Theo quy định của BLTTHS năm 2003, để được tham gia bào chữa trong vụ án, Luật sư bào chữa phải được cấp Giấy chứng nhận người bào chữa. Mỗi giai đoạn tố tụng hình sự (điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm), mỗi cơ quan tiến hành tố tụng cấp Giấy chứng nhận người bào chữa riêng. Điều này gây nên những trở ngại cho người bào chữa tham gia tố tụng, nhất là đối với trường hợp bị can đang bị tạm giam. Cơ quan điều tra thường tạo nên những cản trở cho hoạt động bào chữa.
Khắc phục tình trạng này, BLTTHS 2015 bỏ quy định cấp Giấy chứng nhận người bào chữa, thay vào đó là thủ tục đăng ký bào chữa. - Khi đăng ký bào chữa, người bào chữa phải xuất trình Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu luật sư của người bị buộc tội hoặc của người đại diện, người thân thích của người bị buộc tội;
- Trong thời gian 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ và thấy đủ điều kiện luật định thì vào sổ đăng ký bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa, cơ sở giam giữ và lưu giấy tờ liên quan đến việc đăng ký bào chữa vào hồ sơ vụ án. - Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham gia tố tụng, trừ trường hợp người bị buộc tội từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa; hoặc người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa (Điều 78 BLTTHS).
Để người bào chữa thực hiện nhiệm vụ bào chữa cho người bị buộc tội, Điều 73 BLTTHS quy định rộng hơn quyền của người bào chữa so với BLTTHS 2003 như: - Người bào chữa được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác;
- Có quyền thu thập chứng cứ; kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; - Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác;
- Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra v.v…. BLTTHS 2003 không quy định người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. BLTTHS 2015 đã bổ sung nội dung này bằng quy định người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có thể là: Luật sư. Trong trường hợp này, Luật sư có quyền: - Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; - Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; - Có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; - Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; - Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Điều 83 BLTTHS).
Thứ tư, việc lấy lời khai những người tham gia tố tụng và hỏi cung bị can cũng có những nội dung mới như sau: Việc hỏi cung bị can do Điều tra viên tiến hành ngày sau khi có quyết định khởi tố bị can. Trước khi hỏi cung bị can, Điều tra viên phải thông báo cho Kiểm sát viên và người bào chữa thời gian, địa điểm hỏi cung. Trước khi tiến hành hỏi cung lần đầu, Điều tra viên phải giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 60 của Bộ luật này. Việc này phải ghi vào biên bản. Mỗi lần hỏi cung bị can đều phải lập biên bản.
Nghiêm cấm Điều tra viên, Cán bộ điều tra tự mình thêm, bớt hoặc sửa chữa lời khai của bị can. BLTTHS quy định việc hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, lấy lời khai người bị hại, đương sự, đối chất có thể hoặc phải được ghi âm, ghi hình có âm thanh. Việc ghi âm, ghi hình có âm thanh trong hỏi cung bị can, lấy lời khai, đối chất không được quy định trong BLTTHS 2003.
Trong thực thế đã có một số vụ án hình sự, bị can ra trước phiên tòa khai bị những người có thẩm quyền tố tụng dùng nhục hình, bị mớm cung, bức cung, dụ cung buộc họ phải khai sai sự thật. Để tránh xảy ra những trường hợp này, BLTTHS 2015 quy định: Việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.
Việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Điều 183 BLTTHS). Ngoài ra, việc lấy lời khai của người làm chứng, lấy lời khai của bị hại, đương sự (nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự), đối chất có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh (các điều 187, 188, 189 BLTTHS), tùy theo từng trường hợp cụ thể. Việc sử dụng (nghe, xem) nội dung được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, Điều 313 BLTTHS 2015 quy định: Trường hợp cần kiểm tra chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án hoặc khi bị tố cáo, bị bức cung, dùng nhục hình
Hội đồng xét xử quyết định việc cho nghe, xem nội dung được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh liên quan tại phiên tòa. Nghị quyết số 110/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội giao Bộ trường Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trường Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng Bộ Nội vụ xây dựng đề án về cơ sở vật chất, bộ máy, cán bộ và lộ trình cụ thể thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Chậm nhất đến ngày 01/01/2019 thì thực hiện thống nhất việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can trên phạm vi toàn quốc.
Thứ năm, những quy định mới về xét xử vụ án có liên quan đến luật sư bào chữa. Luật sư bào chữa phải có mặt tại phiên tòa để bào chữa cho người mà mình đã nhận bào chữa. Người bào chữa có thể gửi trước bản bảo chữa cho Tòa án. Trường hợp người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Tòa án phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa.
Nếu người bào chữa vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan hoặc được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử. Trường hợp chỉ định người bào chữa quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này mà người bào chữa vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa.
Tại phiên tòa, Luật sư bào chữa có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình để đối đáp với Kiểm sát viên về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Luật sư bào chữa có quyền đưa ra đề nghị của mình liên quan đến việc giải quyết vụ án. Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của người bào chữa.
Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, phải tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, Luật sư bào chữa tranh luận, trình bày hết ý kiến nhưng có quyền cắt những ý kiêns không liên quan đến vụ án và ý kiến lặp lại.
Chủ tọa phiên tòa yêu cầu Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến của Luật sư bào chữa mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận. Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của Kiểm sát viên, luật sư bào chữa tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án.
Nguồn: Tầm nhìn. |