căn cứ khách quan gồm căn cứ vào số lượng người tham gia trong vụ
án, căn cứ vào tính liên kết về hành vi cùng thực hiện một tội phạm, căn cứ vào
hậu của do vụ án đồng phạm gây ra.
- Căn cứ và số lượng người
trong vụ án: Điều 20 Bộ luật Hình sự quy định trong vụ án đồng phạm phải có từ
hai người trở lên, những người này đều phải có đủ năng lực trách nhiệm hình sự,
đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.
- Căn cứ vào tính liên kết về
hành vi: Những người trong vụ án đồng phạm phải cùng nhau thực hiện một tội
phạm. Hành vi của người đồng phạm này liên kết chặt chẽ với hành vi của người
đồng phạm kia. Hành vi của những người đồng phạm phải hướng về một tội phạm,
phải tạo điều kiện, hỗ trợ cho nhau để thực hiện một tội phạm thuận lợi, nói
cách khác hành vi của đồng phạm này là tiền đề cho hành vi của đồng phạm kia.
Hành vi của tất cả những người trong vụ án đồng phạm đều là nguyên nhân dẫn đến
hậu quả tác hại chung của tội phạm.
- Căn cứ vào hậu quả tác hại:
Hậu quả tác hại do tội phạm gây ra trong vụ án đồng phạm là hậu quả chung do
toàn bộ những người đồng phạm gây ra. Hành vi của mỗi người trong vụ án đề là
nguyên nhân gây ra hậu quả chung ấy, mặc dù có người trực tiếp, người gián tiếp
gây ra hậu quả tác hại. Đây là đặc điểm về quan hệ nhân quả trong vụ án đồng
phạm.
Thứ hai: Căn cứ chủ quan. Tất cả những người trong vụ án đồng phạm phải
có hình thức lỗi cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Tất cả họ đều thấy rõ hành
vi của toàn bộ những người trong vụ án đềy nguy hiểm cho xã hội. Mỗi người đồng
phạm đều thấy trước hành vi của mình và hành vi của người đồng phạm khác trong
vụ án đồng phạm là nguy hiểm, thấy trước hành vi của tất cả những người đòng
phạm đều là nguyên nhân dẫn đến hậu quả tác hại. Vụ án có yếu tố đồng phạm khác
vụ án thông thường do một người thực hiện ở những điểm sau đây:
- Vụ án có yếu tố đồng phạm có
hai người trở lên, còn vụ án khác chỉ có một người thực hiện.
- Thông thường vụ án đồng phạm
có tính chất, mức độ ngy hiểm hơn vụ án do một người thực hiện.
- Vụ án đồng phạm có hình thức
lõi cố ý, còn vụ án do một người thực hiện có thể cố ý hoặc vô ý.
- Hành vi của những người trong
vụ án đồng phạm có sự liên kết chặt chẽ để cùng thực hiện một tội phạm, còn
hành vi của người phạm tội đơn lẻ không liên kết với ai.
- Hậu quả tác hại trong vụ án
đồng phạm là hậu quả chung do toàn bộ những người đồng phạm gây ra, hậu quả tác
hại trong vụ án do một người thực hiện là hậu quả riêng do chính hành vi của
người đó gây ra.
Có thể lấy ví dụ để phân biệt hai trường hợp mà bạn thắc mắc như sau:
Hai người A và B cùng thực hiện một hành vi đó là trộm cắp tài sản nhưng sẽ có
hai trường hợp sau:
Trường hợp 1 nếu hai người này có sự chuẩn bị
trước, bàn bạc thảo luận với nhau về thời gian, địa điểm, phương thức, cách
thức... thực hiện tội phạm thì hai người A và B trong trường hợp này là đồng
phạm.
Trường hợp 2 là A và B không hứa hẹn, không
có sự chuẩn bị trước mà cùng trộm đồ của gia đình nào đó thì hành vi của A và B
trong trường hợp này không được coi là đồng phạm. Trong trường hợp này A và B
sẽ bị truy tố độc lập về tội trộm cắp tài sản. Vì thế có thể phân biệt trường
hợp này với đồng phạm với những lí do sau:
- Với loại tội ở trường hợp 2 thì tội phạm
không có mốt liên hệ với nhau, không cùng nhau vạch ra kế hoạch, cách thức và
phân công nhiệm vụ rõ ràng trong vụ án...
- Với đồng phạm thì hoàn toàn ngược lại với
trường hợp 1 trên. Các đối tượng trong đồng phạm thì có mối quan hệ gắn bó,
liên kết với nhau. Trước khi hành động thì các đối tượng này đã vạch sẵn kế
hoạch cho từng người, từng giai đoạn thực hiện....
Hiện nay theo quy định của Bộ luật hình sự
thì:
"Đồng phạm là trường hợp có hai người
trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.”
Theo đó đồng phạm là một khái niệm pháp lý
nói lên quy mô tội phạm, được thực hiện trong một vụ án có nhiều người tham
gia, có sự kết cấu, liên kết chặt chẽ giữa những đối tượng đó.
Có hai loại đồng phạm: là đồng phạm giản đơn
và đồng phạm có tổ chức
- Đồng phạm giản đơn: là tất cả những người
cùng thực hiện một tội phạm đều là người thực hành
- Đồng phạm có tổ chức là đồng phạm có sự câu
kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Trong vụ đồng phạm tùy
vào quy mô và tính chất mà có thể có những người giữ vai trò khác nhau: người
tổ chức, người xúi giục, người thực hành, người giúp sức
+ Phạm tội có tổ chức,
là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra
kế hoạch để thực hiện một tội phạm, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm
đầu. Đây còn là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của
những người tham gia. Trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và
phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu
+ Người thực hành là
người trực tiếp thực hiện tội phạm. Trực tiếp thực hiện tội phạm là trực tiếp
có hành vi thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm như: trực tiếp cầm dao
chém nạn nhân, cầm súng bắn nạn nhân, trực tiếp chiếm đoạt tài sản, trực tiếp
nhận hối lộ v.v… Người thực hành là người có vai trò quyết định việc thực hiên
tội phạm, vì họ là người trực tiếp thực hiên tội phạm. Dù là đồng phạm giản đơn
hay phạm tội có tổ chức thì bao giờ cũng có người thực hành. Nếu không có
người thực hành thì tội phạm chỉ dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, mục
đích tội phạm không được thực hiện;
+Người xúi dục là người
kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. Hành vi kích động, dụ
dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm chỉ được coi là người đồng phạm
trong vụ án có tổ chức, khi hành vi xúi dục có liên quan trực tiếp đến toàn bộ
hoạt động tội phạm của những người đồng phạm khác và người thực hiện tội phạm
trước khi bị xúi dục chưa có ý định tội phạm, vì có người khác xúi dục nên họ
mới nảy sinh ý định tội phạm. Nếu việc xúi dục không liên quan trực tiếp đến
hoạt động tội phạm của những người đồng phạm khác và người thực hiện tội phạm
đã có sẵn ý định tội phạm, thì không phải là người xúi dục trong vụ án có đồng
phạm (phạm tội có tổ chức). Tuy nhiên, nếu xúi dục trẻ em dưới 14 tuổi phạm
tội, người không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm, thì hành
vi xúi dục được coi là hành vi thực hành thông qua hành vi của người không chịu
trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này, người không phải chịu trách nhiệm
hình sự trở thành công cụ để người xúi dục thực hiện tội phạm. Nếu xúi dục trẻ
em từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tội phạm thì người xúi dục còn phải chịu tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “xúi dục người chưa thành niên tội
phạm”
+ Người giúp sức:
là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội
phạm. Trong 1 vụ án có đồng phạm, vai trò của người giúp sức cũng rất quan
trọng, nếu không có người giúp sức thì người thực hiện tội phạm cũng gặp khó
khăn. Ví dụ: H hứa với T sẽ tiêu thụ toàn bộ số tài sản nếu T trộm cắp được. Có
sự hứa hẹn của H nên đã thúc đẩy T quyết tâm phạm tội vì đã có nơi tiêu thụ tài
sản trộm cắp được.
