Về thủ tục mời người bào chữa được thực hiện theo quy định sau:
Theo quy định tại điểm c, điều 4, thông tư 70/2011/TT-BCA ngày 10/10/2011 quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự:
c) Trường hợp người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam nhờ người bào chữa là luật sư thì Điều tra viên hướng dẫn họ viết giấy yêu cầu luật sư, nếu yêu cầu đích danh luật sư bào chữa (có họ tên, địa chỉ rõ ràng) thì trong thời hạn 24 (hai mươi bốn) giờ, Cơ quan Điều tra có trách nhiệm gửi giấy yêu cầu luật sư của người bị tạm giữ, bị can cho luật sư mà họ nhờ bào chữa bằng thư bảo đảm hoặc chuyển phát nhanh; trường hợp người bị tạm giữ, bị can viết giấy nhờ người thân (có họ tên, địa chỉ rõ ràng) liên hệ nhờ luật sư bào chữa cho họ thì trong thời gian hạn 24 (hai mươi bốn) giờ kể từ khi người bị tạm giữ, bị can có giấy nhờ người thân, Cơ quan điều tra có trách nhiệm gửi giấy đó cho người thân của người bị tạm giữ, bị can bằng thư bảo đảm hoặc chuyển phát nhanh.
Như vậy, trong trường hợp của chị nếu muốn mời người bào chữa bảo vệ quyền lợi cho chồng mình chị cần được sự đồng ý của chồng qua việc viết giấy nhờ người thân liên hệ luật sư bào chữa.
Đồng thời, theo quy định tại điều 5, thông tư 70/2011/TT-BCA thì luật sư đề nghị cấp giấy chứng nhận người bào chữa và tham gia tố tụng phải có đủ các giấy tờ sau đây:
a) Thẻ luật sư ( bản sao có chứng thực);
b) Giấy yêu cầu luật sư của người bị tạm giữ, bị can; giấy yêu cầu luật sư của người thân người bị tạm giữ, bị can (đối với trường hợp người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam có giấy nhờ người thân liên hệ nhờ luật sư bào chữa); hoặc giấy yêu cầu luật sư của người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can (đối với người bị tạm giữ, bị can là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất);
c) Giấy giới thiệu của tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề luật sư hoặc giấy giới thiệu của Đoàn luật sư ( đối với trường hợp hành nghề với tư cách cá nhân);
d) Văn bản phân công của đoàn luật sư đối với trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 4 Thông tư này.
Việc cấp giấy chứng nhận bào chữa được thực hiện trong thời hạn sau (khoản 4, điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự):
Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải xem xét, cấp giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lý do.
Đối với trường hợp tạm giữ người thì trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan điều tra phải xem xét, cấp giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lý do.
Kể từ khi được cấp giấy chứng nhận bào chữa, người bào chữa có thể tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chồng chị. Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 2015 mới được ban hành, có hiệu lực thi hành vào ngày 01 tháng 7 năm 2016 quy định về các biện pháp tố tụng này, chúng tôi xin giới thiệu những quy định mang tính khái quát để quý khách hàng tham khảo khi tham gia tố tụng trong vụ án hình sự để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, như sau:
Kê biên tài sản:
Kê biên tài sản được áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tiền hoặc có thể tịch thu tài sản hoặc để đảm bảo bồi thường thiệt hại.
Những người có thẩm quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam; Thẩm phán chủ toạ phiên toà có quyền ra lệnh kê biên tài sản. Lệnh kê biên của những người này phải được thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành.
Chỉ kê biên tài sản tương ứng với mức có thể bị phạt tiền, bị tịch thu hoặc phải bồi thường thiệt hại. Tài sản bị kê biên được giao cho chủ tài sản hoặc người quản lý hợp pháp hoặc người thân thích của họ bảo quản. Người được giao bảo quản mà có hành vi tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu, huỷ hoại tài sản bị kê biên thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Khi tiến hành kê biên tài sản phải có mặt những người:
Bị can, bị cáo hoặc người đủ 18 tuổi trở lên trong gia đình hoặc người đại diện của bị can, bị cáo;
Đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi có tài sản kê biên;
Người chứng kiến;
Người tiến hành kê biên phải lập biên bản, ghi rõ tên và tình trạng tài sản bị kê biên. Biên bản được lập phải có đầy đủ nội dung theo quy định của pháp luật, được đọc lại cho những người có mặt nghe và cùng ký tên. Ý kiến, khiếu nại của bị can, bị cáo, người từ đủ 18 tuổi trở lên hoặc người đại diện của bị can, bị cáo liên quan đến việc kê biên được ghi vào biên bản, có chữ ký xác nhận của họ và của người tiến hành kê biên.
