm ơn.




Email: vanphongluatsugiadinh@gmail.com
http://www.luatsugiadinh.net.vn
Giấy phép số: 41.01.1999/TP/ĐKHĐ do Sở tư pháp Tphcm cấp 03/06/2013, chủ sở hữu website: Trần Minh Hùng