Người giúp sức có thể giúp bằng lời khuyên,
lời chỉ dẫn, cung cấp phương tiện phạm tội hoặc khắc phục những trở ngại cho
việc thực hiện tội phạm, hứa che giấu người phạm tội, phương tiện, xóa dấu vết,
hứa tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có.
Khoản 2 Điều 2 Bộ luật hình sự
năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 có quy định về người xúi giục
như sau:
"Người
xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.”
Đặc điểm
của người xúi giục là tác động đến tư tưởng và ý chí của người khác, khiến
người này phạm tội. Người xúi giục có thể là người đã nghĩ ra việc phạm tội và
đã thúc đẩy cho tội phạm có được thực hiện thông qua người khác. Do vậy, có thể
gọi người xúi giục là tác giả tinh thần của tội phạm. Nhưng người xúi giục cũng
có thể chỉ có tác động thúc đẩy người khác thực hiện ý định phạm tội đã có.
Người xúi giục cũng có thể cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm nhưng cũng
có thể không. Sự xúi giục có thể được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn như kích
động, lôi kéo, cưỡng ép, dụ dỗ, lừa phỉnh. Trong vụ án cụ thể, việc nghiên cứu
các thủ đoạn của người xúi giục là cần thiết, một mặt để xác định là chính
những biện pháp ấy đã tác động đến người bị xúi giục, đưa người này đến chỗ
phạm tội. Mặt khác cũng để thấy là người bị xúi giục, tuy có bị thúc đẩy nhưng
đã tự ý mình phạm tội.
Hành vi
xúi giục phải trực tiếp, nghĩa là kẻ xúi giục phải nhằm vào một hoặc một số
người nhất định. Việc kêu gọi, hô hào mà không hướng tới những người xác định
thì không phải là hành vi xúi giục.
Hành vi
xúi giục phải cụ thể, nghĩa là phải nhằm gây ra việc thực hiện tội phạm nhất
định. Việc truyền bá, phổ biến, gieo rắc những tư tưởng xấu cho một người hoặc
một số người và khiến những người này đi vào con đường phạm tội cũng không phải
là hành vi xúi giục trong đồng phạm mà chỉ có thể cấu thành tội độc lập khác
như tội dụ dỗ, ép buộc… người chưa thành niên phạm tội (Điều 252 Bộ luật hình
sự).
Về mặt chủ
quan, cần xác định người xúi giục cần có ý định rõ ràng thúc đẩy người phạm
tội. Những người có lời nói hoặc việc làm có thể gây ảnh hưởng đến việc phạm
tội của người khác nhưng không có ý định thúc đẩy người này phạm tội thì cũng
không phải là người xúi giục.
Hành vi
xúi giục có mức độ nghiêm trọng khác nhau, tùy bản chất của người xúi giục và
người bị xúi giục cũng như tùy mối quan hệ giữa họ với nhau. Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn, tôn giáo, tín ngưỡng, sự nhẹ dạ của những người chưa thành niên để
thúc đẩy họ phạm tội là những trường hợp nghiêm trọng.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 20 Bộ luật hình sự thì Đồng phạm là
trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
Đồng phạm là một khái niệm pháp lý nói lên
quy mô tội phạm, được thể hiện trong một vụ án có nhiều người tham gia. Tuy
nhiên, không phải cứ có nhiều người tham gia là đồng phạm, mà nhiều người tham
gia đó phải cố ý cùng thực hiện một tội phạm, nếu có nhiều người phạm tội nhưng
không cùng thực hiện một tội phạm thì không gọi là đồng phạm. Ví dụ: A cắt khoá
vào nhà kho lấy trộm một chiếc ti vi, B nhìn thấy, đợi A bê ti vi ra ngoài sau
đó lẻn vào nhà kho lấy trộm một chiếc quạt bàn và một số phụ tùng xe máy. khi
ra khỏi kho được 200 m thì cả A và B đều bị bảo vệ cơ quan phát hiện bắt giữ.
Tuy cả A và B đều thực hiện tội trộm cắp tài sản nhưng không cùng thực hiện,
nên không coi trường hợp tội phạm của A và B là đồng phạm.
Chế định đồng phạm quy định trong Bộ
luật hình sự có hai loại mà theo khoa học luật hình sự gọi là đồng phạm giản
đơn và đồng phạm phức tạp (phạm tội có tổ chức).
Đồng phạm giản đơn là trường hợp
tất cả những người cùng thực hiện một tội phạm đều là người thực hành. Ví dụ: A
rủ B và C vào trong kho của Công ty H lấy trộm một máy bơm nước.
Phạm tội có tổ chức là hình thức
đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm
(khoản 3 Điều 20 Bộ luật hình sự)
Phạm tội có tổ chức, là trường hợp nhiều
người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực
hiện một tội phạm, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu.
Phạm tội có tổ chức, là một hình thức đồng
phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia. Trong đó mỗi
người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người
cầm đầu.
Phạm tội có tổ chức khác với tổ chức tội
phạm. Hình luật xã hội chủ nghĩa không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một
tổ chức (pháp nhân), vì vậy, không có khái niệm tổ chức tội phạm trong luật
hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử vẫn có thể có một tập thể
một tổ chức tội phạm, tức là có sự thống nhất từ người đứng đầu đến các nhân
viên thực hiện một tội phạm, nhưng khi truy cứu trách nhiệm hình sự thì chỉ
truy cứu từng các nhân trong tổ chức đó. Ví dụ: Trong vụ án Tân Trường Sanh, có
một đơn vị là Phòng chống buôn lậu thuộc Cục hải quan thành phố Hồ Chí Minh đã
tổ chức nhận hối lộ. Việc nhận hối lộ ở đây không phải do từng cá nhân thực
hiện mà là do phòng thực hiện, người đưa hối lộ cũng không đưa cho một cá nhân
nào mà đưa chung cho cả Phòng, Phòng cử người nhận tiền hối lộ và chia cho tất
cả những người khác theo phương thức người có chức vụ nhiều hơn nhân viên,
người có thời gian công tác ở Phòng lâu hơn được chia nhiều hơn. Tuy Phòng
chống buôn lậu không phải là tổ chức chuyên tội phạm, nhưng nếu xét riêng về
hành vi nhận hối lộ thì họ là tổ chức nhận hối lộ.