Biên bản kê biên được lập thành bốn bản, trong đó một bản giao ngay cho bị can, bị cáo, người từ đủ 18 tuổi trở lên hoặc người đại diện của bị can, bị cáo sau khi kê biên xong, một bản giao ngay cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi có tài sản bị kê biên, một bản gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và một bản đưa vào hồ sơ vụ án. Phong toả tài khoản:
Phong toả tài khoản chỉ áp dụng đối với người bị buộc tội về tội mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tiền, bị tịch thu tài sản hoặc để đảm bảo bồi thường thiệt hại khi có căn cứ xác định người đó có tài khoản tại tổ chức tín dụng hoặc tại Kho bạc nhà nước. Phong toả tài khoản cũng được áp dụng đối với tài khoản của người khác nếu có căn cứ cho rằng số tiền trong tài khoản đó liên quan đến hành vi phạm tội của người bị buộc tội.
Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam; Thẩm phán chủ toạ phiên toà có quyền ra lệnh phong toả tài khoản. Lệnh phong toả tài khoản phải được thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành.
Chỉ phong toả tài khoản tương ứng với mức có thể bị phạt tiền, bị tịch thu tài sản hoặc bồi thường thiệt hại. Người được giao thực hiện lệnh phong toả, quản lý tài khoản bị phong toả mà giải toả việc phong toả tài khoản thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Khi tiến hành phong toả tài khoản, cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền phải giao quyết định phong toả tài khoản cho tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc nhà nước đang quản lý tài khoản của người bị buộc tội hoặc tài khoản của người khác có liên quan đến hành vi phạm tội của người bị buộc tội. Việc giao, nhận lệnh phong toả tài khoản phải được lập thành biên bản theo quy định.
Ngay sau khi nhận được lệnh phong toả tài khoản, tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc nhà nước đang quản lý tài khoản của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc tài khoản khác có liên quan đến hành vi phạm tội của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo phải thực hiện ngay việc phong toả và tài khoản và lập biên bản về việc phong toả tài khoản.
Biên bản về việc phong toả tài khoản được lập thành năm bản, trong đó một bản được giao ngay cho người bị buộc tội, một bản gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, một bản đưa vào hồ sơ vụ án, một bản lưu tại tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc nhà nước. Đối với bị hại trong vụ án hình sự có liên quan đến yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi của người bị buộc tội gây ra, nếu trong quá trình tham gia tố tụng bị hại có yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp kê biên tài sản hoặc phong toả tài khoản của người bị buộc tội như trên kịp thời thì khả năng thu hồi lại được tài sản, giảm thiểu thiệt hại là rất cao, tạo điều kiện trong giai đoạn thi hành phần dân sự trong vụ án hình sự theo quy định của Luật Thi hành án dân sự.
Vậy, đối người bị buộc tội nếu chẳng may bị áp dụng biện pháp kê biên tài sản, phong toả tài khoản trái pháp luật thì phải làm gì để khôi phục lại quyền và lợi ích hợp pháp của mình? Người bị buộc tội cần nắm vững quy định của pháp luật có liên quan đến căn cứ huỷ bỏ kê biên tài sản, phong toả tài khoản để bảo vệ quyền lợi của mình đã được quy định như sau:
Huỷ bỏ biện pháp kê biên tài sản, phong toả tài khoản:
Biện pháp kê biên tài sản, phong toả tài khoản đang áp dụng phải được huỷ bỏ khi thuộc một trong các trường hợp:
Đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án;
Đình chỉ điều tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can;
Bị cáo được Toà án tuyên không có tội;
Bị cáo không bị phạt tiền, tịch thu tài sản và bồi thường thiệt hại;
Cơ quan điều tra, Toà án, Viện kiểm sát huỷ bỏ biện pháp kê biên tài sản, phong toả tài khoản khi thấy không còn cần thiết.
Đối với biện pháp kê biên tài sản, phong toả tài khoản trong giai đoạn điều tra, truy tố thì việc huỷ bỏ hoặc thay thế phải thông báo cho Viện kiểm sát trước khi quyết định.
* Điều kiện đối với người bảo lĩnh:
Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân hoặc tổ chức phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án.
Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc nhận bảo lĩnh.
- Người bảo lãnh là cá nhân:
Cá nhân có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ. Trong trường hợp này thì ít nhất phải có hai người.
Cá nhân nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo phải là người có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Việc bảo lĩnh phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc.
- Người bảo lãnh là tổ chức:
Tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức của mình.
Việc bảo lĩnh phải có xác nhận của người đứng đầu tổ chức.
* Đối với người được bảo lĩnh: phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ:
- Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;
- Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;
- Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam.
* Thời hạn được bảo lĩnh: Thời hạn bảo lĩnh không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. |