Hiện nay, cũng có ý kiến cho rằng, Bộ luật
hình sự nước ta cần quy định việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với “nhóm
tội phạm có tổ chức” để trừng trị một số đối tượng thành lập hoặc tham gia nhóm
tội phạm có tổ chức để thực hiện một số tội đặc biệt nguy hiểm như: khủng bố,
giết người rửa tiền, buôn bán người, sản xuất, mua bán trái phép chất ma tuý…
Tuy nhiên, theo tôi, cần cân nhắc kỹ vấn đề này, vì Bộ luật hình sự đã quy định
các hành vi phạm tội khủng bố, rửa tiền, buôn bán người, sản xuất và mua bán
trái phép chất ma tuý và một số tội phạm khác. Đối với các tội phạm này, nếu là
phạm tội có tổ chức thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt
nặng hơn. Nếu quy định thêm một hành vi phạm tội mới mà hành vi phạm tội đó đã
được quy định tại các điều luật thì áp dụng thế nào ? Khái niệm tội phạm theo
Điều 8 Bộ luật hình sự đã nêu rất rõ, còn phạm tội có tổ chức Điều 20 Bộ luật
hình sự cũng nêu cụ thể đã bao hàm cả nhóm phạm tội có tổ chức rồi. Giả thiết,
có một nhóm được thành lập ra để thực hiện một hoặc một số tội phạm nào đó
nhưng vì lý do khách quan mà chưa thực hiện được thì đã thuộc trường hợp chuẩn
bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt và tuỳ trường hợp mà bị xử lý theo quy định
của Bộ luật hình sự. Ngoài ra, Bộ luật hình sự còn có chế định “tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội” (Điều 19). Vậy “nhóm tội phạm có tổ chức” chưa thực
hiện hành vi phạm tội mà tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội” thì giải quyết
thế nào, đó là chưa kể đến việc xác định vai trò của từng người trong “nhóm tội
phạm có tổ chức đó”.
Phạm tội có tổ chức khác với người tổ chức
trong đồng phạm, vì người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu chỉ huy việc thực
hiện tội phạm, nói lên vai trò nhiệm vụ của một người trong một vụ án có đồng
phạm, còn phạm tội có tổ chức lại nói lên quy mô của tính chất, mức độ
nguy hiểm mà tội phạm đó đã xảy ra. Tất nhiên trong phạm tội có tổ chức có
người tổ chức (người cầm đầu),
Phạm tội có tổ chức cũng khác với hành vi tổ
chức trong một số tội phạm như tổ chức tảo hôn (Điều 148) tổ chức sử dụng trái
phép chất ma tuý (Điều 197), tổ chức đánh bạc (Điều 249), tổ chức người khác
trốn đi nước người hoặc ở lại nước ngoài trái phép (Điều 275). Phạm tội có tổ
chức là nói đến quy mô, tính chất của tội phạm, còn khái niệm "tổ
chức" trong các tội phạm cụ thể nêu ở trên là hành vi phạm tội. Phạm tội
có tổ chức, nhất thiết phải có từ hai người trở lên, là một hình thức đồng phạm
có sự cấu kết chặt chẽ, có sự phân công trách nhiệm...còn tổ chức đánh bạc, tổ
chức tảo hôn, tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý... có thể chỉ có một người
cũng có thể thực hiện được hành vi phạm tội tổ chức...
Trong vụ án đồng phạm có tổ chức tuỳ thuộc
vào quy mô và tính chất mà có thể có những người giữ những vai trò khác nhau
như: Người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức.
Người tổ chức là người chủ
mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Chỉ trong trường hợp phạm
tội có tổ chức mới có người tổ chức. Người tổ chức có thể có những hành vi như:
khởi xướng việc tội phạm; vạch kế hoạch thực hiện tội phạm cũng như kế hoạch
che giấu tội phạm; rủ rê, lôi kéo người khác cùng thực hiện tội phạm; phân công
trách nhiệm cho những người đồng phạm khác để thống nhất thực hiện tội phạm;
điều khiển hành động của những người đồng phạm; đôn đốc, thúc đẩy người đồng
phạm khác thực hiện tội phạm...
Người thực hành là người trực
tiếp thực hiện tội phạm. Trực tiếp thực hiện tội phạm là trực tiếp có hành vi
thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm như: trực tiếp cầm dao chém nạn
nhân, cầm súng bắn nạn nhân, trực tiếp chiếm đoạt tài sản, trực tiếp nhận hối
lộ v.v... Người thực hành là người có vai trò quyết định việc thực hiên tội
phạm, vì họ là người trực tiếp thực hiên tội phạm. Dù là đồng phạm giản đơn
hay phạm tội có tổ chức thì bao giờ cũng có người thực hành. Nếu không có
người thực hành thì tội phạm chỉ dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, mục
đích tội phạm không được thực hiện; hậu quả vật chất của tội phạm chưa xảy ra
và trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác sẽ được xem xét theo
quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự (chỉ chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự). Trách
nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác rõ ràng phụ thuộc vào hành vi của
của người thực hành.
Thực tiễn xét xử cho thấy, không phải bao giờ
người thực hành cũng thực hiện đúng những hành vi do các đồng phạm khác đặt ra,
có trường hợp người thực hành tự ý không thực hiện tội phạm hoặc tự ý nửa chừng
chấm dứt việc thực hiên tội phạm, nhưng thực tế cũng không ít trường hợp người
thực hành tự ý thực hiện những hành vi vượt quá yêu cầu của các đồng phạm khác
đặt ra, Khoa học luật hình sự gọi là hành thái quá của người thực hành trong vụ
án có đồng phạm. Luật hình sự của nhiều nước ghi ró chế định “thái quá’ của
người thực hành trong Bộ luật hình sự hoặc trong các văn bản luật hình sự. ở
nước ta chế định này chưa được ghi trong Bộ luật hình sự, nhưng về lý luận cũng
như thực tiến xét xử đều thừa nhận chế định này khi cần phải xem xét đến trách
nhiệm hình sự của người thực hành cũng như những người đồng phạm khác
trong một vụ án có đồng phạm. Hiện nay, đa số ý kiến cho rằng khi Bộ luật hình
sự của nước ta được sửa đổi bổ sung một cách căn bản, cần quy định chế định
“hành vi thái quá của người thực hành” cùng với chế định đồng phạm đã được quy
định tại Điều 20 Bộ luật hình sự.
Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử đã khẳng
định, hành vi thái quá của người thực hành trong vụ án có đồng phạm và hậu quả
do hành vi thái quá đó gây ra chỉ người thực hành phải chịu trách nhiệm hình sự
còn những người đồng phạm khác không phải chịu về sự “thái quá” đó. Như vây,
khi nghiên cứu tình trạng loại trừ trách nhiệm hình sự của những người đồng
phạm khác đối với hành vi thái quá của người thực hành chúng ta chỉ có thể
nghiên cứu nội dung của sự “thái quá” mà người thực hành đã gây ra, từ đó xác
định trách nhiệm hình sự của người thực hành về hành vi thái quá đó mà loại trừ
trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác.
Hành vi thái quá của người thực hành là
trường hợp người thực hành tự ý thực hiện hành vi phạm tội mà những người đồng
phạm khác không mong muốn. Hay nói cách khác là hành vi phạm tội của người thực
hành mà những người đồng phạm khác không có ý định thực hiện. Ví dụ: Trần Quang
A, Nguyễn Văn C, Bùi Quốc T, Bùi Quốc L vì thua bạc nên Bùi Quốc T bàn bạc với
đồng bọn về nhà mình doạ mẹ của T để buộc mẹ của T phải đưa chìa khoá tủ mở lấy
tiền tiếp tục đi đánh bạc, cả bọn đồng ý. Vì T và L là anh em và là con của bà
M, nên chúng giao cho A và C trực tiếp thực hiện. Trước khi đi cả bon thống
nhất chỉ doạ bà M để bà đưa chìa khoá tủ chứ không được làm bất cứ điều gì gây
đau đớn cho bà. T và L còn nói, nếu má tao có sao chúng mày đừng có trách. Sau
khi đã bàn bạc thống nhất, vào lúc nửa đêm A và C lẻn vào nhà bà M, lợi dụng
lúc bà M đang ngủ, A dùng tay chẹn vào cổ bà M, còn C doạ : “chìa khoá tủ để ở
đâu không đưa đây chúng tao giết !”. Bị tấn công bất ngờ, bà M không kịp trở
tay buộc phải đưa chùm chìa khoá cho C. Trong lúc C đang mở tủ để lục soát tìm
tiền, thì A dùng một quả chanh nhét vào miệng bà M và lấy khăn bịt miệng bà M
lại, nhưng vì bà M giãy giụa làm quả chanh trong miệng bật ra, đồng thời bà M
kêu cứu. Sợ bị lộ, A vật bà M xuống ngồi lên bụng bà, rồi dùng tay bóp cổ bà
cho đến khi bà M không còn giãy giụa nữa A mới bỏ tay ra. C thấy A hành động
như vậy hỏi, sao mày làm thế, thì A trả lời, bà ấy chỉ xỉu thôi không
chết đâu mà sợ. Cùng lúc này C đã lục tủ lấy được bọc tiền của bà M rồi cả hai
bỏ chạy ra điểm hẹn với T và L. Thấy A và C đến T hỏi ngay má tao có sao không,
cả A và C đều trả lời không việc gì hết. T bào L về nhà xem tình hình còn T, A
và C tiếp tục đi đánh bạc. Khi L về nhà thấy má mình bất động đã đưa đi bệnh
viện cấp cứu, nhưng bà M đã chết. Trường hợp này, ngay từ khi bàn bạc phạm tội,
chúng thống nhất chỉ làm cho bà M sợ để bà đưa chìa khoá tủ, nhưng trong khi
thực hiện tội phạm A đã có hành vi thái quá làm cho bà M bị chết, vì vậy chỉ có
A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người, cong C, T, L chỉ bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản của công dân.
Thực tiễn xét xử cho thấy hành vi thái quá
của người thực hành không đơn giản mà nó được biểu hiện dưới nhiều khía cạnh
khác nhau như: lúc đầu chỉ bàn cướp nhưng khi thực hiện lại giết người; lúc đầu
chỉ bàn đánh cho một trận nhưng khi thực hiện lại lấy tài sản của người bị
đánh; lúc đầu bàn bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản nhưng khi thực hiện việc bắt
cóc lại hiếp dâm; lúc đầu chỉ bàn trộm trâu nhưng khi thực hiện lại trộm cả lợn
và gà v.v...Chính vì tội phạm xảy ra muôn hình muôn vẻ nên khoa học luật hình
sự chia hành vi thái quá ra làm hai loại chính: Thái quá về chất lượng của hành
vi và thái quá về số lượng của hành vi.
- Thái
quá về chất lượng của hành vi là trường hợp người thực hành trong vụ
án có đồng phạm thực hiện hành vi thái quá đó không cùng tính chất với tội phạm
mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện, nếu hành vi thái quá cấu
thành tội phạm thì tội phạm đó không cùng tính chất với tội phạm mà những người
đồng phạm khác có ý định thực hiện. Ví dụ: Trần Văn Tuấn bàn với Đặng Văn Hùng
và Phạm Quốc Hưng chặn đường để cướp của, nhưng trước khi đi, Hùng ở nhà vì
phải đưa con đi bệnh viên, nên chỉ có Tuấn và Hưng thực hiện. Khi phát hiện
thấy người đi xe máy chạy qua, Hưng và Tuấn ra chặn lại để cướp tài sản thì
phát hiện người đi xe máy là một phụ nữ, nên cả hai tên nảy ý định hiếp dâm và
chúng đã thực hiện hành vi hiếp dâm, đồng thời lấy của nạn nhân sợi dây chuyền.
Hành động xong, Hưng và Tuấn về kể cho Hùng nghe đã cướp được dây chuyền vàng,
hôm sau Hùng mang dây chuyền đi bán thì bị phát hiện và bị bắt giữ. Trong quá
trình điều tra, Hùng mới biết ngoài hành vi cướp tài sản thì Hưng và Tuấn còn
hiếp dâm người bị hại. Hành vi thái quá của Hưng và Tuấn là hành vi thái quá về
chất lượng vì tội hiếp dâm không cùng tính chất với tội cướp tài sản.
Việc xác định thái quá về chất lượng không mấy khó khăn và cũng chính vì thế mà
xác định trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm
khác không phải là người thực hành cũng dễ dàng hơn so với trường hợp thái quá
về số lượng hành vi.
- Thái
quá về số lượng hành vi là trường hợp người thực hành trong vụ án có
đồng phạm thực hiện hành vi thái quá, mà hành vi đó cùng tính chất với hành vi
phạm tội mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện. Về lý luận cũng như
thực tiễn xét xử loại thái quá này rất khó xác định cho nên không ít trường hợp
rõ ràng là người thực hành trong vụ án có đồng phạm có hành vi thái quá nhưng
những người đồng phạm khác vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi thái
quá đó. Do đó để phân biệt hành vi đã thái quá hay chưa cần phải nghiên cứu nó
ở những mức độ khác nhau.
Trường hợp thứ nhất:
Hành vi thái quá của người thực hành trong vụ
án có đồng phạm đã cấu thành một tội phạm khác và tội phạm này cùng tính chất
với tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện. Ví dụ: Do có
thù tức với Đặng Văn Hoà, nên Trần Tuấn Anh, Phạm Quốc Bảo và Nguyễn Hồng Cang
bàn bạc tìm Hoà để đánh cho Hoà một trận. Khi gặp Hoà, cả ba tên lao vào dùng
chân tay đấm đá cho tới khi Hoà ngã gục. Thấy vậy, Bảo và Cang nói: “thôi thế
là đủ đừng đánh nữa không thì nó chết mất”, rồi Bảo và Cang bỏ đi. Nhưng Trần
Tuấn Anh vẫn ở lại tiếp tục dùng gót chân thúc mạnh vào hai mạng sườn và dận
lên ngực Hoà cho tới khi Hoà bất tỉnh mới thôi. Hậu quả là Hoà bị chết. Kết quả
giám định kết luận Hoà bị chết là do bị vỡ lá lách, chảy máu trong, phổi xung
huyết mất máu cấp. Với hành vi phạm tội như trên Toà án cấp sơ thẩm và phúc
thẩm đều kết án Trần Tuấn Anh, Phạm Quốc Bảo và Nguyễn Hồng Cang về tội giết
người. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và Hội đồng giám đốc thẩm đã quyết định:
kết án Trần Tuấn Anh về tội giết người còn Phạm Quốc Bảo và Nguyễn Hồng Cang
không bị kết án về tội giết người mà chỉ bị kết án về tội cố ý gây thương tích vì
xác định hành vi của Trần Tuấn Anh là hành vi thái quá nên Bảo và Cang không
phải chịu về hậu quả do hành vi thái quá của Tuấn Anh gây ra. Trong vụ án này,
hành vi thái quá của Trần Tuấn Anh đã cấu thành tội phạm khác (tội giết người)
nhưng hành vi này cùng tính chất với hành vi của những người đồng phạm khác
(cùng đấm đá, cùng xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ của con người ).
Trường hợp thứ hai:
Hành vi thái quá của người thực hành chưa cấu
thành tội phạm khác mà nó vẫn là tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý
định thực hiện. Ví dụ: Lê Khắc Thâu là thủ kho, Trần Thị Mai là kế toán và Vũ
Văn Ban là bảo vệ Công ty kinh doanh tổng hợp tỉnh bàn với nhau về việc vào lấy
trộm 100 Kg mì chính (bột ngọt) ở kho do Thâu quản lý đem bán lấy tiền chia
nhau. Thâu và Ban được phân công trực tiếp vào kho lấy mì chính còn Mai có
nhiệm vụ sửa chữa sổ sách để hợp thức hoá việc thiếu 100 Kg mì chính. Nhưng
trước khi vào kho lấy mì chính Thâu bàn với Ban lấy thêm 50 Kg để chia nhau mà
không cho Mai biết. Trường hợp phạm tội này, rõ ràng Ban và Thâu có hành vi
thái quá, nhưng hành vi thái quá này không cấu thành một tội phạm khác riêng
biệt, cả Mai, Thâu và Ban đều tội phạm tham ô tài sản, nhưng tính chất và mức
đội tội phạm của Ban và Thâu có khác Mai; trách nhiệm hình sự của Mai chỉ phải
chịu cùng với Thâu và Ban về 100 Kg mì chính, còn Ban và Thâu phải chịu trách
nhiệm hình sự về 150 Kg mì chính.
Sự phân biệt hai loại hành vi thái quá như
trên chỉ có ý nghĩa trong công tác nghiên cứu khoa học, còn thực tiễn xét xử dù
là thái quá về chất lượng hay về số lượng của hành vi thì những người đồng phạm
khác đều không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi thái quá của người
thực hành.
Đối với các vụ án phạm tội có tổ chức, khi
xác định những người đồng phạm khác có phải chịu trách nhiệm về hành vi thái
quá của người thực hành hay không cũng có nhiều phức tạp. Bởi vì trong quá
trình thực hiện tội phạm, người thực hành có nhiều hành vi nhằm đạt được mục
đích mà những người đồng phạm khác mong muốn, trong đó có hành vi được những
người đồng phạm khác biết trước và đồng tình, nhưng cũng có những hành vi không
được những người đồng phạm khác biết trước, không mong muốn hậu quả của những
hành vi đó xảy ra, nhưng có thái độ bỏ mặc, muốn ra sao thì ra. Vậy vấn đề
trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác được xác định như thế
nào khi người thực hành có những hành vi gây ra hậu quả mà mình không biết,
không mong muốn ? Ví dụ: A, B và C chỉ bàn bạc với nhau về việc đến uy hiếp chủ
nhà để cướp tài sản. Khi đi chúng có mang theo dao găm, dây trói, giẻ và chanh
để bịt miệng. Tới nơi, A và B trói chủ nhà, nhét chanh vào miệng chủ nhà, lấy
giẻ buộc lại và giao cho C canh giữ. Thấy giẻ bịt miệng chủ nhà tuột ra, C sợ
chủ nhà kêu cứu, nên đã bóp cổ làm chủ nhà bị chết ngạt. Về trường hợp này, có
ý kiến cho rằng hành vi bóp cổ chủ nhà của C là hành vi thái quá nên C phạm
giết người và cướp tải sản còn A và B không chịu trách nhiệm về hành vi và hậu
quả do hành vi thái quá của C nên chỉ phạm tội cướp tài sản. Tuy nhiên, xem xét
một cách toàn diện thì thấy: Tuy A, B và C không bàn bạc với nhau từ
trước về việc giết người, nhưng A và B bỏ mặc cho C hành động, không quan tâm
đến hậu quả do hành vi của C gây ra miễn là cướp được tài sản; việc C bóp cổ
chủ nhà cũng là nhằm cho A và B thực hiện trót lọt việc lấy tài sản mà cả A và
B đều mong muốn. Do đó, cái chết của chủ nhà do C trực tiếp gây ra nhưng phải
buộc cả A và B cùng phải chịu trách nhiệm hình sự.
Hành vi thái quá của người thực hành, về lý
luận cũng như pháp luật của các nước trên thế giới còn có nhiều cách đánh giá
khác nhau, nhưng qua thực tiễn xét xử ở nước ta cũng như một số nước thừa nhận:
Nếu những người đồng phạm để cho người thực hành hoàn toàn tự do hành động nhằm
đạt được mục đích của tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực
hiện, thì hành mọi hành vi của người thực hành không được coi là hành vi thái
quá và những người đồng phạm khác phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi hành vi
của người thực hành gây ra. Tuy nhiên, khi xem xét hành vi của người thực hành
được tự do hành đồng để đạt được mục đích mà các người đồng phạm khác đặt ra
phải chú ý một điểm là: Hành vi đó phải là dấu hiệu của cấu thành tội phạm mà
tội phạm đó đã được những người đồng phạm khác bàn bạc thống nhất như trường
hợp ví du trên hành vi bóp cổ chủ nhà của C cũng là hành vi vũ lực - dấu hiệu
của tội cướp tài sản, thì những người đồng phạm khác mới phải chịu trách nhiệm
hình sự. Nếu hành vi đó lại là dấu hiệu cấu thành một tội độc lập khác thì hành
vi đó lại được coi là thái quá và những người đồng phạm khác không phải chịu
trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp ví dụ trên, giả thiết C không bóp cổ chủ
nhà chết mà lại hiếp dâm chủ nhà thì hành vi diếp dâm của C là hành vi thái quá
và A, B không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm mà C thực hiện.
Việc để cho người thực hành tự do hành động,
tức là người thực hành không bị ràng buộc bởi bất kỳ sự ràng buộc nào của những
người đồng phạm khác. Nếu những người đồng phạm khác lại có hành vi ngăn cản
hay hành động tích cực để ngăn chặn hậu quả, nhưng người thực hành vẫn cố tình
thực hiện, thì hành vi của người thực hành dù có là dấu hiệu câú thành tội phạm
mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện thì những người này cũng
không phải chịu trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Trương Quang Tuấn, Vũ Minh Hùng và
Hoàng Công Văn bàn bạc đến nhà cậu ruột của Văn để cướp. Văn không trực tiếp
thực hiện mà giao cho Tuấn và Hùng thực hiện. Trước khi đi, Hoàng Công Văn dặn:
chỉ được trói chủ nhà để uy hiếp lấy tài sản chứ không được gây án mạng. Vì sợ
Tuấn và Hùng làm ẩu, Văn đã kiểm tra và giữ lại hai dao găm mà Tuấn và Hùng
định mang theo. Trên đường đến nhà cậu của Văn để cướp, Hùng và Tuấn tự ý về
nhà Hùng lấy một khẩu súng ngắn mà Hùng đã chuẩn bị từ trước, vì Hùng cho rằng
không có vũ khí thì không thể làm gì được. Tới nơi, Hùng và Tuấn dùng súng uy
hiếp bắt trói chủ nhà, rồi lục soát lấy tài sản. Trong khi đang lục soát thì
chủ nhà tự cởi được trói, kêu cứu, Hùng đã dùng súng bắn chết chủ nhà. Trong
trường hợp này hành vi của Hùng cũng là hành vi nhằm thực hiện tội cướp mà Văn
đã bàn bạc từ trước, nhưng Văn đã có những hành động tích cực nhằm hạn chế ngăn
chặn hậu quả nên Văn không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết do Hùng và
Tuấn gây nên.
Thực tiễn xét xử cũng có những trường hợp nếu
chỉ căn cứ vào hành động hoặc lời nói của những người đồng phạm khác (chủ mưu,
tổ chức, xúi dục, giúp sức) thì thấy những người này có ý thức bỏ mặc hậu quả
xảy ra do người thực hành thực hiện nên đã buộc những người này phải chịu trách
nhiệm về hậu quả mà người thực hành gây ra, nhưng căn cứ vào nội dung hành động
và lời nói của những người này thì họ không có ý thức bỏ mặc cho hậu quả do
người thực hành gây ra. Ví dụ: Nguyễn Tiến N là đội phó đội điều tra Công an
huyện Y và Tống Viết Q là điều tra viên được phân công điều tra vụ án mà Hà Văn
T là người tiêu thụ tài sản do ngươì khác tội phạm mà có. Trong qúa trình điều
tra, mặc dù có căn cứ đề xác định rằng T đã tiêu thụ 17 cái mày bơm bị trộm cắp
chứ không phải chỉ có 4 cái như T thừa nhận, nên phải ra lệnh bắt giam T để
tiếp tục làm rõ hành vi phạm tội của T. T được giam chung với một số phạm nhân
trong đó có Bùi Xuân Ph là tên đã có nhiều tiền án tiền sự được các phạm nhân
khác mệnh danh là “đầu gấu” trong buồng giam. Q đã nhiều lần lấy lời khai của T
nhưng T một mực không nhận, N và Q nói với Ph phải đánh cho T một trận thì nó
mới nhận. Để lấy lòng cán bộ điều tra và cũng vì sợ không đánh T thì sẽ không
được yên nên Ph đã tổ chức cho các phạm nhân cùng buồng đánh đập T rát dã man
làm cho T bị ngất xỉu phải đưa đi cấp cứu và bị chết. Khi xem xét trách nhiệm
của Nguyễn Tiến N và Tống Viết Q có ý kiến cho rằng, mặc dù Q và N không có ý
định tước đoạt tính mạng của T từ trước, nhưng đã có ý thức bỏ mặc cho hậu quả
xảy ra không có biện pháp ngăn chặn và việc Ph cùng các phạm nhân khác đánh
chết T là do câu nói của Q và N: “đánh cho nó một trận để nó khai ra sự thật”.
Do đó, N và Q phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người với vai trò xúi
dục. Tuy nhiên, nghiên cứu kỹ nội dung lời nói của N và Q chúng ta thấy, nếu N
và Q để mặc cho bọn Ph đánh chết anh T thì về thực tế không đạt được mục đích
là làm cho T khai ra sự thật, còn về pháp lý nói đánh cho một trận để nó khai
ra chứ không phải đánh cho một trận cho nó biết thế nào là tù tội, hoặc mày cứ
đánh cho nó một trận muốn ra sao thì ra. Vì thế trong trường hợp này việc bọn
Ph đánh quá tay làm anh T bị chết là ngoài mục đích của N và Q, và hành vi của
Ph và đồng bọn là hành vi thái quá của người thực hành nên những người đồng
phạm khác không phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên hành vi của N và Q nói
đánh cho nó một trận cũng tức là mong muốn cho T bị thương tích hoạc bị tổn hại
đến sức khoẻ, nên hành vi của N và Q phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 109 Bộ luật hình sự vì thuộc trường
hợp gây hậu quả chết người.
Tóm lại, vấn đề loại trứ trách nhiệm hình sự
đối với những người đồng phạm khác (không phải là người thực hành) trong vụ án
có đồng phạm, không chỉ có liên quan đến hành vi thái quá của người thực hành
mà còn liên quan đến nhiều chế định khác như: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc tội
phạm, vấn đề lỗi, các điều kiện của đồng phạm và phạm tội có tổ chức.v.v...
nhưng hành vi thái quá của người thực hành lại liên quan trực tiếp đến việc
loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người đồng phạm khác, nên có thể nói hành
vi thái quá của người thực hành chính là điều kiện (căn cứ) để loại trừ trách
nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác.
Người xúi dục là người kính
động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. Hành vi kích động, dụ dỗ,
thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm chỉ được coi là người đồng phạm trong vụ
án có tổ chức, khi hành vi xúi dục có liên quan trực tiếp đến toàn bộ hoạt động
tội phạm của những người đồng phạm khác và người thực hiện tội phạm trước khi
bị xúi dục chưa có ý định tội phạm, vị có người khác xúi dục nên họ mới nảy
sinh ý định tội phạm. Nếu việc xúi dục không liên quan trực triếp đến hoạt động
tội phạm của những người đồng phạm khác và người thực hiện tội phạm đã có sẵn ý
định tội phạm, thì không phải là người xúi dục trong vụ án có đồng phạm (phạm
tội có tổ chức). Ví dụ: Lê Tiến D đi thăm đồng thấy hai tốp thanh niên đang
đuổi đánh nhau, D liền hô: đánh bỏ mẹ chúng nó đi ! nhưng không nói ai đánh ai
và cũng chỉ hô như vậy rồi thôi. Sau đó hai tốp thành niên vẫn đuổi đánh nhau
dẫn đến một thanh niên bị đâm chết. Hành vi của D tuy có vẻ xúi dục người khác,
nhưng khi D có hành vi xúi dục thì ý định tội phạm của hai tốp thanh niên đã có
sẵn từ trước nên hành vi xúi dục của D không có ý nghĩa gì đến việc phạm tội
của hai tốp thanh niên này, dù D có hô hay không hô câu "đánh bỏ mẹ nó
đi" thì cũng không làm thay đổi ý định tội phạm của só thanh niên này, nên
không thể coi D là người xúi dục được.
Người xúi dục là người phạm tội giấu mặt, dân
gian thường gọi là người "ném đã giấu tay". Tuy nhiên, nếu xúi dục
trẻ em dưới 14 tuổi phạm tội, người không có năng lực trách nhiệm hình sự thực
hiện tội phạm, thì hành vi xúi dục được coi là hành vi thực hành thông qua hành
vi của người không chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này, người không
phải chịu trách nhiệm hình sự trở thành công cụ để người xúi dục thực hiện tội
phạm. Nếu xúi dục trẻ em từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tội phạm thì người xúi dục
còn phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "xúi dục người chưa
thành niên tội phạm" (điểm n khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự ).
Trong trường hợp người xúi dục lại là người
tổ chức và cùng thực hiện tội phạm, thì họ trở thành người tổ chức và nếu xúi
người chưa thành niên tội phạm thì họ còn phải chịu tình tiết tăng nặng
"xúi dục người chưa thành niên tội phạm".
Hành vi xúi dục phải cụ thể, tức là người xúi
dục phải nhằm vào tội phạm cụ thể và người phạm tội cụ thể. Nếu chỉ có lời nói
có tính chất thông báo hoặc gợi ý chung chung thì không phải là người xúi dục
và không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của người thực hiện
tội phạm. Ví dụ: Nguyễn Quang T cùng ngồi uống nước với một số thanh niên.
Trong lúc uống nước, T nói: "Tao vừa đi qua Cảng thấy hàng về nhiều lắm,
đêm nay đứa nào bạo gan ra đó nhất định kiếm được". Trong số thanh niên
ngồi uống nước có Trần Quốc P và Đặng Văn V là những tên đã có nhiều tiền án,
tiền sự về tội trộm cắp, nghe T nói vậy, liền bàn nhau đến đêm ra Cảng trộm cắp
hàng. Khi bị bắt, P và V khai vì do T nói ở ngoài Cảng hàng về nhiều nên chúng
tôi mới bàn với nhau ra Cảng trộm cắp. Đúng là trong trường hợp này, T có
nói một câu như có vẻ xúi dục, nhưng câu nói của T không phải là nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến việc P và V trộm cắp. Mặt khác, T cũng không phải là
người xúi dục P và V trộm cắp, cũng không được P và V hứa chia tiền hoặc tài
sản nếu tộm cắp được.
Người giúp sức là người tạo
điều những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm. Trong
một vụ án có đồng phạm, vai trò của người giúp sức cũng rất quan trọng; nếu
không có người giúp sức thì người thực hiện tội phạm sẽ gặp khó khăn. Ví
dụ: Phạm Thị H hứa với Trần Công T sẽ tiêu thụ toàn bộ số tài sản nếu T trộm
cắp được. Do có sự hứa hện của H nên đã thúc đẩy T quyết tâm phạm tội vì T yên
tâm là tài sản trộmh cắp được đã có T tiêu thụ.
Người giúp sức có thể giúp bằng lời khuyên,
lời chỉ dẫn; cung cấp phương tiện tội phạm hoặc khắc phục những trở ngại cho
việc thực hiện tội phạm; hứa che giấu người phạm tội, phương tiện, xoá dấu vết,
hứa tiêu thụ tài sản do tội phạm mà có...
Hành vi tạo những điều kiện về tinh thần
thường được biểu hiện như: Hứa hẹn sẽ che giấu hoặc hứa ban phát cho người phạm
tội một lợi ích tinh thần nào đó như: hứa gả con, hứa đề bạt, thăng cấp, tăng
lương cho người phạm tội, bày vẽ cho người phạm tội cách thức thực hiện tội
phạm như: nói cho người phạm tội biết chủ nhà thường vắng nhà vào giờ nào để
đến trộm cắp, nói cho người phạm tội biết người bị hai hay đi về đường nào để
người phạm tội phục đánh...
Hành vi tạo điều kiện vật chất cho việc thực
hiện tội phạm là hành vi cung cấp phương tiện tội phạm như: cung cấp dao, súng,
côn gỗ, xe máy, xe ô tô... để người phạm tội thực hiện tội phạm.
Dù tạo điều kiện tinh thần hay vật chất cho
việc thực hiện tội phạm thì hành vi đó cũng chỉ tạo điều kiện dễ dàng cho việc
thực hiện tội phạm chứ người giúp sức không trực tiếp thực hiện tội phạm.
Hành vi tạo điều kiện cho việc thực hiện tội
phạm của người giúp sức cũng có thể là hành vi của người tổ chức, nhưng khác
với ngừơi tổ chức, người giúp sức không phải là người chủ mưu. cầm đầu, chỉ huy
mà chỉ có vai trò thứ yếu trong vu án đồng phạm. Nếu các tình tiết khác như
nhau thì người giúp sức bao giờ cũng được áp dụng hình phạt nhẹ hơn những người
đồng phạm khác.
Bộ luật Hình sự 2015 có những
sửa đổi, bổ sung phù hợp với tình hình phát triển kinh tế,
chính trị xã hội, những quy định về đồng phạm được quy đinh tại
Điều 17 Bộ luật Hình sự 2015:
1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở
lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
2. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng
phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.
3. Người
đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp
sức.
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện
tội phạm.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ
huy việc thực hiện tội phạm.
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ,
thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh
thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.
4. Người
đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người
thực hành.”
Về cơ bản quy định về đồng phạm của BLHS năm 2015 giữ nguyên so với quy định
tại BLHS năm 1999, có một số sửa đổi, bổ sung như sau:
Thứ
nhất: Điều 17 BLHS năm 2015 được quy định thành 04 khoản (BLHS năm
1999 là 03 khoản), khoản 2 của Điều 20 BLHS năm 1999 “2. Người tổ chức, người thực hành, người
xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm.
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện
tội phạm.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ
huy việc thực hiện tội phạm.
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ,
thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
Người giúp sức là người tạo những điều kiện
tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.”
Được sửa đổi thành khoản 3 của BLHS năm 2015 kết cấu được thay đổi như sau:
“3. Người
đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp
sức.
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện
tội phạm.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ
huy việc thực hiện tội phạm.
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ,
thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh
thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.”
Thứ hai: Khoản
3 Điều 20 BLHS năm 1999 được quy định thành khoản 2 Điều 17 của BLHS năm 2015.
Thứ ba: Điều
17 BLHS năm 2015 bổ sung thêm khoản 4 “Người
đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người
thực hành.”
Đồng phạm là một khái niệm pháp lý nói lên quy mô tội phạm, được thể hiện trong
một vụ án có nhiều người tham gia. Tuy nhiên, không phải cứ có nhiều người tham
gia là đồng phạm, mà nhiều người tham gia đó phải cố ý cùng thực hiện một tội
phạm, nếu có nhiều người phạm tội nhưng không cùng thực hiện một tội phạm thì
không gọi là đồng phạm. Giữa những người phạm tội đó có sự bàn bạc, thống nhất
trước khi thực hiện tội phạm hoặc có sự tiếp nhận về mặt ý chí giữa những người
phạm tội.
Chế định đồng phạm quy định trong Bộ luật hình sự có hai loại mà theo khoa học
luật hình sự gọi là đồng phạm giản đơn và đồng phạm phức tạp (phạm tội có tổ
chức).
Đồng phạm giản đơn là trường hợp
tất cả những người cùng thực hiện một tội phạm đều là người thực hành.
Phạm tội có tổ chức là hình thức
đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm
(khoản 2 Điều 17 Bộ luật hình sự) là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc,
cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện một tội phạm, dưới sự
điều khiển thống nhất của người cầm đầu và là một hình thức đồng phạm, có
sự phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia. Trong đó mỗi người thực
hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu.
Khoản 3 Điều 17 BLHS năm 2015 xác định người đồng phạm bao gồm người tổ chức,
người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.
Căn cứ để xác định vụ án đồng phạm:
Thứ nhất: căn cứ khách quan gồm căn cứ
vào số lượng người tham gia trong vụ án, căn cứ vào tính liên kết về hành vi
cùng thực hiện một tội phạm, căn cứ vào hậu quả do vụ án đồng phạm gây ra.
- Căn cứ và số lượng người trong vụ án: Điều 17 BLHS năm 2015 quy định trong vụ
án đồng phạm phải có từ hai người trở lên, những người này đều phải có đủ năng
lực trách nhiệm hình sự, đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của
Bộ luật Hình sự.
- Căn cứ vào tính liên kết về hành vi: Những người trong vụ án đồng phạm phải
cùng nhau thực hiện một tội phạm. Hành vi của người đồng phạm này liên kết chặt
chẽ với hành vi của người đồng phạm kia. Hành vi của những người đồng phạm phải
hướng về một tội phạm, phải tạo điều kiện, hỗ trợ cho nhau để thực hiện một tội
phạm thuận lợi, nói cách khác hành vi của đồng phạm này là tiền đề cho hành vi
của đồng phạm kia. Hành vi của tất cả những người trong vụ án đồng phạm đều là
nguyên nhân dẫn đến hậu quả tác hại chung của tội phạm.
- Căn cứ vào hậu quả tác hại: Hậu quả tác hại do tội phạm gây ra trong vụ án
đồng phạm là hậu quả chung do toàn bộ những người đồng phạm gây ra. Hành vi của
mỗi người trong vụ án đều là nguyên nhân gây ra hậu quả chung ấy, mặc dù có
người trực tiếp, người gián tiếp gây ra hậu quả tác hại. Đây là đặc điểm về
quan hệ nhân quả trong vụ án đồng phạm.
Thứ hai: Căn cứ chủ quan. Tất cả những
người trong vụ án đồng phạm phải có hình thức lỗi cố ý cùng thực hiện một tội
phạm. Tất cả họ đều thấy rõ hành vi của toàn bộ những người trong vụ án đều
nguy hiểm cho xã hội. Mỗi người đồng phạm đều thấy trước hành vi của mình và
hành vi của người đồng phạm khác trong vụ án đồng phạm là nguy hiểm, thấy trước
hành vi của tất cả những người đồng phạm đều là nguyên nhân dẫn đến hậu quả tác
hại. Vụ án có yếu tố đồng phạm khác vụ án thông thường do một người thực hiện ở
những điểm sau đây:
- Vụ án có yếu tố đồng phạm có hai người trở lên, còn vụ án khác chỉ có một
người thực hiện.
- Thông thường vụ án đồng phạm có tính chất, mức độ ngy hiểm hơn vụ án do một
người thực hiện.
- Vụ án đồng phạm có hình thức lỗi cố ý, còn vụ án do một người thực hiện có
thể cố ý hoặc vô ý.
- Hành vi của những người trong vụ án đồng phạm có sự liên kết chặt chẽ để cùng
thực hiện một tội phạm, còn hành vi của người phạm tội đơn lẻ không liên kết
với ai.
- Hậu quả tác hại trong vụ án đồng phạm là hậu quả chung do toàn bộ những người
đồng phạm gây ra, hậu quả tác hại trong vụ án do một người thực hiện là hậu quả
riêng do chính hành vi của người đó gây ra.
Qua thực tiễn nghiên cứu chế định đồng phạm theo quy định BLHS năm 2015, cho
thấy đồng phạm là việc những người phạm tội có sự bàn bạc thống nhất trước khi
thực hiện tội phạm hoặc có sự tiếp nhận về mặt ý chí tức là sự ăn ý, hiểu ý
giữa những người phạm tội mặc dù không có sự bàn bạc, thống nhất trước khi thực
hiện hành vi phạm tội, tuy nhiên không phải mọi trường hợp có sự tiếp nhận về
mặt ý chí đều là đồng phạm mà cần lưu ý một số vấn đề như sau:
Thứ
nhất: Theo Từ điển tiếng Việt thì “Ý chí là cái hình thành từ trong ý thức mà ra”, như
vậy, sự tiếp nhận về mặt ý chí là sự ăn ý, hiểu ý giữa những người phạm tội
trong việc thực hiện tội phạm mọi sự tác động về mặt khách quan dẫn đến hình
thành việc tiếp nhận ý chí trong đồng phạm thì đó không phải là sự tiếp nhận về
mặt ý chí.
Ví dụ: Ngày 13/5/2015 Nguyễn Văn A điều
khiển xe máy rủ Đào Hoàng B lên thành phố X chơi, khi đến ngõ số 3, đường M,
thành phố X thì A dừng xe máy lại và bảo B đứng chờ một lát để sang bên kia
đường mua nước, B ngồi trên xe máy đứng chờ A. Lát sau, A phá khóa lấy 01 chiếc
xe máy dựng bên đường chạy lại chỗ B đang đứng chờ nói “Mày đi theo tao?”, B
biết là A đã ăn trộm chiếc xe máy nên đi theo B. Sau đó A và B bị bắt, chiếc xe
máy được định giá là 5.000.000 đồng. Trong trường hợp trên có ý kiến cho rằng B
đã có sự tiếp nhận về mặt ý chí nên B là đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản.
Trong trường hợp này, hành vi của B có sự tiếp nhận về mặt ý chí tuy nhiên sự
tiếp nhận về mặt ý chí của B không phải hình thành từ trong ý thức mà có sự tác
động về mặt khách quan mới hình thành, tức là khi A sang bên đường B không biết
là A đi trộm cắp chiếc xe, B chỉ hiểu A trộm cắp tài sản và đi theo khi A nói “Mày đi theo tao?”. Như vậy, việc hình
thành sự tiếp nhận về mặt ý chí của B là có sự tác động về mặt khách quan nên B
không đồng phạm với A trong tội trộm cắp tài sản.
Thứ
hai: Thời điểm hình thành việc tiếp nhận ý chí: Việc tiếp
nhận về mặt ý chí nếu được hình thành sau khi hành vi phạm tội của người thực
hành đã hoàn thành không phải là đồng phạm.
Trong trường hợp trên, hành vi trộm cắp tài sản của A đã hoàn thành kể từ thời
điểm dịch chuyển tài sản một cách bất hợp pháp, sau khi hành vi trộm cắp tài
sản đã hoàn thành của A thì B mới có sự tiếp nhận về mặt ý chí. Như vậy, việc
tiếp nhận về mặt ý chí của B diễn ra sau khi tội phạm của A đã hoàn thành nên B
không phải là đồng phạm của tội trộm cắp tài sản được.
Các quy định của BLHS năm 2015 về đồng phạm mang tính kế thừa những quy định
của BLHS năm 1999, tuy nhiên việc vận dụng đúng khái niệm đồng phạm trong thực
tiễn tố tụng để giải quyết các vụ án là rất quan trọng./. |